Đề tài Tác động qua lại giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế

TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 1. Khái niệm và phân loại đầu tư 2. Phân loại đầu tư phát triển 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư II. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Khái niệm 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG Đầu tư tác động đến tăng trưởng Đầu tư tác động đến quy mô của tăng trưởng Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa 1.2.2. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ 1.2.3. Đầu tư phát triển chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước 2. Tăng trưởng tác động đến đầu tư 2.1. Tăng trưởng góp phần cải thiện môi trường đầu tư 2.1.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, năng lực công nghệ 2.1.2. Tăng trưởng kinh tế góp phần cải thiện nguồn nhân lực 2.1.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần ổn định chính trị-xã hội 2.2. Tăng trưởng kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp thêm vốn cho đầu tư PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2010 1. Tình hình huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư 2. Tình hình tăng trưởng kinh tế từ năm 1986 đến năm 2010 II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1. Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế 1.1. Đầu tư tác động đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế 1.1.1. Đầu tư tác động đến tổng cung tổng cầu 1.1.2. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế 1.2. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng 1.2.1. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1.2.2. Đầu tư tác động đến trình độ khoa học kỹ thuật 1.2.3. Đầu tư tác động đến năng suất lao động 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước Tác động ngược trở lại của tăng trưởng kinh tế với đầu tư Tăng trưởng là điều kiện để cải thiện môi trường đầu tư Tăng trưởng tạo tích lũy và tăng cường vốn cho đầu tư III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ưu điểm Nhược điểm PHẦN III:GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ I. MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN 2020 1. Mục tiêu tổng quát 2. Các chỉ tiêu 3. Phương hướng đầu tư II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư 2. Phân bổ và sử dụng vốn hiệu quả 2.1. Nguồn vốn trong nước 2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước 2.1.2. Vốn Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân 2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI) 2.2.1. Vốn ODA 2.2.2. Vốn FDI 3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 4. Đổi mới công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO ĐIỀU KIỆN THU HÚT VỐN PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ 1. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước 2. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 2.1. Giải pháp thu hút FDI 2.2. Giải pháp thu hút ODA LỜI KẾT TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2050 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động qua lại giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30,87 2007 58,75 14,89 26,36 Bq 2001-2005 54,08 21,04 24,81 Bq:2000-2007 55,58 19,25 25,16 Bq 2006-2007 56,35 15,04 28,61 Nguồn: Niên giám Thống kê 2007 So với các nước, tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc vào nhóm nước có tỷ lệ thấp nhất đạt trên 25%, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển đạt xấp xỉ 50%, các nước đang phát triển có tỷ lệ trung bình khoảng 30%. Như vậy, những năm qua đầu tư phát triển công nghệ, khoa học, giáo dục đào tạo của nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển quan trọng. Nhưng tiến độ còn chậm, tác động của việc phát triển đó đối với tăng trưởng còn chưa cao. Sự tăng trưởng kinh tế do yếu tố TFP còn khiếm tốn thì ở một góc độ nào đó có thể nói rằng sự tăng trưởng kinh tế còn chưa bền vững. 1.2.4. Đầu tư tác động đến đời sống kinh tế xã hội, xây dựng định hướng chính sách của đất nước. Đầu tư làm tăng sản xuất do đó góp phần giải quyết vấn đề việc làm. Đến nay, riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Vì vậy mà làm giảm tỷ lệ thất nghiệp hạn chế hệ quả về tệ nạn xã hội góp phần xây dựng đời sống kinh tế xã hội tốt đẹp hơn. Ngoài ra đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nâng cao hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Các hình thức đầu tư nước ngoài đặc biệt là ODA và FDI còn tạo điều kiện phát triển thị trường tăng cường mối quan hệ kinh tế xã hội với các nước và quốc tế trong quá trình hội nhập. Cơ cấu đầu tư nước ngoài giúp định hướng phát triển kinh tế đất nước, xây dựng và hoàn thiện các chính sách, bộ luật liên quan đến đầu tư, hợp tác quốc tế…, tăng cường mối quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới thúc đẩy giao thương kinh tế tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế. 2. Tác động ngược trở lại của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. 2.1. Tăng trưởng là điều kiện để cải thiện môi trường đầu tư Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, từ năm 1992 đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Nền kinh tế càng phát triển thì vấn đề cải thiện môi trường đầu tư càng trở nên cấp thiết hơn. Do đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều cải cách hành chính cũng như những biện pháp khuyến khích nhằm tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thuận lợi, mở cửa cho các hoạt động đầu tư mới ở Việt Nam. Sự hoàn thiện pháp luật về đầu tư góp phần thúc đẩy tăng vốn đầu tư cả về trong nước cũng như nước ngoài ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ ràng trong việc tạo thành và hoàn thiện bộ luật đầu tư ở nước ta. Sau khi ban hành Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn nhằm giúp các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài kinh doanh có hiệu quả. Cụ thể: Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trong hầu hết các lĩnh vưc của nền kinh tế, được quyền chủ động lựa chọn các hình thức đầu tư, địa điểm, đối tác đầu tư, quy mô dự án; được trực tiếp tuyển dụng lao động; được khuyến khích ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đề cao tinh thần tự do kinh doanh. Nhà đầu tư được quyết định về đầu tư trong các lĩnh vực pháp luật không cấm hạn chế, tự quyết định về hình thức, quy mô đầu tư, vốn hoạt động đầu tư kinh doanh, chuyển nhượng và điều chỉnh dự án. Được trực tiếp xuất khẩu uỷ thác phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Nhà đầu tư được bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực đầu tư như tín dụng, đất đai, tài nguyên, các tiện ích công cộng, áp dụng giá và phí thống nhất. Được tiếp cận các dữ liệu của nền kinh tế quốc dân và thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư. Tham gia vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật. Được khiếu nại, kiện ra toà những tổ chức cá nhân gây cản trở kinh doanh. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng được hưởng sự bảo đảm của Nhà nước cụ thể như: vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Nếu trong trường hợp buộc phải trưng mua và trưng dụng phải được bồi thường trên cơ sở đảm bảo lợi ích nhà đầu tư. Việc giải quyết tranh chấp, nhà đầu tư được tiếp cận toà án, trọng tài quốc tế khi giải quyết tranh chấp. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được quyền mua bán ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai. Chính phủ bảo đảm cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng, bỏ khống chế lãi suất trần đối với các khoản vay về ngoại tệ và các khoản vay nước ngoài... Việc tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá cũng tạo điều kiện mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam, đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với trên 150 nước và cùng lãnh thổ, tham gia tích cực vào cơ cấu hợp tác khu vực và thế giới như ASEAN, ASEM, APEC và WTO. Việc ký kết các Hiệp định CEPT/AFTA, Hiệp định thương mại  Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản (2003), sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản (12/2003)... đã làm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư của Việt Nam. Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm ăn lâu dài của các nhà đầu tư. Việc Nhà nước đầu tư đáng kể cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như hệ thống đường sá, cầu cảng, hệ thống thông tin liên lạc, điện nước....đẩy mạnh cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong những năm qua đã cải thiện rõ rệt điều kiện và môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, góp phần tiết kiệm các chi phí trung gian, hạ giá thành sản phẩm cho các doanh nghiệp. Trong thời gian qua tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước được thể hiện trong bảng  sau 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Chi đầu tư phát triển 31,0 30,51 32,91 31,87 30,15 28,68 27,05 26,38 24,84 26.87 Trong đó chi XDCB 27,85 27,49 30,04 28,83 27,73 26,32 24,53 22,34 23,94 Cụ thể là, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều với tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ sự đầu tư này mà mạng lưới đường bộ Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng, chất lượng các con đường được cải thiện rõ rệt.  Điện lưới được phủ toàn quốc, chất lượng điện được đầu tư đúng mức. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số lên 49% dân số năm 2002. Tổng chi ngân sách cho đầu tư phát triển chung trong giai đoạn 2001- 2010 khoảng 60 tỷ USD, chiếm khoảng 8,4% so với GDP; trong đó chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như: giao thông thủy lợi, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản khoảng 50%. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu phát triển kinh tế, trao đổi hàng hóa giữa các ngành nghề, cũng như các vùng miền khác nhau. Bên cạnh đó, khoa học và công nghệ cũng đã góp phần tạo ra những chuyển biến rõ rệt về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Những đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là sản xuất cơ khí chế tạo kết cấu thép chuyên dụng, đóng tàu, viễn thông, điện lực, dầu khí, khai thác tài nguyên khoáng sản... đã góp phần làm cho sản xuất công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng cao liên tục những năm qua. Trong nông nghiệp, khoa học và công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Chúng ta đã tuyển chọn, lai tạo được hàng chục giông lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác nhau, tạo mức tăng trưởng quan trọng. Từ một nước thiếu lương thực, nước ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Ngoài ra, Việt Nam còn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu nhiều nông sản có giá trị khác. Trong lĩnh vực năng lượng, nhiều công trình nghiên cứu khoa học công nghệ đã tập trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng, xây dựng các nhà máy thủy điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phương pháp làm giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện. Trong giao thông vận tải, khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường thủy…Đã xây dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các công nghẹ mới: Đóng tàu biển trọng tải 3000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất, thắng thầu nhiều công trình ở Lào Campuchia… Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang...đủ mạnh để hòa nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Thị trường tin học nước ta những năm qua có tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm khoảng 50-55%. Việc sử dụng máy vi tính ở nước ta đã chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ sang hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng.  Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ song về cơ bản Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp, quy mô của nền kinh tế còn nhỏ bé, các cơ sở công nghiệp và trình độ kỹ thuật - công nghệ còn thấp, hệ thống luật pháp về kinh tế của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện, tính ổn định và minh bạch chưa cao, mức độ rủi ro pháp luật còn lớn và khó dự báo, quá trình cải cách hành chính còn chuyển biến chậm, hệ thống thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường đất đai... còn chưa đồng bộ và kém phát triển. Khoa học và công nghệ nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, đội ngũ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của quá trình CNH, HÐH, chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và khắc phục được tình trạng tụt hậu so với một số nước trong khu vực. Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ nhìn chung còn thấp, thiếu những cán bộ, chuyên gia giỏi đầu đàn trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ, đủ sức đảm nhiệm các nhiệm vụ nghiên cứu có tầm cỡ quốc tế, có đóng góp đột phá đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách đãi ngộ, sử dụng chưa thu hút được nhiều và sử dụng tốt cán bộ trẻ đã được đào tạo có trình độ cao về làm việc tại các cơ sở nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực. Theo số liệu của bộ Khoa học-công nghệ và môi trường thì đầu tư tài chính cho khoa học công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hàng năm. Chi phí trung bình hằng năm cho 1 cán bộ khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước khoảng 1000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng mức độ cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chậm hơn so với các nước khác trong khu vực. 2.2. Tăng trưởng tạo tích lũy và tăng cường vốn cho đầu tư Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.. Nguồn vốn ở đây bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết, chúng ta sẽ xem xét trên khía cạnh nguồn vốn đầu tư trong nước. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước...). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước (NSNN) cũng gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 2001 – 2007, tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng 29% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi NSNN. Giai đoạn 2007 – 2010, tỷ trọng chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực kinh tế so với tổng chi đầu tư phát triển có xu thế giảm dần, Chính phủ nhận định tại báo cáo mới nhất về tình hình phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách Nhà nước. Cụ thể, từ mức 51,7% năm 2007, mức chi đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho lĩnh vực kinh tế so với tổng chi đầu tư phát triển trong năm 2010 đã giảm xuống 46,3%. Tuy nhiên, riêng các ngành giao thông, nông, lâm ngư nghiệp vẫn được ưu tiên đầu tư từ ngân sách để hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém. Từ mức 18% năm 2007, đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi đã tăng lên, chiếm 20,5% trong tổng chi đầu tư phát triển năm 2010. Tỷ trọng đầu tư cho giao thông vận tải cũng tăng từ 21% lên 22,6%. Trái với kinh tế, tỷ trọng chi đầu tư phát triển cho lĩnh vực xã hội đã tăng từ 43,4% năm 2007 lên 49,1% năm 2010. Trong đó, giáo dục và đào tạo tăng từ 12,2% lên 17,4%. Cũng trong giai đoạn 2007 - 2010, theo phân cấp, tỷ trọng đầu tư do địa phương quản lý đã tăng từ 60,8% lên 69,8%. Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý được hình thành từ nguồn đầu tư trong cân đối của các địa phương và các khoản hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách Trung ương. Theo đánh giá của Chính phủ, mặc dù nguồn vốn đầu tư trong cân đối của các địa phương đã tăng trên 14% trong cả thời kỳ, song tốc độ tăng vốn đầu tư không đồng đều. Nếu tính cả số đầu tư từ nguồn thu sử dụng đất, tỷ trọng đầu tư theo cân đối của các tỉnh có nguồn thu thấp theo xu hướng giảm dần. Các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ trọng đầu tư trong cân đối so với tổng đầu tư trong cân đối cả nước giảm từ 7,5% năm 2007 xuống 6,2% năm 2010; Tây Nguyên từ 3,7% xuống 3,2%... Đối với các bộ ngành, cơ quan trung ương, vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách Nhà nước đã giảm dần, lần lượt các năm từ 2007 - 2010 là 34.919,4 tỷ đồng, 29.830,6 tỷ đồng, xuống 25.530,2 tỷ đồng và 29.277,7 tỷ đồng. Nguồn vốn đầu tư này, tính trung bình cả giai đoạn chiếm 18,5% tổng chi đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách Nhà nước. Mặc dù đánh giá việc phân bổ vốn giữa các ngành, địa phương đã “bảo đảm sự công khai, minh bạch, công bằng”, song Chính phủ cũng nhìn nhận không ít hạn chế. Đó là việc phân bổ nguồn vốn bổ sung có mục tiêu chưa được lượng hóa và còn mang tính chủ quan, mức tăng vốn đầu tư trong cân đối giữa các tỉnh, thành trong vùng không đồng đều... Theo báo cáo của Bộ KH-ĐT, trong năm 2009, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 704.200 tỷ đồng, bằng 42,8% GDP (kế hoạch đề ra là 39,5%), tăng 15,3% so với năm 2008. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước (NSNN) ước thực hiện cả năm đạt 161.000 tỷ đồng, tăng gần 63% so với năm 2008, chiếm 22,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2009, tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải đã dần được khắc phục; tiến độ thực hiện các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn NSNN, trái phiếu Chính phủ đạt kế hoạch cao hơn so với các năm trước. Năm 2010, khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 là 791.000 tỷ đồng, bằng 41% GDP, tăng 12,3% so với ước thực hiện năm 2009. Tuy vậy, việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm qua vẫn thấp so với yêu cầu đặt ra (một số bộ, ngành giải ngân chưa đạt 50% kế hoạch, cá biệt có đơn vị đạt chưa đầy 3% kế hoạch); tình trạng vi phạm các quy định về quản lý đầu tư vẫn ở mức khá cao (trong 6 tháng đầu năm 2009 có 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, trong đó có tới 4.076 dự án chậm tiến độ đều ra)... Đáng chú ý là vẫn còn tình trạng phân bổ vốn cho các dự án không trong quy hoạch được duyệt, chưa đủ thủ tục đầu tư.Cụ thể là trong năm 2009, tổng chi NSNN ước đạt 533.000 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ đồng) so với dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 20,1% (22.700 tỷ đồng) so với dự toán, chiếm 25,4% tổng chi NSNN và bằng 8,1%GDP. Bên cạnh đó, đi cùng với việc nền kinh tế tăng trưởng, nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Cụ thể là, tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7%GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư, phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh lên tới 184,3 nghìn tỷ VN. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thu hút vốn ODA cũng có chuyển biến tích cực, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD, cao hơn năm 2008, trong đó: vốn vay là 5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215,0 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD. Bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam vẫn gia tăng mạnh mẽ. Trong 11 tháng đầu năm 2009 cả nước có 776 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 14,6 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 22,4 % so với cùng kỳ 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Có 213 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,09 tỷ USD, bằng 98,3% so với cùng kỳ năm 2008. Vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam cả năm 2009 ước đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008. Cùng với sự phát triển kinh tế, ngày càng có nhiều quốc gia hơn đầu tư vào Việt Nam. Đồng thơi, theo tổng hợp báo cáo của các chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư ra nước ngoài trong năm 2010 cũng khá lớn, đạt khoảng 900 triệu USD, trong đó lĩnh vực khai khoáng đạt trên 700 triệu USD; nông,  lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 70 triệu USD; phân phối bán buôn bán lẻ đạt 53 triệu USD; bưu chính viễn thông đạt 33 triệu USD; sản xuất điện 25 triệu USD... Các dự án đầu tư nêu trên thuộc những lĩnh Việt Nam đang cần như khái thác khoáng sản; trồng cây công nghiệp; thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra bên ngoài; dịch vụ viễn thông; hàng không; ngân hàng... Tuy nhiên, Cục Đầu tư nước ngoài cũng thừa nhận phần lớn các dự án đầu tư quy mô lớn hiện đang trong giai đoạn đầu của quá trình đầu tư nên hiệu quả đầu tư ra nước ngoài là chưa lớn, chưa có đóng góp đáng kể cho việc phát triển kinh tế xã hội trong nước thời gian qua. “Các lĩnh vực này hiện Việt Nam đã và đang chiếm lĩnh được đáng kể và phát triển tích cực tại thị trường một số địa bàn đầu tư trọng điểm, do vậy tương lai gần khi các dự án này đi vào hoạt động hiệu quả sẽ có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài cho quốc gia”, Cục Đầu tư nước ngoài cho hay.Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%, đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. %). Cho đến nay, đã có khoảng hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Ưu điểm - Thực trạng trên cho ta thấy được hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng quan tâm, nâng vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới. Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã sớm ra khỏi suy giảm, từng bước phục hồi và tăng trưởng khá nhanh. Năm 2010 tăng trưởng GDP đạt 6,78%, cao hơn mục tiêu đề ra là 6,5%.Nguyên nhân của những thành tựu đó có nhiều, trong đó đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách kinh tế tài chính có tác dụng kích thích sản xuất, mở rộng dịch vụ của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ có vai trò quyết định. - Vốn là yếu tố sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu nền kinh tế, tăng quy mô đầu tư và làm tăng tổng cầu nề kinh tế. Nhà nước đã có những chính sách tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hạ giá thành sản phẩm, tăng tiêu dùng giải quyết việc làm, ổn định xã hội giảm bớt tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế. - Chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện, thể hiện sự tăng lên của năng suất, các yếu tố tổng hợp TFP. - Cơ cấu kinh tế chịu ảnh hưởng từ cơ cấu đầu tư này nên có sự dịch chuyển cơ cấu nghành theo hướng tích cực phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp tăng nhanh. - Đầu tư đã giải quyết vấn đề việc làm, giảm tỷ lệ thất nhiệp. 2. Nhược điểm : - Sự tụt giảm tốc độ tăng trưởng, do cơ chế chính sách ngày càng không theo kịp với tình hình mới làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tốc độ tăng GDP chậm . - Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng đầu tư với tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội tăng liên tục từ mức 1/3 GDP cuối thế kỷ 20 lên trên 40% GDP mấy năm gần đây. Hiệu quả đầu tư tổng thể giảm mạnh thể hiện qua ICOR tăng cao, thậm chí tới trên 8 vào năm 2009 – gấp đôi so với mức được cho là hiệu quả (ICOR khoảng 3 – 4) đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. - Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu không đồng bộ về quy mô, tốc độ tăng trưởng giữa các nghành, vùng, khu vực...dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Bên cạnh đó, đầu tư của khu vực nước ngoài chủ yếu chỉ tập trung vào một số ngành khai thác nguyên liệu, khoáng sản (như dầu thô...), những ngành tập trung vốn lớn, một số ngành được bảo hộ cao như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thép... - Chỉ số năng suất tổng hợp (TFP) tăng với tốc độ thấp, ở Việt Nam vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng chưa chuyển mạnh sang phát triển chiều sâu. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực sản xuất và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng, cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế. - Tình hình dải ngân kém hiệu quả,rất chậm, làm thất thoát lãng phí nguồn ngân sách của nhà nước. - Tình trạng bội chi ngân sách nhiều năm liền của Việt Nam là hệ quả của tình trạng đầu tư kém hiệu quả, phân bổ nguồn lực chưa hợp lý. - Tiến độ xây dựng các dự án quá chậm, năng lực quản lý, năng lực các đơn vị tư vấn còn yếu kém. - Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Nguyên nhân chính là do thiếu quy trình phù hợp, thủ tục phức tạp, thiếu rõ ràng, thiếu các quy định trách nhiệm của Việt Nam - nhà tài trợ, công tác di dân, giải phóng mặt bằng triển khai dự án, tổ chức đấu thầu lúng túng. - Tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp chỉ đạt ở mức thấp, gây tình trạng sản xuất kém hiệu quả và chất lượng không cao ảnh hưởng đến việc cung cấp sản phẩm. Với tỷ lệ vốn cho nông nghiệp kém như vậy khó có thể đưa nông nghiệp hóa được. - Trong cơ chế đầu tư vẫn còn tồn tại nhiều bất cập: Cơ chế đầu tư được xem là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đầu tư kém hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian qua. Thể hiện ở chỗ thiếu tinh đồng bộ, minh bạch và khách quan. Bất cập thứ hai trong cơ chế đầu tư là hành lang pháp lý vẫn còn nhiều bất cập, các chính sách hay thay đổi, luật chưa nhất quán( áo luật chung luật riêng) gây cản trở khó khăn cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư thấy ngại khi tham gia vào bất kỳ lĩnh vực nào. - Vấn đề quy hoạch đầu tư: công tác quy hoạch của nước ta trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến nhưng nhìn chung vẫn tồn tại khá nhiều vướng mắc. Tình trạng chung hiện nay là những quy hoạch thiếu tầm chiến lược lâu dài, thiếu sự khảo sát kỹ lưỡng về mặt địa chất, yếu tố kinh tế bị xem nhẹ...Kết quả là rất nhiều dự án hoạt động không hiệu quả, nhiều công trình không được xây dựng, bỏ phí. - Tình trạng phân tán, dàn trải trong đầu tư Đầu tư dàn trải là hiện tượng cùng một lúc thực hiện quá nhiều dự án khiến cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn mỏng không phát huy hiệu quả. Đầu tư dàn trải còn thể hiện ngay ở việc mở rộng quá nhiều những diện được hưởng nguồn vốn vay ưu đãi. Điều đó làm cho chất lượng và mục đích của hoạt động này không còn như mong muốn. Ví dụ: Trong năm 2010, sở GTVT được giao quản lý tổng cộng 173 dự án (gồm dự án chuyển tiếp và mới), với kế hoạch vốn khoảng 2.250 tỉ đồng (chưa kể vốn ODA và đối ứng). Đến cuối 10/2010, đã giải ngân đạt khoảng 63%, với khoảng 50 dự án hoàn thành, còn lại đều rơi vào tình trạng chậm tiến độ. Đặc biệt, ngay từ đầu năm 2010, Sở GTVT chọn 10 dự án trọng điểm làm quyết liệt đẩy nhanh tiến độ, song hiện cũng chỉ mới có 2 dự án hoàn thành, một số dự án khác tuy đã triển khai từ hơn 10 năm trước đến nay vẫn ỳ ạch. PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẾN 2020 1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát là chất lượng phát triển nhưng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhờ toàn dụng lao động, tận dụng các nguồn lực trong và ngoài nước và cải cách cơ chế chính sách để tăng hiệu suất. Cụ thể là xây dựng nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, cải thiện đời sống nhân dân đi đôi với xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, đảm bảo an ninh xã hội, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ra sức phấn đấu để đến năm 2020 nước Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp với tỷ trọng ngành công nghiệp vượt trội hơn các ngành khác. 2. Các chỉ tiêu - Về kinh tế: GDP ước đạt 180 – 200 tỉ USD tính theo giá ước tính tương đương cao gấp hơn 2 lần năm 2010. Tốc độ tăng trưởng GDP/năm giai đoạn 2006 – 2020 là 9,2-10%. GDP bình quân đầu người 1.800 – 2.000 USD Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người/năm giai đoạn 2006 – 2020 là 7,9-8,6%. Cơ cấu kinh tế tương đối hiện đại, hợp lý, phát huy được thế mạnh của đất nước. Tỷ trọng giá trị nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ trong GDP là 10 – 44 – 46%. Tỷ lệ hàng xuất khẩu chế tác trong tổng giá trị hàng xuất khẩu là 75%, tỷ lệ hàng xuất khẩu công nghệ cao trong tổng hàng xuất khẩu chế tác là 30%. Giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là 108 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm là 9,4%. Thu hút vốn FDI là 2.384 triệu USD. Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm là 18%. Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước bình quân đạt 25% GDP. Tỷ trọng đầu tư phát triển bình quân là 44% GDP. - Về xã hội: Tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo là dưới 5%, tỷ lệ dân số thành thị là 50%, chỉ số HDI là 0,8; tỷ lệ chi phí cho giáo dục là 5% GDP. 3. Phương hướng đầu tư - Phương hướng đầu tư của nước ta là thực hiện đầu tư phải gắn liền với mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế bền vững. Trước hết phải tăng khả năng huy động tích lũy vốn của nền kinh tế đồng thời tạo môi trường đầu tư tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo thêm nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. - Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, bảo đảm bình đẳng công khai minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế duy trì thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đảm bảo việc làm đời sống cho người lao động, góp phần ổn định an ninh xã hội và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Huy động tối đa các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư, khác phục tình trạng đầu tư kém hiệu quả, dàn trải, thất thoát, lãng phí, ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch và quyết định của chủ đầu tư, trong đó ưu tiên huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư các công trình, dự án quan trọng sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, đẩy nhanh tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng, tái định cư để triển khai dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư quy mô lớn đã được cấp phép ở các khu kinh tế. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu ở các làng nghề, khu vực nông thôn, doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. - Tiếp tục tăng cường đầu tư cho giáo dục, y tế, kết cấu hạ tầng giao thông, các công trình giao thông liên vùng nhằm phát huy tối đa lợi thế của vùng trong phát triển kinh tế xã hội. - Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tính dụng nhà nước, ODA, FDI. Thực hiện có hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng, chấm dứt tình trạng nhiều công trình có vốn nhưng không giải ngân được do không có mặt bằng để thi công. II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư - Cần ban hành và thực thi Luật kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quy hoạch cần được đổi mới và nâng cao chất lượng, trong xây dựng quy hoạch phải chú ý tới các tác động xã hội và môi trường. Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội là quy hoạch có tính bắt buộc, phải đi trước một bước và phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm. Tăng cường công tác quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Công tác quy hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể, có thể tham khảo kinh nghiệm của những chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng, thẩm định quy hoạch. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch. Công tác thống kê phải được thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, các số liệu thống kịp thời đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều hành nền kinh tế. - Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, tiếp tục thu hút các dự án mới đầu tư vào các KCN và thúc đẩy các dự án sớm triển khai thực hiện. Những KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm cần điều chỉnh lại cơ cấu thu hút đầu tư, nhất là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực chế biến, chế tạo, các lĩnh vực công nghệ cao, tạo ra năng lực xuất khẩu mới. Để tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi khâu quan trọng hiện nay là sớm hoàn thành xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật những KCN đã hoạt động, trong đó cần đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải, cấp điện, đường giao thông, công trình an toàn sản xuất... 2. Phân bổ và sử dụng vốn hiệu quả - Thực hiện các giải pháp khuyến khích huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển từ các thành phần kinh tế. Tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA) nhất là các nguồn vốn có ưu đãi cao. Hoàn thiện cơ chế quản lý và cải tiến thủ tục đầu tư; phân cấp mạnh về quyền hạn và trách nhiệm cho người quyết định đầu tư và chủ đầu tư; đi đôi với tăng cường công tác thanh tra, giám sát, đấu tranh khắc phục đầu tư dàn trải, quy trách nhiệm cá nhân người gây tổn thất và lãng phí, chất lượng công trình kém. Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ và vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ triển khai, thi công các công trình, ưu tiên cho các công trình điện, hạ tầng giao thông, đô thị. Trong thi công những công trình đó, cần đặc biệt bảo đảm tính đồng bộ và khả năng kết nối các phương tiện, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, cải thiện cuộc sống dân cư trong vùng. 2.1. Nguồn vốn trong nước 2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước Trong việc bố trí vốn cho một ngành, một lĩnh vực cũng cần tập trung vốn cho một hoặc một số đơn vị để tránh dàn trải nguồn vốn.. Các địa phương tăng cường cơ chế giám sát của cộng đồng với các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước. - Các cơ quan chức năng kiên quyết hơn khi xử lý các trường hợp chủ đầu tư hoặc cơ quan tư vấn, giám sát, nhà thầu làm sai do thiếu năng lực, trình độ hoặc cố tình trục lợi dẫn đến công trình không phát huy hiệu quả, gây thất thoát vốn ngân sách. - Có biện pháp quyết liệt hơn, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý, thẩm định, đấu thầu các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn diện các dự án đầu tư. - Các sở, ngành chức năng phối hợp đề xuất hướng dẫn sử dụng các văn bản quy phạm pháp luật của trung ương phù hợp với yêu cầu của địa phương trong công tác quản lý xây dựng cơ bản như Nghị định 12/2009/CP. Công tác đào tạo, nâng cao năng lực quản lý cho các chủ đầu tư, giám sát cộng đồng cần được tăng cường để phát huy hiệu quả dự án đầu tư. - Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tiếp tục tăng cường tính công khai minh bạch, chống khép kín trong đầu tư. - Đối với đầu tư tại doanh nghiệp, cần tiếp tục đa dạng hoá các nguồn vốn. Giảm bao cấp dưới nhiều hình thức cho đầu tư như trợ cấp giá, lãi suất thấp, khoanh nợ, xoá nợ dẫn đến sự ỷ lại của các doanh nghiệp. - Về phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cần xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý trên cơ sở xác định các lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư trong thời gian tới Hướng đầu tư vốn ngân sách nhà nước: - Trước mắt: Đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Đối với các loại hình dịch vụ xã hội khác huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách. - Về lâu dài nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục, y tế một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc một cách đồng bộ, chất lượng, hiện đại, thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn chất lượng hiện hành. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện hiện đại hoá, công nghiệp hoá. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng khai thác mọi tiềm năng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghệ cao cần được ưu tiên và quan tâm hàng đầu. 2.1.2. Vốn Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân Đây là một khoản vốn lớn có thể sử dụng vào đầu tư phát triển các ngành kinh tế, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50% là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước. Cần có kế hoạch cụ thể về phân bổ sử dụng hợp lý nguồn vốn này tránh thất thoát, lãng phí, đầu tư phải có trọng điểm, đầu tư vào các ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của từng vùng miền đồng thời cũng phải đầu tư đồng bộ, không để lãng phí nguồn lực. Cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giám sát hiệu quả sau đầu tư, tránh để việc đánh giá kết thúc dự án chỉ là cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi. Để sử dụng vốn hiệu quả cần khắc phục các vấn đề trong quản lý như: nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt bằng… Áp dụng một cách trịêt để luật Ngân sách, Luật Phòng chống tham nhũng…Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư. 2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI) 2.2.1. Vốn ODA - Hoàn thiện khung thể chế và pháp lý trong quản lý ODA theo hướng tinh giản, phân quyền và phân cấp. - Nâng cao năng lực toàn diện cho các cơ quan quản lý và thực hiện chương trình/dự án ODA, đảm bảo tính bền vững của việc nâng cao năng lực. - Giới thiệu và áp dụng các phương thức viện trợ mới bao gồm các công cụ, phương pháp, cách tiếp cận theo hướng sử dụng hệ thống của Chính phủ để nâng cao hiệu quả viện trợ. Tập trung vào Hệ thống của quốc gia đối tác: Tăng cường năng lực hệ thống của Chính phủ để nâng cao hiệu quả viện trợ. 2.2.2. Vốn FDI - Cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, và đẩy mạnh giải ngân, trong đó chú trọng đến các địa phương có tiềm năng, song chưa tạo được bước đột phá trong thu hút FDI. Tập trung giải quyết những yếu kém về kết cấu hạ tầng giao thông, điện nước; về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng; về năng lực của bộ máy quản lý nhà nước; tháo gỡ những khó khăn về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn FDI đăng ký. - Xây dựng những quy định cụ thể, chặt chẽ để ngăn chặn các hoạt động huy động vốn đầu tư trong nước của các nhà đầu tư nước ngoài ở nhiều dự án, nhất là các dự án bất động sản xây dựng căn hộ và văn phòng cho thuê. Hình thức này đang gây ra tình trạng thu hút vốn của các doanh nghiệp trong nước, tạo thêm trở ngại cho việc phát triển khu vực kinh tế trong nước trong điều kiện khó khăn hiện nay. Ðặc biệt, các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn nữa đến những ảnh hưởng về môi trường và các thiệt hại về tài nguyên trong việc cấp phép các dự án FDI, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các cam kết không gây ô nhiễm môi trường của các dự án đầu tư; nghiêm khắc xử lý những hành vi gây ảnh hưởng đến môi trường, làm thiệt hại lợi ích của nhân 3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực tại chỗ là cách tốt nhất để thu hút các dự án đầu tư Thời gian tới cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục và đào tạo với tỷ trọng thoả đáng. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp. Đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao, xây dựng và tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các cấp, các ngành cùng với đội ngũ công nhân lành nghề. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú trọng đến nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở khu vực này sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động tay chân, tăng tỷ trọng lao động có tay nghề, lao động được trang bị kiến thức, có chất xám để làm việc. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ về y tế, môi trường, phòng chống bệnh tật, bảo hiểm y tế để đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất xã hội. 4. Đổi mới công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực đầu tư - Cần quan tâm chỉ đạo công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tiếp tục kiện toàn bộ máy, chỉ đạo các cơ quan đơn vị trực thuộc thực hiện các quy định về giám sát đầu tư. - Tăng cường kiểm tra giám sát tài chính đối với tất cả các khâu của quá trình đâu tư để giảm lãng phí, thất thoát và tham nhũng nhất là đối với các dự án được thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Cần phải thay đổi cơ bản cách thưc thực hiện kiểm tra giám sát theo hướng tăng cường kiểm tra giám sát trước và từ xa đối với các khâu của quá trình đầu tư nhất là khâu chuẩn bị và ra quyết định về chủ trương đầu tư. Cần khuyến khích cơ chế tự giám sát, gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và tư vấn giám sát với chất lượng của công trình. - Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát cần phải xây dựng một số chế tài đủ mạnh đối với chủ đầu tư, cơ quan cấp trên của chủ đầu tư khi các đơn vị này thực hiện sai cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư. Cần một số hình thức khen thưởng vật chất đối vối các đơn vị thực hiện tốt công tác triển khai thực hiện dự án đầu tư, quyết toán đối với các dự án hoàn thành, đảm bảo chất lượng, đúng thời gian quy định, phê bình các đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh quy chế quản lý, sử dụng vốn đầu tư, thực hiện quyết toán vốn đầu tư chậm. - Về công tác điều hành, cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư như bộ kế hoạch & đầu tư, sở kế hoạch và đầu tư cùng các ban ngành có liên quan khác - Cần nghiên cứu và sớm ban hành mức chi phí cho công tác giám sát, đánh giá đầu tư để tạo điều kiện cho cán bộ và công ty tư vấn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trực tiếp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng. - Thực hiện nghiêm túc quy chế đấu thầu. Tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn, giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án đặc biệt là các dự án lớn. Cần hoàn thiện chính sách thuế nhằm đảm bảo sự bình đẳng cả về quyền hạn và nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bộ, ngành, các cá nhân trong việc tham gia ý kiến về dự án. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước. Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư. Các bộ và cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ. III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠO ĐIỀU KIỆN THU HÚT VỐN PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ Dựa vào mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2010- 2020 của nước ta và các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập với một lộ trình cụ thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm cho hội nhập có hiệu quả Môi trường đầu tư phải được hệ thống luật pháp và chính sách của Nhà nước đảm bảm, Luật đầu tư phải công bằng hợp lý, đảm bảo thực thi trong thực tiến đối với mọi thành phần kinh tế, phải ban hành các thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại nghị định số 108/2006/NĐ-CP 1. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước - Thông qua thị trường tài chính, tiết kiệm được chuyển tới các nhà đầu tư. Với sự giúp đỡ của các trung gian tài chính, việc dẫn vốn thực hiện qua hai kênh: Kênh gián tiếp thực hiện thông qua các trung gian tài chính như hệ thống ngân hàng, các quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm… Kênh dẫn vốn trực tiếp được thực hiện thông qua thị trường chứng khoán. Cả hai kênh dẫn vốn trên trong khi hoạt động sẽ bổ sung cho nhau, tạo khả năng sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Khuyến khích đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nghiệp vụ tài chính, đồng thời với việc phát triển đa dạng là nâng cao uy tín và chất lượng phục vụ; Hoàn thiện đồng bộ thị trường tài chính, đặc biệt ưu tiên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh, hiều quả. - Tạo lập khuôn khổ pháp luật giám sát hoạt động tài chính trên thị trường thực hiện minh bạch vì lợi ích người đầu tư và đảm bảm an ninh tài chính quốc gia. Từng bước mở cửa thị trường tài chính Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. - Chính sách tài chính quốc gia: phải được định hướng hợp lý, có hiệu quả, không để tình trạng huy động ồ ạt mà không sử dụng, không giải ngân kịp thời gây ra hiện trượng ứ đọng vốn và các nguồn lực khác cho việc duy trì và bảo quản vốn hoặc tránh việc đầu tư dàn trải không trọng tâm gây ra lãng phí vốn. - Chính sách tài chính trong doanh nghiệp: Nhà nước cần đổi mới chính sách, tạo mọi điều kiện tích tụ tăng quy mô vốn đầu tư nhanh chóng đổi mới công nghệ, nhằm từng bước nâng cao hiệu quả, sực mạnh của nền kinh tế đồng thời tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. - Chính sách thuế: Thuế là nguồn thu chủ yếu của quốc gia do đó phải đảm bao nguồn thu này, khuyến khích sản xuất đảm bảo công bằng xã hội. Đảm bảo tính rõ ràng và ổn định của các sắc thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực và thế giới. Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thu thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thu thuế của các đối tượng nộp thuế, chống thất thu và lạm thu. Chính sách tiền tệ và tín dụng: Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong những năm tới là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện đất nước, có thể tăng lãi suất tiền gửi để tăng tiết kiệm của người dân và giảm lãi suất tiền vay khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất. 2. Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài 2.1. Giải pháp thu hút FDI Nguồn vốn FDI chảy vào nước ta hiện nay chủ yếu là đầu tư vào các lĩnh vực mà đòi hỏi chất lượng lao động phải đạt trình độ khá chuyên sâu. - Đối với Khoa học công nghệ: Đổi mới công nghệ trong mọi lĩnh vực, thu hẹp khoảng cách tụt hậu về trình độ công nghệ so với các nước phát triển trong khu vực. Phát triển ứng dụng một số hướng công nghệ cao như công nghệ thông tin, sinh học, tự động hóa … tạo bước nhảy vọt về năng suất và sản lượng. Nguồn vốn đầu tư FDI chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng. Do đó việc áp dụng công nghệ vào nông lâm ngư nghiệp và công nghiệp chế biến là rất cần thiết để thu hút chuyển dòng FDI sang. - Đối với vấn đề tài nguyên thiên nhiên môi trường: Vấn đề bảo vệ môi trường khi triển khai các dự án đầu tư FDI cũng rất cần được quan tâm thỏa đáng. Do đó trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư có thể gây ra các tác động tới môi trường do đó cần có các chính sách nhằm hạn chế tối đa các tác động xấu này như đánh thuế Pigou, lưu hành giấy phép xả thải, trợ cấp cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường (như xử lý chất thải, môi trường đô thị…)… Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các biện pháp cải tạo môi trường như: Cống hóa kênh mương, nạo vét lòng sông, hồ, ao, phủ xanh đất trống đồi trọc…Ban hành luật về khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm hạn chế tình trạng khai thác bừa bãi. Các doanh nghiệp chỉ được phép khai thác lượng tài nguyên nhất định được cơ quan quản lý cho phép. Cần có quy hoạch cụ thể trong việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, quản lý chất lượng nước của các khu vực, những tác động có khả năng xảy ra đối với hệ thống sinh thái trong quá trình thực hiện đầu tư phải được phân tích rõ ràng, thấu đáo . - Chính sách kinh tế vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế. Mặt khác, để thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cụ thể như: tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường; phát triển quy mô thị trường; xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị và điều hành doanh nghiệp, quản lý Nhà nước; tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán, thị trường OTC và tại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân; ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài. - Một trong những yếu tố đầu tiên quan trọng nhất để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là tình hình kinh tế, chính trị của nước tiếp nhận vốn. Các nước có nền kinh tế phát triển cao cho phép các nhà đầu tư có nhiều cơ hội có được suất sinh lợi cao trên tổng vốn đầu tư. Sự hiện diện của các nhà đầu tư có tổ chức và đặc biệt các quỹ đầu tư sẽ ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của cả thị trường. - Xây dựng hệ thống các Trung tâm xúc tiến đầu tư của Bộ kế hoạch & đầu tư (Bộ KH& ĐT ) tại các khu vực. Xây dựng một hệ thống các văn phòng của Bộ KH& ĐT đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại 8 khu vực đầu tư lớn. Các trung tâm xúc tiến phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẻ giữa văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương. - Ngoài ra, chúng ta cần tập chung thu hút nguồn vốn để phát triển các nghành, nghề, lĩnh vực có lợi thế so sánh của nước ta; đơn gải hóa thủ tục hành chính; thực hiện biện pháp đảm bảo đầu tư; tu sửa kết cấu hạ tầng KT- XH; quy hoạch thu hút vốn đầu tư... 2.2. Giải pháp thu hút ODA Nguồn vốn ODA mà phải giao cho đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng khai thác dự án lâu dài làm chủ đầu tư. Thay vì cơ quan chủ quản ra quyết định thành lập Ban quản lý dự án như hiện nay, trong dự thảo chủ đầu tư các dự án là người ra quyết định thành lập ban quản lý dự án. - Phải thành lập các quy chế hoạt động của ban quản lý dự án sẽ được kiểm tra và giám sát của các cơ quan chức năng mà chủ yếu là Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước về ODA. Cơ quan chủ quản như Bộ ngành và địa phương được giao quyền thẩm tra, thẩm định và quyết định đầu tư đối với các chương trình, dự án ODA. - Rút kinh ngiệm từ những tiêu cực gây thất thoát vốn ODA, một trong những nội dung được coi trọng trong dự thảo lần này là việc theo dõi, đánh giá chương trình dự án sử dụng ODA. Việc đánh giá dự án được yêu cầu phải là một hoạt động định kỳ, hoặc có thể đột xuất có hệ thống và đảm bảo khách quan. - Đánh giá, kiểm tra được tiến hành ngay trong khi dự án đang diễn ra để có những điều chỉnh cần thiết, hoặc sau khi dự án kết thúc để rút ra bài học cho các dự án tiếp theo. Lời kết Tăng trưởng và đầu tư là hai mặt của nền kinh tế đất nước song chúng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau hộ trợ nhau, tăng trưởng là mặt biểu hiện ra bên ngoài của đầu tư, còn đầu tư là nội dung ẩn bên trong, ta nói như có đầu tư thì có tăng trưởng và tăng trưởng chính là động lực thúc đẩy đầu tư. Để đạt mục tiêu tăng trưởng, cần giải quyết thoả đáng bài toán đầu tư. Đầu tư là điều kiện tiên quyết, là yếu tố đầu vào cho tăng trưởng; ngược lại tăng trưởng là kết quả đầu ra của đầu tư. Mỗi mục tiêu tăng trưởng cần đạt được đều đòi hỏi một mức độ đầu tư tương xứng nhất định. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế giúp chúng ta giải được những bài toán hóc búa để đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới đang từng ngày thay đổi và phát triển. Trên đây là những nghiên cứu và những đề xuất của nhóm chúng tôi về vấn đề “ Mối quan hệ tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế” . xin trân thành cảm ơn PGS Từ Quang Phương đã hướng dẫn nhóm chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình KINH TẾ ĐẦU TƯ Giáo trình Kinh tế phát triển Blog khoa Đầu tư Các trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docktdt.nhomIII 50a.doc
Tài liệu liên quan