Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của cơ chế thị trường, cạnh tranh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển, phát huy được hết tiềm năng của xã hội và của từng doanh nghiệp, các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và tìm cách thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này. Tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xét cho cùng là mở rộng thị trường, tăng doanh thu là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Do vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện. Công ty may xuất khẩu hoạt động trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tham gia thị trường có nhiều doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhưng nhờ có sự năng động và nhạy bén trong hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với những lợi thế mà Công ty có được, Công ty đã đứng vững và phát triển, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Công ty may xuất khẩu cần sử dụng các vũ khí cạnh tranh của mình có hiệu quả nhất.
57 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1087 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sức cạnh tranh và các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh ở Công ty may xuất khẩu trong thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
May mặc cùng với những chỉ tiêu, định hướng phát triển công nghiệp, định hướng đẩy mạnh xuất khẩu của văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trong chiến lược phát triển nghành công nghiệp May mặc nước ta đến năm 2010. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ là lấy mục tiêu xuất khẩu làm trọng tâm. Với mục tiêu đó từ việc phân rích thực trạng, tiềm năng và xu hướng phát triển công nghiệp may mặc Việt Nam trong những năm tới ngành May mặcViệt Nam đưa ra các chỉ tiêu có tính chất định hướng phát triển ngành công nghiệp may mặc cho toàn ngành như sau:
- Toàn ngành có mức tăng trưởng 13%/năm (vào năm 2005) và 14%/năm (vào năm 2010)
- Tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,5 đến 3 triệu lao động xã hội vào năm 2005, 4 - 4.5 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng 100USD/người/tháng
- Nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và năm 2010 thì tương đương với Hồng Kông và Thái Lan hiện nay.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt 5000 triệu USD năm 2005 và 8000 triệu USD năm 2010.
Mục tiêu phát triển ngành May mặc Việt Nam đến năm 2010
Số TT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
năm 2010
1
Vải thành phần
Triệu m2
1.330
2000
2
Sản phẩm may mặc
Triệu SP
780
1200
- Xuất khẩu
Triệu SP
510
820
- Nội địa
Triệu SP
270
380
3
Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
5000
8000
- Hàng may mặc
Triệu USD
3200
6000
4
Tỷ lệ nội địa hoá
Trên sản phẩm may
%
50
75
Ngoài ra, thị trường xuất khẩu sản phẩm may mặc đến năm 2005 của toàn ngành may mặc Việt Nam được dự báo như sau:
Dự báo thị trường xuất khẩu sản phẩm may mặc đến 2005.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
Tổng sản lượng xuất khẩu
Triệu SP
630
Trong đó
Triệu SP
- Xuất khẩu sang EU
Triệu SP
125
- Xuất khẩu sang SNG
Triệu SP
70
- Xuất khẩu sang Nhật Bản
Triệu SP
95
- Xuất khẩu sang Mỹ và Bắc Mỹ
Triệu SP
265
- Xuất khẩu sang các nước khác
Triệu SP
75
Kim ngạch xuất khẩu
Triệu SP
3000
(Nguồn: Quy hoạch phát triển Dệt - May Việt Nam đến 2005)
2 – Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty May Xuất Khẩu giai đoạn 2005 – 2010
2.1 - Về hoạt động xuất khẩu
Chiến lược "tăng tốc" của Công ty May Xuất Khẩu đặt ra từ nay cho đến năm 2010 là: Đưa sản lượng sản phẩm của công ty không ngừng tăng,kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên 40tỷ vào năm 2005 và 70tỷ năm 2010, trong đó hàng may mặc thời trang là một trong những mặt hàng chính đem lại kim ngạch cao cho Công ty. Với chiến lược mạnh mẽ này của Công ty, Công ty cũng phải có những kế hoạch phát triển riêng của mình để thực sự trở thành một thành phần đắc lực về xuất khẩu hàng may mặc thời trang trong thời kỳ 2000 - 2010.
Quán triệt đường lối của Đảng, góp phần ổn định nền kinh tế, Công ty May Xuất Khẩu sẽ cố gắng khai thác triệt để tiềm năng, chuẩn bị hành trang để từng bước hội nhập khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh, tăng kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thêm tu nhập cho người lao động... Trên tinh thần đó, Công ty May Xuất Khẩu phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch như sau:
- Sản phẩm may quy chuẩn:
+ Năm 2005: 680.000sp
+ Năm 2010: 920.000sp
- Giá trị xuất khẩu hàng may :
+ Năm 2005: 40tỷ
+ Năm 2010: 60tỷ
Những con số trên chứng tỏ kế hoạch của Công ty là rất táo bạo, báo hiệu cho một thời kỳ tăng tốc phát triển cho toàn nghành may mặc cũng như góp thêm sức mạnh cho nghành may mặc thực hiện tốt những mục tiêu trong chiến lược "tăng tốc" của mình. Trước những mục tiêu đó Công ty yêu cầu các phòng phải lập kế hoạch kinh doanh cụ thể cho từng quý và cả năm. Đồng thời cụ thể hoá từng mặt hàng kinh doanh, chú ý tập trung vào những mặt hàng trọng điểm nhằm thực hiện tốt mục tiêu của Công ty. Ngoài ra ban lãnh đạo Công ty sẽ bàn các giải pháp xuất khẩu cho từng phòng, từng mặt hàng và hướng tới tất cả các phòng kinh doanh đều làm xuất khẩu. Từng phòng sẽ lên phương án kinh doanh, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động đó và các nhu cầu cần hỗ trợ từ phía Công ty.
Để tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của Công ty, Công ty đã đưa ra phương hướng khai thác nguồn nguyên liêu, nguồn hàng từ nhiều phía để chuyển dịch sang hình thức FOB, đưa ra giá cạnh tranh trên thị trường.
2.2 - Về phát triển thị trường
Trong thời đại ngày nay khi ngành may mặc rất phát triển và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì nhiệm vụ hàng đầu của mỗi doanh nghiệp là luôn luôn phải giữ vững những khách hàng truyền thống, đồng thời phải tích cực trong công tác thu hút thêm khách hàng mới. Mở rộng, phát triển thị trường là hình thức làm tăng thêm khách hàng cho Công ty, tạo thêm tên tuổi, nhãn mác về hàng hoá cũng như chính Công ty trên những thị trường mới, khách hàng mới. Thông qua đó danh tiếng của Công ty sẽ có được biết đến một cách rộng rãi hơn. Mức độ quen thuộc sẽ tăng lên và từ đó có thể làm thay đổi nhãm mác hàng hoá tiên dùng của họ.
Đối với Công ty, thị trường chính về hàng may mặc thời trang hiện nay là EU, Canađa, Đài Loan, Đông Nam Á, Mỹ... trong những thị trường này, thị trường EU, Ca na đa và Đài Loan là những thị trường ổn định và có xu hướng tăng nhanh. Kim ngạch của những thị trường này luôn chiếm tỷ trọng chính trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Số lượng các nước thuộc khu vực này nhập khẩu hàng hoá của Công ty cùng với kim ngạch nhập khẩu của họ tăng đều qua các năm, điều này chứng tỏ đây là một thị trường lớn và ngày càng lớn mạnh hơn nữa nếu ta biết cách thu hút sự quan tâm của họ trong hoạt động nhập khẩu. Vì những lẽ đó, cần duy trì và phát triển hơn nữa thị trường này.
Đông Nam Á và Mỹ là những thị trường mới của Công ty tuy có Kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng đây là những thị trường đầy triển vọng. Nhất là Mỹ, từ sau hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, mở ra một tương lai mới cho hàng may mặc nói chung và hàng may mặc thời trang nói riêng. Riêng Công ty luôn chú trọng nhiều vào thị trường Mỹ vì đây là thị trường có nhu cầu về hàng may mặc cao, chất lượng không phải là khâu quan trọng nhất trong yêu cầu của họ và giá cả hàng may mặc nhập khẩu cũng khá cao, tuy nhiên việc phát triển thị trường này sẽ gặp không ít khó khăn vì đến năm 2004 chế độ hạn ngạch sẽ được xoá bỏ và đối thủ Trung Quốc sẽ có cơ hội xuất khẩu nhiều hơn, khiến việc cạnh tranh của Công ty lại thêm phần gay gắt.
Ngoài những thị trường trên Công ty luôn cố gắng tìm thêm những thị trường mới khác nữa thông qua việc giới thiệu của những khách hàng cũ, qua mạng, qua báo chí và qua các nguồn thông tin khác. Theo dõi sát sao hạn ngạch phân bổ cho những nước nhập khẩu hàng hoá của Công ty, đồng thời khéo léo tìm thêm những nguồn hạn ngạch mới để đáp ứng số lượng hàng đã ký, khéo léo trong khâu thuyết phục khách hàng
2.3 - Về tổ chức, đào tạo
Trong lĩnh vực xuất khẩu Công ty luôn tập trung nâng cao trình độ nghiệp vụ trong hoạt động xuất khẩu và những yếu tố khác có liên quan. Công tác này bao gồm:
- Mở rộng các hình thức và nội dung đào tạo, mở rộng đối tượng đào tạo sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ tin học, ngoại ngữ, Marketing phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Củng cố, tăng cường đầy đủ nguồn nhân lực có trình độ, đủ khả năng đáp ứng nhanh nhất những yêu cầu của hoạt động kinh doanh, đồng thời đủ khả năng thiết kế mẫu và may mẫu chào hàng, khắc phục dần tình trạng bị động trong vấn đề mẫu mã.
- Tiếp tục đầu tư về nhân lực và sự chỉ đạo đối với phòng kế hoạch thị trường, đẩy mạnh các hoạt động MARKETING, thâm nhập thị trường trong và ngoài nước bằng các hình thức thông tin, quảng cáo, tham gia hội chợ hoặc tham quan trực tiếp... Mở rộng hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm xuất nhập khẩu.
- Có kế hoạch đào tạo nhân lực và cán bộ cho những năm tiếp theo cả về chuyên môn và lý luận chính trị. Không ngừng tăng cường phát huy sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, Chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho tổng công ty.
- Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần trang bị thêm những kiến thức về hệ thống chất lượng hàng hoá cho một số cán bộ của Công ty nhằm thực hiện tốt việc kiểm tra chất lượng hàng hoá tại nơi sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng, xây dựng thương hiệu của Công ty trên thị trường EU, Mỹ...
- Có kế hoạch tổ chức các cuộc hội thảo, nói chuyện về hoạt động kinh doanh của Công ty để mỗi cán bộ có thể thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó làm cho họ làm việc một cách có tâm huyết hơn với Công ty, có sự linh hoạt trong công việc.
- Đề khuyến khích cán bộ, công nhân viên làm việc có hiệu quả, trách nhiệm, Công ty cần có chế độ tiền lương thoả đáng, chế độ thưởng, phạt rõ ràng và những chế độ đãi ngộ khác như trợ cấp ốm đau, nghỉ phép, đi nghỉ mát...
3 - Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang
Công cuộc cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang của Công ty trong tương lai ngày càng có nhiều khó khăn, thách thức. Để đứng vững trong guồng quay liên tục, nền kinh tế thị trường hiện nay và nhất là trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang thì Công ty cần có những phương hướng cụ thể nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nhìn lại những gì mình đã đạt được qua những hướng đi, việc làm cụ thể trong những năm qua, tình hình cạnh tranh hàng may mặc thời trang trong hoạt động xuất khẩu trên thị trường hiện tại và tiềm năng, nội lực của mình Công ty sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra những phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh mới cho những năm tiếp theo.
Khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp như chúng ta đã biết là phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nên Công ty cần quan tâm đến tất cả những yếu tố đó. Tuy nhiên mức độ quan trọng của chúng có thể là không giống nhau.
Thứ nhất: Về chất lượng hàng may mặc thời trang xuất khẩu trong thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục nâng cao để ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng, tạo ra lợi thế mạnh về chất lượng so với các đối thủ trong nước và cố gắng theo kịp một số đối thủ mạnh trên thế giới xuất khẩu. Hiện nay chất lượng sản phẩm hàng may mặc thời trang xuất khẩu của Công ty chưa cao, chỉ thâm nhập vào đoạn thị trường cấp trung bình và thấp trong các năm tới sẽ cố gắng nâng cao chất lượng để thâm nhập vào một số thị trường cao hơn. Sở dĩ Công ty có đưa ra mục tiêu như vậy vì ngày nay khi đang tiến dần vào thị trường tự ho hoá, chất lượng sản phẩm được xem là lợi thế cạnh tranh cơ bản, là chìa khoá để đảm bảo sự hội nhập vững chắc vào thị trường thế giới và khu vực.
Thứ hai: Cùng với việc nâng cao chất lượng thì yếu tố mẫu, mốt cũng là một nhân tố tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ cho hàng hoá của Công ty trên thị trường thế giới. Vì vậy, để việc nghiên cứu mẫu mốt phát triển thực sự trở thành vũ khí sắc bén Công ty đã có những kế hoạch tập trung cho công tác này như tuyển thêm cán bộ làm công tác thiết kế mẫu. Công ty đang hướng tới việc tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu riêng của Công ty, có chất lượng tốt mẫu, mã đẹp, được nhiều khách hàng ưu thích. Phát triển tốt công tác này là một điều kiện giúp phát triển Công ty theo hướng tự chủ, không phụ thuộc vào nhà máy sản xuất cũng như khách đặt hàng nước ngoài. Nhờ đó có thể nâng cao khả năng kinh doanh của Công ty, nhanh chóng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Thứ ba: Nếu như việc nâng cao chất lượng hàng hoá, không ngừng thay đổi mẫu mã hàng hoá kéo theo việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mốt không hẳn đồng nghĩa với việc nâng cao giá. Yếu tố giá cả là một yếu tố rất nhạy bén với rất nhiều khách hàng nên Công ty phải đưa ra mức giá có tính cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này có tính chất tổng hợp vì nó liên quan đến nhiều khâu, nhiều công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá. Trong thời gian tới Tổng công ty sẽ tập trung khai thác, tìm kiếm thêm những nguồn vải tốt, giá cả phải chăng để sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời thông qua các công tác nhập khẩu để có được một số loại nguyên liệu, phụ liệu, thuốc nhuộm và hoá chất mà trong nước không có hoặc có giá bán cao để phục vụ cho việc gia công hàng xuất khẩu. Tựu chung của những việc làm này là để có được những hàng hoá khi đưa ra thị trường có giá cả phù hợp với chất lượng, phù hợp với nhu cầu khách hàng và có khả năng trở thành một vũ khí cạnh tranh tốt cho Công ty.
Thứ tư: Đẩy mạnh công tác xúc tiến, tiếp thị để giữ khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới. Hàng năm Công ty sẽ trích ra một phần kinh phí hỗ trợ cho các đoàn đi thăm qua hội chợ triển lãm ở trong nước và nước ngoài, để giới thiệu, chào bán hàng hoá. Dự kiến trong năm nay Công ty sẽ ra đời cửa hàng bán quần áo, đồng thời trưng bày những mặt hàng xuất khẩu của Công ty để giới thiệu cho khách hàng. Ngoài ra, Công ty sẽ đẩy mạnh công tác thị trường, phát triển mạng lưới thông tin để có được những thông tin cần thiết về nhu cầu, thị hiếu khách hàng, về tình hình biến động của thị trường xuất khẩu, về chủ trương, chính sách của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc một cách nhanh chóng, cập nhật nhất.
Thứ năm:Đảm bảo cung cấp hàng hoá cho khách hàng theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời gian, địa điểm giao hàng. Tạo điều kiện thật thuận lợi cho khách hàng trong việc vận chuyển, thanh toán. Những việc làm này sẽ tạo ra tâm lý thoải mái, tin tưởng cho khách hàng khi làm việc với Công ty, từ đó có thể nâng cao niềm tin, uy tín, hình ảnh của Công ty với khách hàng - đây là một trong nhưng yếu tố nhằm giữ khách hàg truyền thống và lôi kéo khách hàng mới cho Công ty.
Thứ sáu: Để nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thời trang của Công ty, cùng với những việc làm trên đây công tác tài chính của Công ty sẽ góp thêm một phần vào mục tiêu đó. Công tác tài chính sẽ cần được chú trọng hơn nhằm cân đối hợp lý các quỹ, nguồn vốn và chi phí để ưu tiến phục vụ mục tiêu mũi nhọn của Công ty trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
II - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY MAY XUẤT KHẨU
1 - Về phía Công ty
1.1 - Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động Marketing, mở rộng thị trường xuất khẩu
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh và phát triển thì cũng có nghĩa là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường. Mặt khác, hiện nay đang là thời điểm mà ngành may mặc cũng đang có sự phát triển mạnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu ngày càng gia tăng thì cục diện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Bởi vậy, đẩy mạnh hoạt động marketing là vấn đề cấp thiết, nhất là đối Công ty. Trong thời gian qua hoạt động này đã được thực hiện nhưng còn quá đơn giản do phòng kế hoạch thị trường quản lý nhưng để theo kịp với tình hình cạnh tranh hiện nay thì hoạt động này cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
1.1.1 – Tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu khách hàng.
Tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu khách hàng là một nhiệm vụ tất yếu Công ty cần thực hiện, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt này.
Trong nền kinh tế hàng hoá thì thị trường là nơi đánh giá cuối cùng của sản phẩm của nhà sản xuất, hàng hoá của nhà kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của họ. Do đó để tồn tại và phát triển thì việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là làm tốt công tác nghiên cứu thị trường để có thể tung ra những sản phẩm, hàng hoá mà thị trường cần. Hoạt động này giúp doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu, giá cả, dung lượng của thị trường. Công ty hiện nay đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty phải tổ chức tốt nghiên cứu và khai thác tốt cả thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng. Cụ thể, để chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng với giá cả hợp lý, chất lượng phù hợp cho từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia, Công ty cần tập trung vào việc phân tích nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu. Vì vậy để nắm bắt được tình hình của thị trường nước ngoài, Công ty cần tiến hành mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài và cử đại diện ở các nước có mối quan hệ làm ăn với Công ty điều tra nhu cầu về thị trường đó, tạo ra các mẫu, mốt ăn khách, hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Tuy nhiên, để thực được những việc trên không phải là dễ dàng vì nó rất tốn kém và khá phức tạp. Vì thế Công ty có thể nghiên cứu thị trường một cách gián tiếp hay còn gọi là nghiên cứu tại bàn những nhu cầu,thị hiếu đó. Thông qua một số tài liệu nói về phong tục tập quán trong cách ăn mặc, về nền văn hoá của đất nước sẽ giúp ta có thể hình dung được quan niệm về thời trang trong con mắt của họ. Cộng thêm vào đó là các tạp chí thời trang của họ để nhận thấy xu hướng về cách ăn mặc trong thời gian tới. Hiện nay hệ thống thông tin Internet rất phát triển nên việc nghiên cứu khách hàng qua mạng là rất đơn giản và ít tốn kém. Qua các thông tin về khách hàng đã thu thập được từ những nguồn trên Công ty có thể nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu khách hàng cũ, đồng thời tìm thêm được một số khách hàng mới mà nhu cầu của họ Công ty có thể đáp ứng được. Những mặt hàng truyền thống luôn là những mặt hàng trọng điểm nhưng qua nghiên cứu Công ty cần nhạy bén hơn để đưa ra những sản phẩm mới mà thị trường có nhu cầu và khả năng của Công ty có thể đáp ứng được. Ngoài ra cần nghiên cứu để dự báo nhu cầu đối với từng loại mặt hàng như áo Jacket, áo sơ mi, quần âu.. để việc nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt, Công ty nên thường xuyên cử các đoàn đi tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm thêm các đối tác mới, tạo quan hệ mật thiết với các bạn hàng quen thuộc. Đồng thời, Công ty nên vận dụng lợi thế về vị trí địa lý của mình là nằm trên địa bàn thủ đô, gần với các văn phòng đại diện, sứ quán nên có thể cử các cán bộ của mình đến tận nơi chào hàng và gặp gỡ thương vụ của các nước nhằm tìm hiểu nhu cầu của họ. Ngoài ra, Công ty nên thông qua các trung tâm tư vấn, ngành, trung tâm thương mại công nghiệp để có những lời khuyên và môi giới về sản phẩm mới, kiểu cách mới, đối tác mới, thị trường mới.
Hoạt động nghiên cứu thị trường còn phải thu thập được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng về hàng hoá của Công ty mình về tất cả các yếu tố như chất lượng, giá cả, mẫu mã, các phương thức thanh toán, giao hàng, dịch vụ trước, trong và sau khi bán... nhưng những thông tin này là một tài liệu rất quý cho Công ty vì từ đây Công ty có thể biết được những mặt tốt lẫn khuyến điểm của mình và lấy đó làm căn cứ để lần sau có thể sửa chữa, giúp cho nhau những sản phẩm lần sau được hoàn thiện hơn.
1.1.2 - Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu, phân tích, đánh gia đối thủ cạnh tranh là công việc hết sức quan trọng mang tính chiến lược của bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường vì qua đó có thể thấy được khả năng cạnh tranh hiện tại của chính Công ty so với các đối thủ. Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh phải trả lời được các vấn đề sau:
+ Số lượng đối thủ cạnh tranh của Công ty là bao nhiêu ?.
+ Đối thủ cạnh tranh chính của Công ty là ai?.
+ "Thủ lĩnh" trên thị trường là ai? và lý do thành công của họ.
+ Thị phần của họ trên thị trường là bao nhiêu?
+ Các yếu tố: Chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, phương thức quảng cáo, dịch vụ của họ có gì khác với Công ty mình.
+ Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì?.
+ Điểm mạnh, điểm yếu của họ?.
+ Các biện pháp mà họ áp dụng để thâm nhập thị trường và mở rộng?.
Từ những phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh Công ty sẽ được cái nhìn tổng quát hơn về đối thủ cũng như chính bản thân mình và qua đó Công ty sẽ đưa ra được những chiến lược sáng suốt, hợp lý phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
1.1.3 - Đẩy mạnh hoạt động khuyếch trương, quảng cáo
Các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương bao gồm các nội dung như: Quảng cáo, các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng, hội chợ triển lãm...được sử dụng dể thông tin về hàng hoá nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, giới thiệu về công ty, nâng uy tín của Công ty. Các hoạt động hỗ trợ bán là một trong những hoạt động quan trọng trong chính sách cạnh tranh của một doanh nghiệp vì đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ mà nó còn tăng cường cho các chính sách giá cả, phân phối.. nhằm tằng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường. Chi phí cho hoạt động quảng cáo xúc tiến thường rất lớn song hiệu quả của quá trình kinh doanh tăng lên rõ rệt. Do vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường cạnh tranh đều phải xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý, gây ấn tượng cho khách hàng. Đâu chính là những cuộc cạnh tranh phi giá giữa các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường. Công ty có thể tiến hành các hoạt động khuyếch trương theo các hướng sau:
* Mở rộng hoạt động quảng cáo cho những sản phẩm của Công ty, đặc biệt là những sản phẩm mang nhãn hiệu đặc biệt. Hoạt động quảng cáo được thực hiện nhằm tạo ra sự chú ý của khách hàng và thông tin cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Công ty cần xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn, kích thích sự chú ý của khách hàng thông qua các phương tiện thông tin như: Báo chí, mạng Internet... nhằm giới thiệu cho các đối tượng khách hàng hiểu rõ về sản phẩm và danh tiếng của Công ty. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất quốc tế, khách hàng là những người ở những quốc gia khác nhau nên việc quảng cáo là rất khó, Công ty phải lập trang web phục vụ cho công tác quảng cáo. Đối với những khách hàng đã từng biết đến Công ty thì việc quảng cáo qua mạng mới có hiệu quả, còn đối với những khách hàng mới chưa hề biết đến tên tuổi, hàng hoá của công ty thì trang web của Công ty chưa chắc đã được họ quan tâm. Vì lý do đó, Công ty nên quảng cáo các sản phẩm của mình qua cách trình bày trên bao bì, nhãn hiệu sản phẩm vì bao bì là một trong những phương tiện quảng cáo hữu hiệu... trên các nhãn mác cần ghi rõ:
- Tên, ký hiệu hàng hoá, phân loại theo các chỉ tiêu quốc tế nào.
- Tên, địa chỉ Công ty.
Mặc khác, bao bì là hình thức bên ngoài của sản phẩm, nó góp phần làm tăng thêm độ sang trọng, lịch sự của sản phẩm nên có luôn được tiêu dùng chú ý khi lựa chọn sản phẩm ,vì thế Công ty nên quan tâm nhiều hơn nữa đến độ tiện lợi, bền đẹp, lịch sự của bao bì.
* Công ty nên duy trì tổ chức các hoạt động như hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm, đặc biệt là những hội chợ ở nước ngoài, in ấn, phát hành các tài liệu về Công ty, về sản phẩm của mình như ra đời catologue, tờ rơi quảng cáo.
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, quảng cáo, khuyếch trương sẽ góp phần đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu, tăng sức mạnh về cạnh tranh, tăng thị phần của Công ty trên thị trường. Tuy nhiên khi thực hiện các hoạt động này, Công ty cần tính toán sao cho chi phí bỏ ra phải phù hợp với tình hình tài chính cũng như tương xứng với doanh thu thu được của mình. Vì hiệu quả kinh doanh có được là nhờ rất nhiều yếu tố cần phân bổ đều chi phí cho nhiều hoạt động nên chưa hẳn đầu tư thật nhiều tài chính cho hoạt động này là tốt.
1.2 - Sử dụng chính sách giá cả một cách có hiệu quả
Để có một chính sách giá hợp lý cần phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh, nhu cầu thị trường, cạnh tranh, luật pháp. Chi phí sản xuất kinh doanh xác định giá sàn còn nhu cầu thị trường xác định mức giá giới hạn trên của sản phẩm (giá trần). Luật pháp và chính trị hạn chế khả năng tự do định giá của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó việc xây dựng một chính sách giá cả cần có các biện pháp sau:
- Tìm những nguồn nguyên liệu rẻ trong và ngoài nước, tiến hành mua nhiều, để có giá rẻ, hạ thấp giá gia công nhờ việc tìm những nhà máy sản xuất có năng suất lao động cao, huy động vốn ở những nguồn vốn có chi phí thấp...
- Phân tích mức giá trên thị trường, đặc điểm, quan hệ, cung cầu, độ co giãn của cung cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường.
- Tính toán cơ cấu giá,
- Cần có các biện pháp khuyến khích về giá cho khách hàng với những khách hàng quên biết, khách hàng mua với số lượng lớn. Khách hàng mua thanh toán tiền ngay.
- Khi các định giá cần chú ý: không nên xác định giá quá cao hay quá thấp. Nếu mức giá cao ngay từ đầu sẽ khó bán được hàng. Nếu giá quá thấp sau này sẽ gặp khó có cơ hội tăng giá.
1.3 - Thực hiện đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu
Thực chất của đa dạng hoá xuất khẩu là quá trình mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm, tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Đa dạng hoá mặt hàng là cần thiết khách quan đối với mỗi doanh nghiệp, bởi vì:
- Ngày nay nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mà chu kỳ sống của sản phẩm được rút ngắn, doanh nghiệp cần có nhiều sản phẩm để thay thế hỗ trợ cho nhau.
- Nhu cầu thị trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, doanh nghiệp đa dạng hoá mặt hàng là nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận.
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì đa dạng hóa mặt hàng là một trong những biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh.
- Đa dạng hoá mặt hàng là khai thác và sử dụng tốt hơn năng lực, trình độ và sức lao động của cán bộ công nhân viên.
Trên cơ sở những lợi ích của việc đa dạng hoá mặt hàng, việc đa dạng hoá mặt hàng của công ty có thể thực hiện theo các hướng sau:
+ Với những hàng hoá có kim ngạch thấp Công ty vẫn duy trì xuất khẩu để phục vụ nhu cầu, giữ thị trường cũ. Tuy nhiên Công ty cũng cần xem xét để thu hẹp quy mô xuống mức hợp lý.
+ Tung ra thêm một số mặt hàng phục vụ nhu cầu ở các lứa tuổi khác nhau, nghề nghiệp khác nhau.
+ Ngoài những mặt hàng chủ lực cần tìm hiểu nhu cầu để đưa ra những mặt hàng may mặc khác.
1.4 - Nâng cao chất lượng hàng hoá và cải tiến công tác quản lý chất lượng
Chất lượng hàng hoá là vũ khí cạnh tranh quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và sử dụng nó để giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là phải nâng cao chất lượng hàng hoá và tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng vũ khí chất lượng, công ty không thể thực hiện các biện pháp như: đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoạn thiết kế, sản xuất... Do đó Công ty luôn có sự nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình sản xuất, trình độ tay nghề công nhân, mức độ hiện đại của máy móc, thiết bị, công nghệ...của các nhà máy sản xuất. Vì lẽ đó, những cán bộ trực tiếp thực hiện công việc này cần có những hiểu biết nhất định về vải vóc, hàng may mặc. Các tổ chức, hoặc gửi một số cán bộ đảm nhiệm công việc này tới các lớp đào tạo để nâng cao trình độ cho họ, đồng thời tiến hành thực hiện các biện pháp kinh tế như lương, thưởng, phạt... để tạo động cơ hành động và trách nhiệm cho những người này.
1.5 -Tổ chức tốt công tác nghiên cứu mẫu mốt
Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh hàng may mặc thời trang của công ty chưa cao là do trình độ thiết kế mẫu mốt còn thấp, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Hàng hoá xuất khẩu của công ty hầu hết là làm theo mẫu của khách hàng và chỉ cố gắng hoàn thiện sản phẩm sao cho thật giống mẫu.
Hiện nay công ty đã có phòng thiết kế, tạo mẫu và việc tạo mẫu cho hàng hoá cũng góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, do đó cần tập trung chú trọng vào khâu này để có được những sản phẩm không những có đặc trưng riêng về mẫu mã mà còn độc đáo cả về chất liệu vải, màu sắc... Vì thế để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh công ty cần:
- Quan tâm hơn nữa đến công tác thiết kế mẫu, mốt
- Đầu tư cho bộ phận thiết kế về trang thiết bị, thu hút lực lượng hoạ sỹ nghiên cứu mốt.
- Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ, năng lực của các nhân viên Marketing cho ngang tầm với nhiệm vụ, có khả năng dự báo trước được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng về hàng may mặc bằng cách cử họ đi học cá lớp về marketing do các chuyên gia trong nước hoặc nước ngoài giảng dạy.
- Cử các cán bộ thiết kế mẫu thời trang đi tham quan và học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ.
- Trước mắt, trong quá trình gia công cho khách hàng nước ngoài. Công ty có thể tìm hiểu làm quen với nhu cầu thị trường thế giới về mẫu thời trang.Trên cơ sở đó sản phẩm các mẫu mốt chào hàng phù hợp với thị hiếu của các thị trường đó.
Để thực hiện có hiệu quả việc nghiên cứu và thiết kế mẫu mốt đòi hỏi phải nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu hàng may mặc để có thể thiết kế được những mẫu sản phẩm phù hợp với từng thị trường. Vì thế việc thiết kế phải được căn cứ vào:
+ Trào lưu mẫu mốt trên thế giới.
+ Bản sắc văn hoá từng dân tộc, nhất là những quốc gia nhập khẩu hàng của công ty.
+ Điều kiện kinh tế, khí hậu của mỗi nước.
+ Chất liệu vải, phụ liệu may
+ Gam mầu.
+ Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt mỗi nước.
1.6 - Nâng cao trình độ người lao động
Thế kỷ 21 là thế kỷ của nền "văn minh trí tuệ", trong đó con người tri thức khoa học và công nghệ sẽ đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của đất nước và nói cụ thể hơn là quyết định sự thành công trong hoạt động của các công ty, xí nghiệp. Muốn phát triển mạnh mẽ trong tương lai, công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác thông tin và sự thay đổi nhu cầu giá cả thị trường, những nguyên nhân chính gây nên sự biến đổi đó. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Công ty. Đối với một cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu thì những đòi hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, về trình độ marketing, về ngoại ngữ... là những tiêu chuẩn không thể thiếu. Những yếu tố này thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Xác định được thị trường mục tiêu cho Công ty, sau đó phải định vị Công ty theo hướng xây dựng một mối liên kết chặt chẽ với thị trường này. Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng có chủ đích, đồng thời phải giữ chữ tín, nâng cao hình ảnh, uy tín của công ty.
- Có khả năng chiếm lĩnh thị trường và giữ vững thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng.
- Có khả năng lực chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của công ty.
- Có khả năng tìm những khe hở, tìm thêm nguồn hạn ngạch để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn.
- Tạo ra sự năng động trong kinh doanh, thích nghi với sự biến động của thị trường, tránh rủi ro trong kinh doanh và nắm bắt được cơ hội kinh doanh có lợi.
- Biết phân tích, đánh giá tổng hợp tình hình, đưa ra các thông tin tin cậy giúp cho việc vạch ra các chủ trương, chương trình hành động thích hợp. Thị trường may mặc thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau có sự khác nhau. Vì những nhiệm vụ đó nhân viên phòng xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết chuyên môn về ngành may.
Để có được những cán bộ có đầy đủ những yêu cầu trên công ty cần chủ động đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn giỏi gắn với thị trường. Hàng năm công ty cần có kế hoạch chi phí cho việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, quản lý hiện đại cho các cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài, tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một số hình thức nhằm đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ cho công ty hiện nay gồm:
- Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo dài hạn, nhất là đối với một số cán bộ trẻ có năng lực.
- Mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn từ hai đến ba tháng theo từng chuyên đề mang tính chất tập huấn những vấn đề mới có tính cấp thiết để kịp vận dụng vào công tác chỉ đạo, điều hành.
- Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm trong các lĩnh vực như quản lý, nghiệp vụ kinh doanh, khả năng marketing... để từ đó các cán bộ trong công ty có thể học hỏi lẫn nhau.
- Tạo điều kiện cho các cán bộ đi tham quan, khảo sát ở nước ngoài để học hỏi thêm kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Việc đào tạo và đào tạo lại không chỉ tập trung vào trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ... của cán bộ trong công ty mà còn phải giáo dục ý thức, tư tưởng văn hoá cho cán bộ công nhân viên tạo dựng được bầu không khí đoàn kết nhất trí nội bộ trong công ty, xây dựng công ty thành một khối thống nhất, xây dựng nếp sống văn minh, tạo nên một nền văn hoá riêng biệt cho công ty. Đây là một trong những tiền đề giúp cho công ty phát triển một cách bền vững và lâu dài.
Bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên, nếu có điều kiện công ty nên có chính sách thu hút những người có năng lực bằng cách lập quỹ học bổng trợ cấp cho sinh viên, phối hợp với các trường, các Viện nghiên cứu.. để đào tạo cán bộ ngay từ khi còn học Đại học.
1.7 - Mở rộng các mối liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là hiện tượng xã hội khách quan của nền kinh tế hàng hoá có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nó phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện những nhiệm vụ kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với các bên tham gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh thực hiện cạnh tranh thắng lợi các đối thủ khác. Liên kết kinh tế nhằm khai thác được các điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Để giành được thắng lợi và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, Công ty cần tiến hành các hoạt động liên kết sau:
- Cần tiến hành liên kết chặt chẽ hơn nữa đối với các đơn vị cung ứng nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động gia công hàng hoá xuất khẩu của công ty.
- Tiến hành liên kết với các đơn vị nước ngoài nhằm thu hút các nguồn lực, tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
- Liên kết với các tổ chức ngân hàng để thuận tiện trong việc thanh toán tiền hàng với khách hàng cũng như đối với các đơn vị cung cấp.
- Giữ mối quan hệ với các đơn vị vận chuyển, các đơn vị làm thủ tục xuất khẩu để hàng hoá của công ty lúc xuất khẩu được nhanh chóng, làm giảm chi phí lưu kho bãi, giao hàng đúng quy định của hợp đồng...
Ngoài ra cần có sự liên kết kinh tế, giữ quan hệ tốt giữa công ty với các đơn vị nước ngoài dựa trên hợp đồng kinh tế, giúp Công ty đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh xuất khẩu, tránh bị ép giá và các bất lợi khác.
1.8 - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chi phí, lợi nhuận
Qua việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc thời trang, chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp về quản lý chi phí, vốn, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của công ty:
Thứ nhất: Tiếp tục phát huy những thành công mà công ty đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề động lực cho các chỉ tiêu khác cùng vận động theo xu hướng tích cực, đảm bảo cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả. Để thực hiện tốt vấn đề này công ty cần có một số biện pháp sau:
- Tính toán hiệu quả kinh doanh, đầu vào các hoạt động kinh doanh có lãi.
- Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để có sự hỗ trợ nhau về vốn.
- Chủ động tạo nguồn như: Vay từ các tổ chức tín dụng, liên doanh liên kết...
- Hạn chế việc không thu hồi được hay việc bị chiếm dụng vốn để việc quay vòng vốn được nhanh: Tích cực giảm các khoản chi thu, vốn tồn đọng trong tay khách hàng. Muốn vậy trước khi ký hợp đồng công ty phải tìm hiểu rõ tình hình tài chính của khách hàng, tránh rủi ro có thể xảy ra.
- Tiếp tục giảm kỳ thu tiền trung bình để nâng cao tốc độ quay vòng vốn.
Thứ hai: Giải quyết những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề sử dụng vốn, giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng sức sản xuất, sức sinh lời của vốn cố định... Mặc dù một số các chỉ tiêu trên vận động theo chiều hướng tích cực nhưng thời gian qua tình hình kinh tế chính trị trong nước và khu vực luôn có nhiều biến động ảnh hưởng tới tỷ lệ doanh lợi/vốn chủ sở hữu, doanh lợi/ doanh thu... làm cho các chỉ tiêu này giảm xuống.
2 - Về phía nhà nước
Ngành may mặc hiện nay đang được Nhà nước khuyến khích phát triển và hoạt động xuất khẩu lại càng được coi trọng hơn nữa vì hàng năm nó đem lại kim ngạch xuất khẩu rất lớn cho đất nước. Tuy nhiên, sự cố gắng của công ty trong hoạt động xuất khẩu chỉ là một trong những yếu tố giúp công ty có được sức cạnh tranh trên thị trường, một yếu tố khác rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu chính là các chính sách về xuất khẩu của nhà nước Việt Nam. Vì thế về phía vĩ mô cần có những biện pháp tích cực giúp công ty nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình.
2.1 – Hoàn thiện chính sách đối với xuất khẩu hàng may mặc:
Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và có xu thế mở cửa để giao lưu buôn bán với thị trường quốc tế thì hoạt động xuất khẩu càng được coi trọng. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, nghị định nhằm khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu tạo sự thuận cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này. (Các nghị định như 57/1998/NĐ-CP, 114/HĐBT, 33/CP đã quy định các chính sách về xuất nhập khẩu, về thực hiện luật thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu...) Những nghị định này sẽ giúp các doanh nghiệp hiểu rõ những quy định, những sự ưu đẫi mà nhà nước đưa ra cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động này. Cụ thể như nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 ở điều 9 có quy định: " Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triểnvà mở rộng thị trường mới, và xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu"... Một công báo mới số 17 ngày 8/5/2001 đã được đưa ra trong đó có những quy định riêng về một số loại hàng hoá mà Nhà nước khuyến khích xuất khẩu những chính sách ưu tiên khi xuất khẩu những mặt hàng đó. Hàng may mặc một trong số nhữg mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu và theo công báo số 17 thì ' Bộ Thương mại chủ trì cùng các Bộ, nghành hữu quan và các nhà sản xuất lớn của Việt Nam tiến hành đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngạch đối với loại hàng hoá này " đồng thời các cơ quan trên cần xây dựng và ban hành các quy định chung thực hiện hạn ngạch hàng may mặc , công bố tỷ lệ hạn ngạch may mặc đấu thầu và tỷ lệ này phải tăng hàng năm để thay thế dần cho cơ chế phân giao hạn ngạch.
Tuy nhiên, bên cạnh những chính sách, nghị định trên trong một số chính sách khác còn có các quy định quá cứng nhắc, không gắn liền với thực tế của từng mặt hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động này. Vì thế ở đây em muốn đưa ra một số kiến nghị giúp cho các chính sách có phần linh hoạt hơn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với thị trường không hạn ngạch chúng ta nên bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến vì: Bộ Thương mại hiện nay quy định phải có hợp đồng cụ thể mới được làm giấy phép xuất khẩu. Thực tế đối với các quy định này các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc thường gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của hoạt động gia công. Khách hàng đến gia công có khi họ ký hợp đồng nhưng sau đó mới tìm hàng cụ thể. Mặt khác các doanh nghiệp May Việt Nam nhận may gia công thường phải qua khâu trung gian nên có nhiều khoản trong hợp đồng chưa xác định ngay được, chẳng hạn như thời hạn giao hàng, nhãn hiệu, mẫu mã... có trường hợp sau khi nhập nguyên liệu về mới biết hàng sản xuất, hoặc phải thoả thuận thêm các điều khoản khác gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do các quy định hiện hành nên buộc hai bên phải ký một hợp đồng chung mang tính đối phó. Vì vậy, cấp giấy phép xuất khẩu căn cứ theo hợp đồng nhiều khi chưa phản ánh đúng được con số thực. Đây là một vấn đề mà các cơ quan quản lý cần nghiên cứu để sửa đổi cơ chế xuất khẩu cho phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc.
Về thời gian cấp giấy phép hiện nay là 4 ngày, song so với nhu cầu kinh doanh hiện nay là còn quá lâu. Vì vậy trong trường hợp này, nhà nước nên xem xét bỏ quy định giấy phép xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp đồng thời đảm bảo được thời gian giao nhận hàng.
2.2 – Cải tiến chính sách thuế
Chính sách thuế cần hợp lý để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp May mặc nói chung và Công ty May Xuất Khẩu nói riêng.
Chính sách thuế đối với hàng may mặc trong thời gia qua còn bất hợp lý với thời gian quy định cho hàng tạm nhập tái xuất và hàng bán đứt (Hàng FOB) phải nộp thuế trong vòng 90 ngày là quá ngắn, bởi lẽ từ khâu ký kết hợp đồng mua nguyên vật liệu sản xuất và xuất khẩu khó thực hiện trong thời gian đó. Đối với hàng gia công còn phụ thuộc vào khách hàng, còn hàng FOB thì phải tự túc từ khâu đầu đến lúc xuất hàng đi, thì thời hạn đó quá ngắn vì nó còn liên quan đến vốn của doanh nghiệp. Khi quá 90 ngày chưa xuất khẩu hàng hoá thì doanh nghiệp phải vay ngân hàng chịu lãi suất để tạm nộp thuế và như vậy lại đẩy giá thành lên, làm giảm khả năng cạnh tranh về giá đối với hàng xuất khẩu.
Bên cạnh đó, hàng may mặc sử dụng nguyên liệu trong nước bán ra nước ngoài phải chịu mức thuế không hợp lý, thuế chồng thuế. Để khuyến khích sản xuất và làm tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp hàng may mặc xuất khẩu, Nhà nước nên miễn thuế các nguyên liệu, phụ liệu sản xuất, các chủng loại thay thế nhập khẩu để làm hàng phục vụ xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể bán ngang hoặc thấp hơn giá sản phẩm cùng chủng loại và tạo cho ngành may xuất khẩu theo phương thức FOB.
Theo Quyết định tại Điều 8 Luật thuế GTGT và Điều 7 Nghị định số 28/1998/NĐ-CP của Chính phủ, thuế suất thuế GTGT là 0% được áp dụng đối với các mặt hàng hoá xuất khẩu. Đây là một quy định nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu nói chung và hàng may mặc xuất khẩu nói riêng. Tuy nhiên hàng may mặc xuất khẩu cũng giống như nhiều hàng hoá xuất khẩu khác vẫn phải chịu thuế xuất khẩu, thuế suất thuế xuất khẩu tuỳ theo từng mặt hàng và mức độ ưu tiên của nó. Hàng may mặc xuất khẩu hiện nay chịu mức thuế suất ưu đãi là 50% và thuế suất thường là 75%. Mức thuế này như vậy là tương đối phù hợp nhưng để khuyến khích hơn nữa hoạt động xuất khẩu Nhà nước cần nghiên cứu để có thể đưa ra một mức thuế thấp hơn, Ngành May mặc Việt Nam đang trên đà phát triển và nhất là với chiến lược " tăng tốc " trong những năm tới thì sản phẩm của ngành ngày càng nhiều với chất lượng, mẫu mốt cao hơn, giá cả thấp hơn. Nếu hoạt động xuất khẩu không được chú trọng hơn nữa thì sản phẩm sản xuất ra sẽ không tiêu thụ hết ở thị trường trong nước, gây ứ đọng hàng hoá, dẫn đến ứ đọng vốn... nên việc đẩy mạnh xuất khẩu là rất càn thiết. Ngoài ra hoạt động này hàng năm đem lại cho đất nước một mức Kim ngạch xuất khẩu cao nhất trong toàn ngành công nghiệp và trên hết là nó giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động lớn trong nước. Nhà nước đứng trên phương diện vĩ mô nên bất cứ một vấn đề nào cũng phải xem xét trên mọi khía cạnh,cả về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội và vấn đề giảm thuế xuất khẩu là một trong những cách thức giải quyết theo hướng đó.
2.3 – Hoàn thiện chính sách tỷ giá
Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái là hết sức quan trọng, trong đó mục tiêu của chính sách tỷ giá trong thời gian tới là thường xuyên xác lập và duy trì tỷ giá ổn định và phù hợp, dựa trên sức mua thực tế của đồng Việt Nam so với các ngoại tệ, phù hợp với cung cầu của thị trường, đảm bảo sự ổn định kinh tế đối nội và tăng trưởng kinh tế đối ngoại là hết sức cần thiết.
Chính sách tỷ giá hối đoái từ khi được Chính phủ thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá giữa đồng USD và đồng Việt Nam thì đã có sự linh hoạt hơn phần nào, đã khép lại khoảng cách giữa tỷ giá quy định của Ngân hàng Trung ương với thị trường tự do, song cần linh hoạt hơn nữa (không nên định giá cao đồng nội tệ). Tuy nhiên, không nên áp dụng các biện pháp điều chỉnh đột ngột sẽ gây ra những cú sốc mà cần đi sát với thị trường, nhằm khuyến khích xuất khẩu và đảm bảo sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.
Trước đây, khi nền kinh tế nước ta trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tỷ giá có sự ưu tiên đối với hàng xuất khẩu. Nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì tỷ giá được xác định chung cho toàn bộ các hoạt động kinh doanh trong toàn nền kinh tế. Việc chuyển đổi chính sách tỷ giá như vậy cũng có cả hai mặt ưu, nhược của nó. Ta có thể thấy, khi áp dụng chính sách tỷ giá chung như vậy thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sẽ phải linh động hơn, có tinh thần trách nhiệm cao hơn đối với việc kinh doanh của chính mình vì không còn được sự ưu đãi trong tỷ giá, qua đó có thể tạo thêm tính tự lập cho doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó đôi lúccũng có nững bất cập. Chẳng hạn như khi tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng ngoai tệ thấp, tức là định giá cao đồng nội tệ và hoạt động xuất khẩu không có sự hỗ trợ nào khác thì chắc hẳn hoạt động xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm. Sở dĩ như vậy vì khi xuất khẩu chúng ta sẽ thu ngoại tệ về và với tỷ giá thấp thì khi đổi ra đồng nội tệ thì giá trị thu lại của ta sẽ thấp. Do đó, Nhà nước cần có những chính sách về tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu khi tỷ giá hối đoái của các Ngân hàng ngoại thương tăng cao.
2.4 – Hoàn thiện chính sách tín dụng
Trong giai đoạn hiện nay tình hình cạnh tranh ngày càng khó khăn, phức tạp thì việc nắm bắt cơ hội trong kinh doanh là rất quan trọng. Đó là một trong những điều tạo nên thành công trong kinh doanh của Công ty. Các thời cơ kinh doanh, cơ hội hấp dẫn đối với Công ty là rất hiếm và mỗi cơ hội chỉ đến một lần, vì thế khi có Công ty cần nắm bắt ngay thì mới có thể thắng được các đối thủ. Nếu Công ty không có đủ vốn phục vụ cho thương vụ kinh doanh đó thì cơ hội sẽ bị bỏ lỡ, các doanh nghiệp khác sẽ chiếm lấy cơ hội đó và đồng thời có thể dẫn tới mất khách, mất khả năng cạnh tranh sau này của Công ty. Do vậy để giúp Công ty có được những thuận lợi trong kinh doanh cần có sự trợ giúp của các tổ chức tín dụng thông qua các chính sách tín dụng của Nhà nước như:
- Nhà nước cần có các ưu đãi tín dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, đảm bảo đủ lượng vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu dài hạn thấp.
- Nhà nước nên khuyến khích việc thông qua các tổ chức ngân hàng Thương mại quốc doanh thực hiện cơ chế bảo lãnh tiền vay, chứng từ thương mại, phương pháp thanh toán tiền mua, bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế và bảo lãnh hợp đồng cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động, nang cao sức cạnh tranh hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường thế giới.
- Theo dõi sát sao tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với ngoại tệ để kịp thời chỉ đạo các phương án điều chỉnh tỷ giá, lãi suất, vừa đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia, vừa có lợi trong việc thúc đẩy xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng may mặc nói riêng
Song song với vấn đề trên, một vấn đề khác mà các doanh nghiệp quan tâm là thủ tục về vay vốn: Thủ tục vay phải đơn giản, nhanh chóng và thuận lợi cho doanh nghiệp thời mới giúp được những doanh nghiệp thiếu vốn nhanh chóng vay được số vốn mình cần. Nhưng hiện nay thủ tục vay vốn của nước ta quá rườm rà, đòi hỏi quá nhiều thủ tục, giấy tờ. Có lúc rất cần vốn nhưng lúc hoàn thành xong thủ tục thì thương vụ kinh doanh đã lỡ. Mặt khác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất nhiều và kể cả trong các ngân hàng thương mại cũng vậy nhưng người cần thì vẫn không có còn vốn trong các ngân hàng thương mại thì lại bị " đóng băng " không cho vay được. Đây là một thiệt hại lớn đối với nền kinh tế đất nước mà nhà nước cần nhanh chóng khắc phục. Cần bỏ bớt nhữngthủ tục, giấy tờ không cần thiết giúp các doanh nghiệp đáp ứng được kịp thời nhu cầu về vốn. Cần có sự linh hoạt hơn nữa trong khâu thẩm định dự án cho vay vốn để tranh đánh mất những cơ hội đem lại lợi nhuận cao hoặc mang tính chiến lược của các doanh nghiệp
Bên cạnh đó. Nhà nước cần hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp May mặc cũng như thông qua công cụ lãi suất. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung cũng như công ty đều phải đi vay vốn ngân hàng để tiến hành hoạt động kinh doanh đầu tư vào quá trình sản xuất.... ở Công ty, khi các hợp đồng gia công có chu kỳ sản xuất lâu, phải tạm nộp thuế nhập khẩu thì Công ty sẽ tiến hành làm các thủ tục vay vốn ngân hàng để nộp thuế. Lãi xuất hàng tháng mà Công ty phải trả cho ngân hàng thường biến động qua những giai đoạn khác nhau. Hiện nay lãi suất vay ngân hàng của Công ty là từ 0,65 - 0,7%/tháng. Lãi suất này tuy có thấp hơn nhưng với một khoản tiền vay lớn thì số tiền trả lãi lại khá lớn
KẾT LUẬN
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của cơ chế thị trường, cạnh tranh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển, phát huy được hết tiềm năng của xã hội và của từng doanh nghiệp, các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và tìm cách thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này. Tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp xét cho cùng là mở rộng thị trường, tăng doanh thu là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Do vậy, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất yếu mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện. Công ty may xuất khẩu hoạt động trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tham gia thị trường có nhiều doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nhưng nhờ có sự năng động và nhạy bén trong hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với những lợi thế mà Công ty có được, Công ty đã đứng vững và phát triển, giành thắng lợi trong cạnh tranh. Công ty may xuất khẩu cần sử dụng các vũ khí cạnh tranh của mình có hiệu quả nhất.
Chuyên đề là kết quả nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực tế, thực trạng cạnh tranh của Công ty may xuất khẩu trên thị trường. Em hy vọng các giải pháp sẽ có ích trong việc đề ra chiến lược cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8135.doc