Chương 1: QUẢNG CÁO TRÊN CÁC PTTTĐC
1.1. Cơ sở lý luận của quảng cáo báo chí .
1.2. Lý thuyết tâm lý tiếp nhận sản phẩm truyền thông .
1.3. Quảng cáo trên các PTTTĐC ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: TIẾP CẬN QUẢNG CÁO TRÊN CÁC PTTTĐC CỦA
CÔNG CHÚNG .
2.1. Mục đích và mức độ tiếp cận QC của công chúng
2.2. Thái độ tiếp nhận và thị hiếu QC của công chúng
Chương 3: TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN YẾU TỐ TÂM LÝ - ĐẠO ĐỨC
- LỐI SỐNG CỦA CÔNG CHÚNG
3.1. Tác động tiêu cực đến yếu tố tâm lý .
3.2. Tác động tiêu cực đến yếu tố đạo đức
3.3. Tác động tiêu cực đến yếu tố lối sống
Chương 4: TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN YẾU TỐ KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CÔNG CHÚNG
4.1. Tác động tiêu cực đến yếu tố kinh tế
4.2. Tác động tiêu cực đến yếu tố chính trị .
4.3. Tác động tiêu cực đến yếu tố xã hội .
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tác động tiêu cực của quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiếng nên được thuê và trả catsee cho những QC, để họ nói lên những lời mà QC đó viết. Không biết là người nổi tiếng đó có dùng sản phẩm ấy không và người đó có biết chính xác về chất lượng của sản phẩm không. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
So sánh giữa những nhóm lứa tuổi về vấn đề này ta thấy có sự chênh lệch. Nhóm thanh niên chịu ảnh hưởng nhiều nhất với 30,7% trả lời rằng có bị mất niềm tin. Nhóm trung niên và thanh niên có tỷ lệ người trả lời có bị mất niềm tin không khác nhau nhiều lắm, tương ứng là 20,7% và 19,1%.
Tóm lại, QC trên các PTTTĐC đang tồn tại những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý của công chúng tiếp nhận như cảm giác khó chịu, ức chế; tâm lý nghi ngờ chất lượng sản phẩm hay làm mất thiện cảm đối với các thành phần liên quan đến QC. Nguyên nhân có thể do sự xuất hiện chưa hợp lý, không phù hợp về thời điểm; đánh bóng quá nhiều về sản phẩm v.v.. Quan trọng hơn, QC cũng gây nên những ức chế tâm lý trong một thời gian và điều này thường không có lợi cho tinh thần và nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của QC tới yếu tố đạo đức
3.2.1. Giảm sút các chuẩn mực đạo đức xã hội
Một số yếu tố liên quan đến các chuẩn mực đạo đức chung của xã hội như sự trung thực, tính khiêm tốn, sự lễ phép, tính giản dị, tính cần cù được sử dụng để đo ảnh hưởng tiêu cực của QC cho thấy có một nhóm đối tượng công chúng chịu ảnh hưởng về mặt đạo đức cá nhân khi tiếp xúc với các QC. Tỷ lệ số người cho biết có sự suy giảm về các yếu tố đạo đức được biểu thị ở biểu đồ 3.5.
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ công chúng bị suy giảm các yếu tố đạo đức
do tác động của QC (%)
Trong những yếu tố đạo đức bị suy giảm do tác động của QC thì đáng chú ý là Tính giản dị (11%), Tính cần cù (10,3%), Tính khiêm tốn (9,7%). Đây là những yếu tố mà cá nhân dễ bị định hướng bởi các PTTTĐC, nhất là giới trẻ. Biểu hiện rõ nhất là qua phong cách ăn mặc thời trang và ngôn ngữ ngày càng phóng khoáng và tự do. Những con số trên dù không lớn song vẫn khẳng định một điều chắc chắn sự tác động của QC theo chiều hướng không tích cực đến các chuẩn mực đạo đức xã hội là đáng quan tâm. Như vậy, đạo đức truyền thống bị mai một trong xã hội hiện đại có một phần nguyên nhân do lĩnh vực QC trên các PTTTĐC gây ra. Những ảnh hưởng tiêu cực trong phần 3.2.2 và 3.3.3 cũng phần nào thể hiện được sự liên quan với những giảm sút nêu trên.
3.2.2. Kích thích các yếu tố dung tục
Qua 300 mẫu anket điều tra cho thấy, công chúng nhận định QC có ảnh hưởng từ các mức độ rất đáng kể, đáng kể đến không đáng kể tới các vấn đề: Kích thích hành vi bạo lực (44,3%); Gây tò mò giới tính hay các vấn đề tình dục (51,7%); Sử dụng ngôn từ thiếu lành mạnh (46%).
Bảng 3.4: Mức độ ảnh hưởng của QC tới một số vấn đề xã hội
Stt
Nội dung
Mức độ ảnh hưởng
Rất đáng kể
Đáng kể
Không đáng kể
Không ảnh hưởng
Kích thích hành vi bạo lực
9.3%
9.7%
25.3%
55.7%
Gây tò mò giới tính hay các vấn đề tình dục
10%
11%
30.7%
48.3%
Sử dụng ngôn từ thiếu lành mạnh
9.7%
9.3%
27%
54%
Vấn đề gây tò mò giới tính hay các vấn đề tình dục được cho rằng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi QC (chiếm 51,7%, trong đó 10% số người trả lời là có mức độ ảnh hưởng rất đáng kể; 11% đáng kể; 30,7% không đáng kể).
- Do tất cả các nhà QC đều muốn quảng bá sản phẩm của mình nên không quan tâm đến nội dung QC. Nhiều khi muốn tăng tính hình thức cho QC đã sử dụng một số hình ảnh hơi sexy và có một chút tính kích động. (PVS1, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
Thực tế, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều QC sử dụng biểu tượng hay những hình ảnh mang tính gợi tình nhằm mục đích thu hút sự chú ý của công chúng. Nhiều hình ảnh QC sử dụng các cô gái ăn mặc quá hở hang, uống bia ừng ực với người ngoại quốc, mép dính đầy bọt bia... Đó là tất cả những nét văn hóa lạc lõng, xa lạ với bản sắc văn hóa truyền thống của phụ nữ Việt Nam, vốn ưa sự kín đáo, thanh lịch.
Bên cạnh đó, hình tượng những người hùng trong các cuộc tranh tài, tỉ thí, giải cứu mỹ nhân với các pha trình diễn võ thuật, đánh đấm khốc liệt cũng xuất hiện khá nhiều trong các QC như QC bột giặt Viso, QC giàu gội đầu X-men v.v.. Những hình ảnh này đôi khi làm người xem, đặc biệt là thanh thiếu niên bị kích động, muốn hóa thân trở thành những người hùng như trong QC.
3.2.3. Dễ làm hư trẻ em
Trẻ em là đối tượng đặc thù, với đặc trưng hay tò mò và hay bắt chiếc. Những hình ảnh, âm thanh ấn tượng, bắt mắt trên các PTTTĐC thường rất dễ tác động đến nhóm công chúng này. Và thông thường, các ông bố bà mẹ lại dễ chiều theo những nhu cầu của con cái. Chính vì vậy, các nhà QC đã xác định đây là nhóm đối tượng cần tập trung khai thác và trên thực tế, đã có những QC chỉ nhắm tới đối tượng trẻ em, cho dù sản phẩm được QC không phục vụ trực tiếp cho chúng. Trẻ em thích xem và thuộc rất nhiều các QC, đồng thời lại hay bắt chiếc các QC bằng cách hát theo bài hát, nói ra câu nói, hay làm theo những hành động QC mà chúng ưa thích.
- QC nào mấy đứa trẻ cũng thuộc và QC nào mà phù hợp với lứa tuổi của nó, nó cũng bắt bố nó mua bằng được. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
- Trẻ con chịu tác động nhiều nhất vì những cái gì đập vào mắt nó và thu hút nó thì nó sẽ bắt chiếc và làm theo. Ví dụ như nước tăng lực dành cho người gầy. Bọn trẻ con chỗ khu tập thể của em thường bắt chước và làm theo tư thế đó. (PVS 4, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- Em thích câu “tôi thích màu đen, màu đen lôi cuốn” là QC sản phẩm Clear ạ. Có Bi Rain xuất hiện. Khi em nói như vậy thì chị em bảo em là đồ bắt chiếc. (TLN 2, nam, lớp 4)
Kết quả khảo sát về đánh giá ảnh hưởng tiêu cực của QC đến trẻ em được biểu thị trong biểu đồ 3.6 dưới đây.
Biểu đồ 3.6: Nhận định về ảnh hưởng tiêu cực của QC đến trẻ em (%)
52% cho rằng các QC đang có những ảnh hưởng tiêu cực khiến cho trẻ con bắt chước những thói quen xấu của người lớn. 50.3% cho rằng các QC đang khiến cho những đứa trẻ bắt chước lời nói và hành động không phù hợp. Có những QC chúng không hiểu đó là QC gì, nhưng vì QC cứ lặp đi lặp lại một nội dung, lặp đi lặp lại những câu nói lẽ ra trong tầm tuổi của chúng vẫn chưa nên tiếp xúc quá sớm và không phù hợp một chút nào. 34,7% cho rằng QC đang khiến những đứa trẻ có thói quen hay vòi vĩnh.
- QC nào chúng thấy thích sẽ đòi bố nó mua bằng được. Khi những đứa trẻ được thỏa mãn rồi thì chúng lại tiếp tục đòi hỏi các sản phẩm khác và sự đòi hỏi này càng cao lên. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
- Ông bà, bố mẹ rất chiều cháu, con. Muốn mua gì cũng mua. Các QC làm cho trẻ con nó học mót nhiều. (PVS 12, nữ, 72 tuổi, nghỉ hưu)
Theo ý kiến của nhiều người lớn, các QC đang khiến cho họ có một tâm lý bất an với những em nhỏ. Có một số QC quá sexy khiến cho họ không thể yên tâm nếu để những đứa trẻ ngồi xem ti vi một mình, dễ khiến cho trẻ con có tâm lý tò mò nảy sinh.
- Có QC nam dược về tráng dương xuất hiện những hình ảnh gần như là trước khi sinh hoạt phòng the. Nó khiến cho trẻ em tò mò. Mấy đứa trẻ ở nhà xem xong rồi hỏi: QC gì đây bố. Và bố thì không biết nói gì cả, chỉ cười và ngượng. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
Các QC có tính chất kích thích bạo lực khiến cho những đứa trẻ cũng đua theo đấm đá và mơ ước mình có thể mạnh mẽ được như thế, nhất là với những bé trai. Các ảnh hưởng tiêu cực khác cũng đáng phải quan tâm như: thích hình thức, hay so bì, nói dối, lấy trộm đồ cũng là những tác động không tốt mà các QC ảnh hưởng tới trẻ em.
3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của QC tới yếu tố lối sống
Như ta đã biết, lối sống được hiểu như những cách thức, phép tắc tổ chức và điều khiển đời sống cá nhân và cộng đồng đã được thừa nhận rộng rãi và trở thành thói quen. Lối sống không chỉ là hành vi như cách đi lại, ăn nói, mà theo nghĩa rộng, bao gồm tư duy, làm việc và phương cách xử lý các mối quan hệ. Như vậy, khi xem xét ảnh hưởng tiêu cực của QC đến lối sống, 03 chỉ báo tiêu biểu được lựa chọn là: hình thành thói quen tiêu dùng, kích thích lối sống hưởng thụ và chuộng hình thức.
3.3.1. Hình thành thói quen tiêu dùng
Theo số liệu thu được từ nghiên cứu định lượng, có đến 65,3 % số người được hỏi cho rằng thói quen đi mua sắm của họ chịu tác động của QC trên các PTTTĐC (biểu đồ 3.7). Trong đó, 10,3% cho rằng việc mua sắm hàng hóa của mình gần như chịu sự định hướng hoàn toàn của QC. Nữ giới chiếm tới 74,1% trong số những người chịu ảnh hưởng của QC nhiều nhất đến thói quen tiêu dùng.
Có đến 59,5% số người được hỏi đã từng mua ngay một sản phẩm / dịch vụ sau khi xem QC (biểu đồ 3.8).
Biểu đồ 3.7: Thói quen đi mua sắm chịu ảnh hưởng của QC trên các PTTTĐC
Biều đồ 3.8: Mua ngay một sản phẩm / dịch vụ sau khi xem QC
Ngày nay, thông tin QC len lỏi vào mọi ngõ ngách của đời sống con người, nhất là giới trẻ ưa thích sự thay đổi. Với tác động của thông tin QC, người ta dễ trở thành "nô lệ" của đồ vật vì sự tiêu dùng được QC kích thích. Sự thôi thúc của QC dường như đã trở thành một bộ phận của cuộc sống, của nhiều tầng lớp xã hội. Thực tế cho thấy, QC tác động rất mạnh đến lối sống của các nhóm xã hội nói chung và lớp trẻ nói riêng, như văn hóa tiêu dùng... Chẳng hạn, giới trẻ bị QC đánh trúng tâm lý với những lời lẽ QC rất kích động như sành điệu, sang trọng, tiện lợi hơn, bản lĩnh đàn ông thời nay... tạo ra sự thay đổi nhanh chóng các nhu cầu của bản thân, dẫn đến sự hình thành lối sống tiêu dùng. Đó là những hình thức tiêu dùng không hợp lý, phung phí tiền của và thời gian. Hệ lụy của nó thậm chí còn ảnh hưởng đến những mối quan hệ khác trong gia đình và xã hội. Suy rộng ra, QC làm hình thành xã hội tiêu dùng thực dụng, đó là mặt trái của văn hóa QC.
3.3.2. Kích thích lối sống hưởng thụ
Có tới 70,3% công chúng khẳng định QC là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự lây lan lối sống hưởng thụ trong xã hội ngày nay (biểu đồ 3.9). Lối sống hưởng thụ khiến con người trì trệ, quên đi việc cần phải cố gắng lao động để hưởng đúng công sức xứng đáng. Các QC quá hoa lệ, quá hấp dẫn, mang tính chất lý tưởng hóa cuộc sống khiến cho người tiếp nhận thông điệp QC dễ lầm tưởng đấy là thực tại của bản thân. Những tác động tưởng chừng như vô hại sẽ dẫn tới những ngưỡng vọng về một cuộc sống đầy đủ và xa xỉ mà không cần phấn đấu nhiều.
Biểu đồ 3.9: QC làm lây lan lối sống hưởng thụ trong xã hội (%)
Đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất chính là thanh niên. Lớp trẻ năng động, sáng tạo, hiện đại và sống khá vội vàng, họ luôn muốn cập nhật những thứ mới mẻ nhất. Xã hội 8x, 9x đang lan truyền một lối sống “học theo, đua đòi, thích hưởng thụ”.
- Về thanh niên thì bị ảnh hưởng một là về lối sống, hai là về hành động bởi vì trong những cái QC đó, trong lứa tuổi đó đang học, đang bắt chước nhưng nhiều cái quá với khả năng của các cháu, trong suy nghĩ hoặc các cháu xem trong QC. (PVS 10, nam, 50 tuổi, viên chức nhà nước)
3.3.3. Chuộng hình thức
Có 14,3% ý kiến tán đồng là QC có ảnh hưởng đến gu thẩm mĩ của cá nhân. Những ảnh hưởng đó thể hiện nhiều trong cách ăn mặc, trong quan điểm về cái đẹp…
- Các QC ăn mặc hơi nhố nhăng, ảnh hưởng tới cách ăn mặc của bọn trẻ bây giờ, nhất là với con gái trẻ. (PVS 12, nữ, 73 tuổi, nghỉ hưu)
- Về ăn mặc thì lứa tuổi cấp 2 và đến cấp 3 thì bị ảnh hưởng nhiều nhất. Có nhiều người ăn mặc tràn lan mỗi khi rộ lên cái mốt nào đó. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
Có thể thấy, thanh niên là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất (58,1%). Tiếp đến là trung niên (32,6%) và cuối cùng là người cao tuổi (9,3%).
Bảng 3.5: Tương quan giữa ảnh hưởng của QC tới gu thẩm mĩ với Độ tuổi
QC ảnh hưởng tới gu thẩm mĩ
Độ tuổi
Total
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Có
25
14
4
43
Không
75
86
96
257
Total
100
100
100
300
Cách chăm sóc bản thân cũng có thể bị thay đổi theo QC. Với yếu tố này thì tuổi trung niên có nhiều thay đổi nhất (45,4%), sau đó mới là thanh niên (36,4%). Người cao tuổi gần như ít có những thay đổi về cách chăm sóc bản thân do QC đem lại (18,2%).
QC cũng có thể dẫn tới sự thay đổi về thói quen quan sát và đánh giá người khác. 15,7% lựa chọn phương án có bị QC tác động tới làm thay đổi sự quan sát và đánh giá người khác. 49% với các thang đo: ít khi, thỉnh thoảng và nhiều lần, đã từng tỏ ra coi thường một ai đó do ăn mặc không hợp thời trang.
Bảng 3.6: Bảng tương quan giữa ảnh hưởng của QC
tới cách quan sát và đánh giá người khác với Độ tuổi
QC ảnh hưởng tới cách quan sát và đánh giá người khác
Độ tuổi
Total
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Có
16
19
12
47
Không
84
81
88
253
Total
100
100
100
300
Lứa tuổi trung niên có xu hướng bị tác động nhiều hơn, họ sẽ có những quan sát và đánh giá người khác dựa trên những QC tác động vào. Chỉ có 37,3% cho rằng, QC không ảnh hưởng gì tới thói quen của người tiếp nhận. Vậy QC có những ảnh hưởng nhất định nào đó, cho dù chưa rõ rệt, nhưng nó cũng mang lại những thay đổi trong thói quen lối sống hàng ngày của công chúng.
*
QC cho dù nhìn thấy ở phần nổi của nó những tích cực và những hiệu quả rất cao, nhưng những ảnh hưởng tiêu cực tới các yếu tố cá nhân: yếu tố tâm lý, yếu tố đạo đức và yếu tố lối sống đang thực sự tồn tại và cần có những thay đổi phù hợp để góp phần làm cho QC trên các PTTTĐC được hoàn thiện hơn.
Các QC tràn lan, xuất hiện không đúng lúc gây ra trước hết những khó chịu, ức chế về mặt tâm lý cho người theo dõi. QC quá phô trương, thường nói quá lên so với chất lượng sản phẩm tạo ra tâm lý nghi ngờ cho người sử dụng. Những ức chế tâm lý cho dù trong thời gian ngắn, sự nghi ngờ ở hầu hết công chúng kéo theo hệ quả tất yếu là sự mất thiện cảm dành cho QC nói chung cũng như các đối tượng liên quan đến QC nói riêng.
Về yếu tố đạo đức, một số những yếu tố đạo đức cá nhân trong xã hội chịu ảnh hưởng của QC hay có dấu hiệu bị giảm sút. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới đạo đức truyền thống dân tộc đã gìn giữ ngàn đời. Bên cạnh đó, QC còn kích thích các yếu tố dung tục có chiều hướng tăng lên: Kích thích hành vi bạo lực; Gây tò mò giới tính hay các vấn đề tình dục; Sử dụng ngôn từ thiếu lành mạnh… Và một điều đặc biệt nguy hại là QC dễ làm hư trẻ em – đối tượng cần được định hướng phát triển lành mạnh trong giai đoạn nhận thức còn non nớt này.
Về yếu tố lối sống, QC có thể ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng, lối sống hưởng thụ, sự chuộng hình thức như gu thẩm mĩ, cách chăm sóc bản thân, coi thường người khác qua cách ăn mặc… Lối sống của các cá nhân chịu những ảnh hưởng của QC, khiến cho những thói quen, những hành động, phong cách sống có những biến đổi tiêu cực.
Cũng từ những phân tích số liệu định lượng qua điều tra bảng hỏi và phân tích định tính thông qua các PVS, TLN ở trên, có thể nói giả thuyết nghiên cứu đưa ra: Các yếu tố tâm lý, đạo đức, lối sống của công chúng thay đổi theo mức độ tiếp cận với QC trên các PTTTĐC là đúng.
Chương 4
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN YẾU TỐ
KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA CÔNG CHÚNG
Các kết quả khảo sát từ chương III đã chứng minh QC trên các PTTTĐC có những tác động tiêu cực rất rõ tới các yếu tố tâm lý, đạo đức, lối sống của công chúng. Trong chương IV, dựa trên các chứng cứ thu thập được, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích và đánh giá xem QC báo chí tác động như thế nào đến yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội của công chúng.
4.1. Tác động tiêu cực đến yếu tố kinh tế
Việc hình thành thói quen tiêu dùng, hay lối sống hưởng thụ, xét cho cùng, đều dẫn tới những thiệt hại đáng kể về kinh tế cho cá nhân. Mua nhiều, mua thường xuyên, mua về xong không dùng tới, tích cực mua hàng hóa đến mức mất khả năng thanh toán v.v... là một trong những minh chứng tiêu biểu mà người tiêu dùng hay gặp phải do chịu sự tác động của QC trên các PTTTĐC.
4.1.1. Tốn tiền mua sản phẩm/ dịch vụ không cần thiết
17% số người đã từng quyết định lựa chọn một địa điểm vui chơi sau khi theo dõi một QC tỏ thái độ không hài lòng do đã phải bỏ một khoản chi phí nhưng chất lượng dịch vụ lại không như giới thiệu QC.
Với câu hỏi “Có bao giờ việc mua một sản phẩm QC khiến bạn rơi vào hoàn cảnh mua xong về chẳng dùng tới?”, có tới 25,3% mẫu nghiên cứu cho biết họ đã từng rơi vào hoàn cảnh đó do chất lượng hoặc mẫu mã sản phẩm không giống như trong QC.
- Chất lượng của nó làm cho mình cảm thấy không hài lòng. Nhiều cái mua về chưa gì nó đã hỏng hoặc là dùng nó kém hơn như trên QC… Nhiều cái mua về nhưng không dùng đến, hoặc chán luôn vì thấy nó không đẹp như trên QC. (PVS 8, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- Có những cái trên QC có thiết kế cũng như công suất khác với khi về lắp ráp hay sử dụng. (PVS 10, nam, 50 tuổi, viên chức nhà nước)
Do là đối tượng tích cực mua hàng QC nhiều hơn nên nữ giới cũng chính là nhóm công chúng cảm nhận về sự phung phí bởi những hàng hóa vô ích rõ hơn nam giới (31,3% so với 19,3%) (chi tiết bảng 4.1).
Bảng 4.1: Tương quan giữa
việc mua một sản phẩm QC xong về chẳng dùng tới với giới tính (%)
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng
Có
19,3
31,3
25,3
Không
80,7
68,7
74,7
Tổng
100
100
100
Cùng xét hoàn cảnh này nhưng so sánh giữa các nhóm theo môi trường sống, ta cũng thấy một sự chênh lệch rất đáng kể. Ở thành phố, có tới 40,7% số người trả lời đã từng rơi vào trường hợp mua một sản phẩm QC về chẳng dùng tới, trong khi ở nông thôn, chỉ có 10% trả lời như vậy.
Bảng 4.2: Tương quan giữa việc mua một sản phẩm QC xong
về chẳng dùng tới với môi trường sống (%)
Mua một sản phẩm QC xong về chẳng dùng tới
Môi trường sống chủ yếu
Nông thôn
Thành thị
Tổng
Có
10
40,7
25,3
Không
90
59,3
74,7
Tổng
100
100
100
Có thể lý giải điều này là ngoài khả năng tiếp cận QC thấp hơn, mức thu nhập của người dân ở nông thôn cũng thấp hơn so với ở thành phố. Do đó, việc quyết định mua một sản phẩm QC nào đó của người dân nông thôn sẽ được tính toán kỹ lưỡng hơn. Mối liên quan giữa mức thu nhập với các quyết định mua sản phẩm QC giữa các nhóm công chúng được làm rõ hơn trong bảng 4.3 dưới đây.
Bảng 4.3. Tương quan giữa việc mua một sản phẩm QC xong
về chẳng dùng tới với mức thu nhập (%)
Thu nhập/ Tháng
Mua một sản phẩm QC xong về chẳng dùng tới
Tổng
Có
Không
Phụ thuộc hoàn toàn
26.6
73.4
100
Dưới 1 triệu VND
4.3
95.7
100
Từ 1 - 3 triệu
32.3
67.7
100
Từ 3 - 5 triệu
37.1
62.9
100
Trên 5 triệu
41.2
58.8
100
Tổng
25.3
74.7
100
Bảng số liệu trên cho thấy càng có mức thu nhập cao, người ta càng chi tiêu nhiều cho các sản phẩm được QC trên các PTTTĐC mà ít quan tâm đến hiệu quả sử dụng. Sự lãng phí về kinh tế còn thể hiện rất rõ với trường hợp là học sinh, sinh viên chưa có thu nhập, đang phụ thuộc vào gia đình.
Như vậy, bước đầu, ta có thể thấy rằng QC báo chí gây ra một sự lãng phí rất lớn về kinh tế cho các nhóm công chúng.
4.1.2. Mua sản phẩm QC khiến hết tiền chi tiêu, phải vay nợ
So với việc mua một sản phẩm QC về chẳng dùng tới, có ít người rơi vào hoàn cảnh mua một sản phẩm QC khiến hết tiền chi tiêu hơn. Tuy nhiên, cũng có 5% trong số 300 người được hỏi rơi vào hoàn cảnh này. Về độ tuổi, thanh niên có 9%, nhóm người cao tuổi có 6%. Do thu nhập của người trung niên thường là thu nhập chính trong gia đình, việc chi tiêu chủ yếu cũng do họ quản lý, họ luôn hạn chế việc làm cho tiền chi tiêu trong gia đình trở nên cạn kiệt, nên việc mua một sản phẩm QC làm hết tiền chi tiêu ở nhóm tuổi này không xảy ra.
Bảng 4.4: Tương quan giữa
việc mua một sản phẩm QC làm hết tiền chi tiêu với độ tuổi (%)
Mua một sản phẩm QC làm hết tiền chi tiêu
Độ tuổi
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Tổng
Có
9
0
6
5
Không
91
100
94
95
Tổng
100
100
100
100
Bên cạnh đó, cũng còn một số ít người (1,3%) cho biết họ từng rơi vào hoàn cảnh phải vay nợ do mua sắm theo QC. Điều này có thể dẫn đến những ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của công chúng.
4.2. Tác động tiêu cực đến yếu tố chính trị
Các phân tích ban đầu cho thấy 14,7% mẫu nghiên cứu trả lời đã từng gặp những QC nhạy cảm về chính trị, trong đó 11,4% cho rằng thái độ chính trị của mình bị ảnh hưởng bởi những QC đó. Vậy, để làm rõ quan điểm và thái độ chính trị của người dân chịu ảnh hưởng tiêu cực ra sao dưới tác động cả QC báo chí, chúng ta sẽ xét qua hai chỉ báo sau: tư tưởng sùng ngoại và sự suy giảm lòng tự hào dân tộc.
4.2.1. Tư tưởng sùng ngoại
Với 40,3% người cho rằng những QC ấn tượng, tráng lệ nhất hiện nay chính là hình ảnh của lối sống phương Tây, rõ ràng là, sự tác động của việc quảng bá liên tục những hình ảnh như vậy sẽ gây ra những tác động không mấy tích cực đến công chúng nếu so với mặt bằng chất lượng cuộc sống trong nước.
Câu hỏi trực tiếp mà chúng tôi đặt ra cho mẫu điều tra là “Sự thật là bạn có tư tưởng sùng ngoại khi xem các QC của nước ngoài không?”. Kết quả cho thấy có đến 31% công chúng thừa nhận điều đó.
Biểu đồ 4.1: Có tư tưởng sùng ngoại khi xem các QC của nước ngoài (%)
Có,
31
Không,
18.3
Không rõ,
50.7
Các kết quả PVS đã lý giải rõ hơn về điều này:
- Em nghĩ là QC hay và gây ra ấn tượng hầu hết là các QC của nước ngoài, về các sản phẩm của nước ngoài, còn của Việt Nam thì ít và không gây ấn tượng. Hình ảnh và nội dung của QC hàng ngoại thường hay hơn. (PVS 4, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- Một số câu in trên mẫu bao bì: Bột giặt bán chạy tại Mỹ, BVS bán chạy nhất tại Mỹ có tác động đến tâm lý người mua hàng vì người Việt Nam coi trọng công nghệ sản xuất ở nước ngoài. (PVS 1, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- QC hàng ngoại thích hơn, bắt mắt hơn. Của hàng nội nhìn cách QC không đẹp lắm… Em thích hàng ngoại hơn hàng nội. (PVS 5, nam, 20 tuổi, sinh viên)
Tỷ lệ thanh niên có tư tưởng sùng ngoại khi xem các QC của nước ngoài là lớn nhất, chiếm 42% số thanh niên trả lời, trong khi đó, trung niên là 23% và người cao tuổi là 28%. Căn cứ vào biểu đồ 4.2 dưới đây ta có thể thấy được sự tương quan giữa ba nhóm tuổi với các ý kiến trả lời.
Biểu đồ 4.2: Tương quan giữa tư tưởng sùng ngoại
khi xem các QC của nước ngoài với độ tuổi (%)
Có 15,7% trả lời “Có” và 41,7% trả lời “Cũng có thể” cho câu hỏi “Bạn có nghĩ rằng cứ xem nhiều hình ảnh QC của phương Tây sẽ khiến bản thân thích lối sống và môi trường chính trị - văn hóa – xã hội của phương Tây hơn nước ta hiện nay?”.
- Các QC của nước ngoài cho thấy cuộc sống tiến bộ hơn rất nhiều, vượt xa Việt Nam. (PVS 5, nam, 20 tuổi, sinh viên)
Việc thích lối sống phương Tây có thể là bình thường nếu các nội dung QC chỉ đơn thuần phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận, nhưng sẽ rất nguy hiểm nếu các thế lực thù địch, phản động vốn đang lợi dụng các PTTTĐC để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” nhằm làm mất ổn định chế độ XHCN ở Việt Nam. Từ chỗ chỉ thích lối sống và môi trường chính trị - văn hóa – xã hội của phương Tây, công chúng tiếp nhận nếu không có sự cảnh giác và bản lĩnh chính trị tốt sẽ dễ rơi vào vào thái độ ủng hộ, cổ vũ và hưởng ứng những động thái nhằm thay đổi nền dân chủ XHCN ở nước ta. Như vậy, với hơn một nửa (57,4%) mẫu nghiên cứu bộc lộ quan điểm như vậy, ta có thể thấy được phần nào tác động tiêu cực của QC báo chí đối với người dân.
4.2.2. Suy giảm lòng tự hào dân tộc
Đồng thời với việc coi trọng hình ảnh ngoại quốc, Lòng tự hào dân tộc bị suy giảm cũng là một thực tế đang diễn ra mà bắt nguồn bởi một phần nguyên nhân chất lượng QC báo chí còn rất hạn chế của Việt Nam. Có đến 25% mẫu nghiên cứu trả lời rằng cảm thấy lòng tự hào dân tộc bị suy giảm khi xem những QC mà âm thanh, hình ảnh không hấp dẫn, lôi cuốn, cũng như thiếu tính chuyên nghiệp v.v..
Bên cạnh đó, các giá trị truyền thống ít được khai thác làm chất liệu của QC nên so với những hình ảnh văn minh, hiện đại khác, QC hiện nay cũng phần nào làm giảm vị thế của văn hóa, truyền thống người Việt trong con mắt của một bộ phận công chúng.
- Ảnh hưởng tiêu cực mà QC gây ra là ảnh hưởng của lối sống phương Tây. Các truyền thống của Việt Nam ngày càng mai một vì nó không xuất hiện nhiều trong QC. Hầu hết lối sống phương Tây xuất hiện khá nhiều. (PVS 6, nam, 21 tuổi, sinh viên)
Trong việc thừa nhận có sự suy giảm về lòng tự hào dân tộc này, nhóm công chúng thanh niên chiếm tới 49,3%. Điều này cho thấy thanh niên chính là nhóm đối tượng chịu tác động nhiều nhất về quan điểm chính trị của cá nhân trước sự tác động liên tục của QC.
Bảng 4.5: Tương quan giữa sự suy giảm lòng tự hào dân tộc
với độ tuổi (%)
Độ tuổi
Tổng
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Có
49.3
13.3
37.3
100
Không
30.7
40.2
29.1
100
Không rõ
17.4
39.1
43.5
100
Tổng
33.3
33.3
33.3
100
Một nhân tố nữa ảnh hưởng đến sự tác động này của QC chính là trình độ học vấn của công chúng. Kết quả phân tích bảng 4.6 cho thấy, trong nhóm công chúng thừa nhận rằng Lòng tự hào dân tộc bị suy giảm có tới 78,6% có trình độ học vấn dưới Trung học phổ thông, trong khi chỉ 21,4% có trình độ từ đại học/ cao đẳng trở lên.
Bảng 4.6: Tương quan giữa sự suy giảm lòng tự hào dân tộc
với trình độ học vấn (%)
Học vấn
Tổng
Dưới THPT
THPT
Đại học/
Cao đẳng
Trên đại học
Có
13.3
65.3
18.7
2.7
100
Không
20.1
65.9
14.0
0.0
100
Không rõ
10.9
47.8
26.1
15.2
100
Tổng
17.0
63.0
17.0
3.0
100
Những con số trên chứng tỏ một thực tế rằng công chúng có sự đánh giá tác động tiêu cực của QC đối với yếu tố chính trị không hề thấp. Có thể họ chưa thực sự xác định một cách rõ ràng trong câu trả lời song họ đã nhận thức được những nguy hiểm QC mang lại đối với thái độ chính trị của mình cũng như của mọi người trong xã hội.
4.3. Tác động tiêu cực đến yếu tố xã hội
Yếu tố xã hội của cá nhân chịu ảnh hưởng tiêu cực của QC bao gồm 02 loại chỉ báo:
- Các yếu tố xã hội của cá nhân: tổn thất về thời gian; tổn hại về sức khỏe; tổn thương về uy tín, danh dự.
- Các yếu tố xã hội nói chung: định kiến giới; phân biệt giàu – nghèo; phân biệt tôn giáo – chủng tộc; kích động xung đột; lạm dụng hình ảnh người khuyết tật hay việc chê bai, khích bác thói quen, phong tục, tập quán.
4.3.1. Tổn thất về thời gian
Biểu đồ 4.3: Tổn thất về thời gian do QC gây ra
Mức độ tổn thất của QC gây ra thiệt hại cho cá nhân về thời gian cũng khá đáng kể. Có đến 24,4% số người được hỏi cho rằng QC làm họ bị tổn thất về thời gian. Kết quả thu được từ nghiên cứu định tính cũng thể hiện rõ ràng mức độ tổn thất về thời gian mà QC gây ra.
- QC xuất hiện hơi nhiều. Phim thì chỉ chiếu 30’ nhưng QC đã chiếm 10’- 15’ rồi. (PVS 1, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
- QC ngày nay quá nhiều làm người ta cảm thấy khó chịu. Chẳng hạn như là đang xem một bộ phim thì QC đến 10’ -15’ làm người ta quên mất cả nội dung đằng trước như thế nào. Cái này nói chung là không thích, nhiều cái thái quá, không thiết thực. (PVS 8, nữ, 20 tuổi, sinh viên)
Xét về tổng chung mức tổn thất về thời gian đáng kể và rất đáng kể, giữa nữ giới và nam giới không chênh lệch nhau quá nhiều (21,2% so với 27,3%). Tuy nhiên về mức độ tổn thất, xét giữa hai giới có sự khác nhau. Số nữ công chúng cho rằng họ bị tổn thất về thời gian một cách rất đáng kể là 7,3% trong khi không có nam giới nào cho rằng như vậy. Tuy nhiên, ở mức độ đáng kể, 27,3% nam giới thấy họ bị như vậy trong khi ở nữ giới là 14%.
Bảng 4.7: Tương quan giữa mức độ thiệt hại
về thời gian mà QC gây ra với giới tính (%)
Mức độ thiệt hại về thời gian mà QC gây ra
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng
Không có
31,3
35,3
33,3
Không đáng kể
41,3
43,3
42,3
Đáng kể
27,3
14
20,7
Rất đáng kể
0
7,3
3,7
Tổng
100
100
100
So sánh mức độ gây tổn thất của QC cho cá nhân về thời gian giữa các nhóm độ tuổi, nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất là nhóm người trung niên (có tới 7% chịu thiệt hại rất đáng kể và 30% chịu thiệt hại đáng kể). Thấp hơn là nhóm người cao tuổi (22% chịu thiệt hại đáng kể). Thấp nhất là nhóm thanh niên (4% chịu thiệt hại rất đáng kể và 10% chịu thiệt hại không đáng kể).
Bảng 4.8: Tương quan giữa mức độ thiệt hại
về thời gian mà QC gây ra với độ tuổi (%)
Mức độ thiệt hại về thời gian QC gây ra
Độ tuổi
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Tổng
Không có
28
28
44
33,3
Không đáng kể
58
35
34
42,3
Đáng kể
10
30
22
20,7
Rất đáng kể
4
7
0
3,7
Tổng
100
100
100
100
So sánh mức độ tổn thất của QC gây ra cho cá nhân về thời gian giữa các nhóm đối tượng chia theo môi trường sống, ta thấy có một sự chênh lệch khá lớn giữa những người sống ở nông thôn và những người sống ở thành thị. Có đến 33,3% số người được hỏi ở thành thị cho rằng họ bị tổn thất về thời gian do QC gây ra, trong khi ở nông thôn con số này là 15,3%.
Bảng 4.9: Tương quan giữa mức độ thiệt hại về thời gian mà QC gây ra
với môi trường sống chủ yếu (%)
Mức độ thiệt hại về thời gian mà QC gây ra
Môi trường sống chủ yếu
Nông thôn
Thành thị
Tổng
Không có
42
24,7
33,3
Không đáng kể
42,7
42
42,3
Đáng kể
12,7
28,7
20,7
Rất đáng kể
2,7
4,7
3,7
Tổng
100
100
100
4.3.2. Tổn thất về sức khỏe
Có 9,7% người cảm thấy họ bị tổn thất về sức khỏe do QC gây ra. Nữ giới bị ảnh hưởng ở mức độ rất đáng kể nhiều hơn so với nam giới.
Biểu đồ 4.4: Tương quan giữa mức tổn thất
về sức khỏe do QC gây ra với giới tính
Có đến 9,3% nữ giới cảm thấy bị ảnh hưởng rất đáng kể trong khi không có nam giới nào cảm thấy như vậy. Tuy nhiên, ở mức độ ảnh hưởng thấp hơn một chút, có 7,3% nam giới cho rằng họ bị ảnh hưởng sức khỏe đáng kể do QC. Ở mức độ này, nữ giới chiếm tỷ lệ 2,7%.
Xét theo nhóm độ tuổi, nhóm chịu tổn thất về sức khỏe do QC gây ra nhiều nhất là nhóm trung niên. Có tới 16% số người trong nhóm trung niên cho rằng QC gây thiệt hại cho họ một cách rất đáng kể và đáng kể, trong đó ở nhóm thanh niên là 7% và nhóm người cao tuổi là 6%.
Bảng 4.10: Tương quan giữa thiệt hại về sức khỏe QC gây ra với độ tuổi
Mức độ thiệt hại về sức khỏe QC gây ra
Độ tuổi
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Tổng
Không có
50
49
60
53
Không đáng kể
43
35
34
37,3
Đáng kể
5
4
6
5
Rất đáng kể
2
12
0
4,7
Tổng
100
100
100
100
Mức độ tổn thất của QC gây ra thiệt hại cho cá nhân về sức khỏe giữa các nhóm chia theo môi trường sống chủ yếu cũng có sự chênh lệch.
Bảng 4.11: Tương quan giữa mức độ thiệt hại về sức khỏe QC gây ra
với môi trường sống chủ yếu (%)
Mức độ thiệt hại về sức khỏe mà QC gây ra
Môi trường sống chủ yếu
Nông thôn
Thành thị
Tổng
Không có
63,3
42,7
53
Không đáng kể
30,7
44
37,3
Đáng kể
3,3
6,7
5
Rất đáng kể
2,7
6,7
4,7
Tổng
100
100
100
Người dân sống ở thành thị cảm thấy bị tổn thất nhiều hơn so với người dân sống ở nông thôn. Có 6,7% số người ở thành thị trả lời rất đáng kể trong khi ở nông thôn chỉ có 2,7%. Cũng như vậy, có 6,7% người ở thành thị trả lời là đáng kể trong khi ở nông thôn có 3,3%.
4.3.3. Tác động tiêu cực tới uy tín – danh dự của cá nhân
30% mẫu nghiên cứu cho rằng các QC có ảnh hưởng không tốt đến uy tín – danh dự của cá nhân. Thậm chí, có tới 7% cho là ảnh hưởng ở mức đáng kể.
- Có những QC thiếu tôn trọng khán giả khi các nhân vật có những cử chỉ, hành động, lời nói coi thường, động chạm đến thiệt thòi của những người lao động vất vả. Coi công việc của người khác là thấp hèn, như trò cười. (PVS 3, nam, 22 tuổi, sinh viên)
Bảng 4.12: Tương quan giữa mức độ tổn hại về uy tín – danh dự
với độ tuổi (%)
Mức độ thiệt hại về sức khỏe mà QC gây ra
Độ tuổi
Thanh niên
Trung niên
Người cao tuổi
Tổng
Không có
32.4
28.6
39.0
70.0
Không đáng kể
26.1
47.8
26.1
23.0
Đáng kể
81.8
18.2
0.0
3.7
Rất đáng kể
50.0
50.0
0.0
3.3
Tổng
100
100
100
100
Ở đây, một điều khá ngạc nhiên là thanh niên lại là nhóm công chúng cảm thấy bị tổn hại đến uy tín – danh dự nhiều nhất trong số những người có cùng câu trả lời. Lý giải cho điều này là bởi trong khi hai nhóm trung niên và người cao tuổi thường đã định hình và ổn định (bao gồm cả sự chấp nhận, an phận) về mặt vị thế, chỗ đứng trong xã hội thì thanh niên lại vẫn đang trong thời kỳ tìm kiếm chỗ đứng, vị trí của cá nhân mình. Do vậy, một hình ảnh QC nào đó sẽ là phản cảm, chạm đến lòng tự ái của họ khi lại lấy một mẫu hình giống họ để phục vụ cho mục đích QC nhưng theo hướng chê bai, đả kích.
4.3.4. Tác động tiêu cực tới một số yếu tố xã hội nói chung
Theo kết quả nhận được từ nghiên cứu định lượng, công chúng bắt gặp khá nhiều những QC có nội dung/hình ảnh mang tính tiêu cực tác động đến các yếu tố xã hội.
Bảng 4.13: Mức độ ảnh hưởng của các QC có nội dung tiêu cực (%)
STT
Nội dung
Tiêu cực
Rất tiêu cực
Tổng
1
Định kiến giới
13,7
1,7
15,3
2
Phân biệt giàu nghèo
22
10
32
3
Phân biệt tôn giáo, chủng tộc
14,3
5
19,3
4
Kích động xung đột
16,3
8,3
24,7
5
Lạm dụng hình ảnh người khuyết tật, thiểu năng
15,3
7
22,3
6
Chê bai, khích bác thói quen, phong tục, tập quán
10
10
20
Từ bảng trên ta thấy, mức độ ảnh hưởng tiêu cực do những QC mang nội dung/hình ảnh phân biệt giàu nghèo là lớn nhất. Có đến 32% mẫu khảo sát cho rằng những QC phân biệt giàu nghèo có tác động tiêu cực, thậm chí rất tiêu cực. Đánh giá tác động ở mức rất tiêu cực, mức độ ảnh hưởng của những QC phân biệt giàu nghèo cũng là lớn nhất (10%), cùng với nó là QC có nội dung/hình ảnh chê bai, khích bác thói quen, phong tục, tập quán (cũng chiếm 10%). Mức độ ảnh hưởng tiêu cực do những QC mang định kiến giới gây ra theo đánh giá của những người được hỏi là thấp nhất.
Trong cuộc sống hiện đại, vấn đề bình đẳng nam nữ ngày càng được chú trọng. QC trên các PTTTĐC vẫn còn mang những nội dung định kiến về giới gây những ảnh hưởng tiêu cực cho người tiếp nhận. Có 15,4 % người được hỏi cho rằng ảnh hưởng QC định kiến giới có mức độ tiêu cực hoặc rất tiêu cực. So sánh giữa các nhóm nông thôn và thành thị ta thấy có sự chênh lệch: có đến 20% số người được hỏi ở thành thị cho là tiêu cực hoặc rất tiêu cực, trong khi ở nông thôn là 10,7%.
Bảng 4.14: Tương quan giữa mức độ ảnh hưởng của QC
có nội dung / hình ảnh định kiến giới với môi trường sống chủ yếu (%)
Mức độ ảnh hưởng của QC có nội dung / hình ảnh định kiến giới
Môi trường sống chủ yếu
Nông thôn
Thành thị
Tổng
Rất tích cực
5,3
6,0
5,7
Tích cực
17,3
13,3
15,3
Tiêu cực
10
17,3
13,7
Rất tiêu cực
0,7
2,7
1,7
Chưa thấy bao giờ
66,7
60,7
63,7
Tổng
100
100
100
Ngoài các QC có nội dung, hình ảnh định kiến giới, so sánh tương quan giữa tác động của những QC có nội dung/hình ảnh mang tính tiêu cực khác được đề cập phía trên với độ tuổi, giới tính, môi trường sống chủ yếu, giữa các nhóm công chúng được nghiên cứu không có sự chênh lệch nhiều.
*
Ngày nay, QC ảnh hưởng khá nhiều đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng, trong đó có ảnh hưởng tiêu cực đến công chúng. Việc mua một sản phẩm QC về không dùng tới xảy ra khá nhiều, 25,3% số người được hỏi đã từng rơi vào hoàn cảnh này. Lý do là các sản phẩm QC đó có chất lượng, mẫu mã… không tốt như trong QC. Hiện tượng hết tiền chi tiêu, phải vay nợ do mua sản phẩm QC cũng có xảy ra. Mức độ ảnh hưởng tiêu cực của QC về yếu tố kinh tế của cá nhân đối với mỗi nhóm nghiên cứu chỉ có sự chênh lệch đôi chút. Xét tương quan về độ tuổi, nhóm người trung niên chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của QC nhất. Xét tương quan về môi trường sống chủ yếu thì nhóm người ở thành thị chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn so với nhóm người sống ở nông thôn. Những kết luận này đã phần nào chứng minh cho giả thuyết thứ ba“Vấn đề chi tiêu tài chính của cá nhân có xu hướng thiệt hại ngày càng tăng do ảnh hưởng của QC báo chí” là đúng.
Về mặt chính trị, theo người trả lời tự đánh giá thì những ảnh hưởng tiêu cực của QC cũng có những tác động nhất định. 31% người được phỏng vấn có tư tưởng sùng ngoại và 25% bị suy giảm lòng tự hào dân tộc khi xem QC. Một tỷ lệ công chúng không nhỏ cho rằng những hình ảnh, nội dung nhạy cảm về chính trị trên QC làm ảnh hưởng xấu đến thái độ chính trị của họ.
Về mặt xã hội, QC gây ảnh hưởng trên nhiều khía cạnh: tổn thất về thời gian, sức khỏe… Đặc biệt những QC có nội dung/hình ảnh phân biệt giàu nghèo, kích động xung đột… có ảnh hưởng rất tiêu cực đến công chúng. Trong những tổn thất thực tế hoặc những nguy cơ đối với bản thân do QC gây nên, nhưng tổn thất về sức khỏe là đáng kể nhất.
Từ những phân tích trên, ta thấy những yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội của cá nhân đều chịu ảnh hưởng tiêu cực từ QC. Trong những yếu tố đó, những yếu tố xã hội của cá nhân chịu thiệt hại do QC gây ra chịu tổn thất trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Ở những yếu tố khác về kinh tế và chính trị, số người chịu ảnh hưởng tiêu cực đều chiếm vào khoảng 1/5 đến 1/4 mẫu khảo sát. Như vậy, QC trên các PTTTĐC đã gây ra khá nhiều ảnh hưởng tiêu cực về các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội cho công chúng.
KẾT LUẬN
1. QC đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Bản thân QC đã chứa đựng trong nó yếu tố của truyền thông. Hay nói khác đi, QC chính là một dạng thông tin, một kênh truyền thông đặc biệt ngày càng trở nên không thể thiếu trong đời sống xã hội. Chính vì thế, giữa QC và báo chí là một mối quan hệ đặc biệt: gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau. QC góp phần thúc đẩy sự phát triển của báo chí và ngược lại, những loại hình báo chí ưu việt ra đời càng lúc càng cung cấp cho QC những nền tảng mới.
Ở Việt Nam, QC trên các PTTTĐC còn khá mới mẻ và non trẻ so với nhiều nước trên thế giới. Từ khi công cuộc đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành, QC mới thực sự khởi sắc. QC trên báo chí được pháp luật thừa nhận và quy định rõ trong nhiều văn bản pháp quy như: Luật Báo chí; Pháp lệnh QC (thông qua ngày 16/11/2001 và có hiệu lực từ ngày 1/5/2002); các Nghị định, Chỉ thị, Thông tư như Nghị định 32/1999/NĐ-CP về khuyến mại, QC thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại; Thông tư Số 43/2003/TT-BVHTT quy định chi tiết thi hành pháp lệnh QC... Như vậy, luật pháp nước ta đã coi QC là một bộ phận không thể tách rời hoạt động của báo chí.
Hoạt động QC trên các PTTTĐC ở nước ta những năm vừa qua đã diễn ra thực sự sôi động với sự phát triển hết sức mạnh mẽ. Nguồn thu từ QC đối với các cơ quan báo chí ngày càng lớn và quan trọng. Doanh thu từ QC đã nuôi sống hầu hết các cơ quan báo chí.
Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, QC trên báo chí cũng có mặt trái của nó. Đó là nguy cơ sa vào thương mại hóa đơn thuần, làm mất đi ý nghĩa đặc biệt của báo chí đối với đời sống xã hội: QC những hàng hóa không được QC (thuốc lá); QC quá diện tích cho phép (10%); QC với những nét văn hóa lạc lõng, xa lạ với bản sắc văn hóa Việt Nam… Điều này đặt ra những cảnh báo về sự tác động trái chiều của QC đối với công chúng hiện nay.
2. Kết quả khảo sát với 300 phiếu điều tra Anket, các TLN, PVS đã giúp tác giả luận văn đưa ra được những con số chỉ báo về thực trạng tiếp cận QC trên các PTTTĐC của công chúng. Từ đó, các tác động tiêu cực đến yếu tố Tâm lý – Đạo đức – Lối sống, Kinh tế - Chính trị - Xã hội của công chúng cũng được phân tích làm rõ và rút ra một số kết luận trong phạm vi đề tài.
Các phương thức tiếp cận QC không có sự khác biệt nhiều mặc dù công chúng thuộc những giới tính, độ tuổi, môi trường sống khác nhau. Công chúng đều có mục đích và thái độ rõ ràng khi tiếp cận các QC trên các PTTTĐC. Mức độ tiếp cận các QC của công chúng cũng không khác nhau: thường tiếp cận nhiều nhất là truyền hình, rồi mới đến báo/ tạp chí, Internet, phát thanh. Các nội dung QC đều thu hút được công chúng theo dõi. Và mức độ ghi nhớ thông tin liên quan đến sản phẩm QC được thể hiện khi công chúng quan tâm tới sự khác biệt về mặt giá cả, nhãn hiệu, công dụng… giữa các dòng sản phẩm. Thị hiếu về hình thức QC của công chúng khá đa dạng, song nói chung vẫn hướng đến những QC đơn giản mà hiện đại, phù hợp với đời sống xã hội.
Về yếu tố tâm lý, các QC tràn lan, xuất hiện không đúng lúc gây ra trước hết những khó chịu, ức chế về mặt tâm lý cho người theo dõi. QC quá phô trương, thường nói quá lên so với chất lượng sản phẩm tạo ra tâm lý nghi ngờ cho người sử dụng. Những ức chế tâm lý cho dù trong thời gian ngắn, sự nghi ngờ ở hầu hết công chúng kéo theo hệ quả tất yếu là sự mất thiện cảm dành cho QC nói chung cũng như các đối tượng liên quan đến QC nói riêng.
Về yếu tố đạo đức, một số chuẩn mực đạo đức xã hội chịu ảnh hưởng của QC có dấu hiệu bị giảm sút. Bên cạnh đó, QC còn kích thích các yếu tố dung tục có chiều hướng tăng lên. Và một điều đặc biệt nguy hại là QC dễ làm hư trẻ em – đối tượng cần được định hướng phát triển lành mạnh trong giai đoạn nhận thức còn non nớt này.
Về yếu tố lối sống, QC có thể ảnh hưởng tới thói quen tiêu dùng, lối sống hưởng thụ, sự chuộng hình thức như gu thẩm mĩ, cách chăm sóc bản thân, coi thường người khác qua cách ăn mặc… Lối sống của các cá nhân chịu những ảnh hưởng của QC, khiến cho những thói quen, những hành động, phong cách sống có những biến đổi tiêu cực.
Về yếu tố kinh tế, QC ảnh hưởng khá nhiều đến thói quen mua sắm của người tiêu dùng. Việc mua một sản phẩm QC về không dùng tới xảy ra khá nhiều; Hiện tượng hết tiền chi tiêu, phải vay nợ do mua sản phẩm QC cũng có xảy ra.
Về mặt chính trị, theo người trả lời tự đánh giá thì những ảnh hưởng tiêu cực của QC cũng có những tác động nhất định: có tư tưởng sùng ngoại; suy giảm lòng tự hào dân tộc; làm ảnh hưởng xấu đến thái độ chính trị của họ.
Về mặt xã hội, QC gây ảnh hưởng trên nhiều khía cạnh: tổn thất về thời gian, sức khỏe… Đặc biệt những QC có nội dung / hình ảnh phân biệt giàu nghèo, kích động xung đột… có ảnh hưởng rất tiêu cực đến công chúng.
Có thể thấy, những tác động tiêu cực tới các yếu tố trên thay đổi theo mức độ tiếp cận của công chúng. Cuộc sống hiện đại với mức độ tiếp cận thường xuyên với các PTTTĐC, với QC sẽ đưa tới chiều hướng tăng lên của ảnh hưởng thiếu tích cực nếu không có sự điều chỉnh về chất lượng QC.
Như vậy, QC trên các PTTTĐC cho dù nhìn thấy ở phần nổi của nó những tích cực và hiệu quả rất cao nhằm thực hiện mục đích bán hàng – đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng, nhưng những ảnh hưởng tiêu cực tới các yếu tố cá nhân đang thực sự tồn tại và cần có những thay đổi phù hợp để góp phần làm cho QC được hoàn thiện hơn. Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng QC trên các PTTTĐC bị thương mại hóa nghiêm trọng. Do sự thương mại hóa các chương trình QC mà công chúng có những đánh giá thấp vai trò chính trị của truyền thông. Điều đó làm ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của ngành QC đang bước đầu phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam cũng như uy tín của các cơ quan báo chí.
3. QC là yêu cầu tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế càng phát triển thì QC càng mở rộng. Tuy nhiên, vấn đề là cần phải quản lý như thế nào để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nó.
Thứ nhất, phải nâng cao chất lượng QC, hay nói khác đi là phải chuyên nghiệp hóa QC trên các PTTTĐC. Các cơ quan báo chí phải chuyên nghiệp hơn trong vấn đề sử dụng QC. Nội dung thông tin, hình thức, thời lượng phát sóng, diện tích đăng tải đến đâu để hợp lý và cân bằng giữa lợi ích kinh doanh với lợi ích của công chúng. Bởi một lẽ dễ hiểu là công chúng hiện đại cũng ngày càng trở nên chuyên nghiệp trong việc thưởng thức các món ăn mà báo chí đem lại. Nếu quá dở, họ sẽ quay lưng lại. Và nếu quá nhiều, họ cũng sẽ bị “bội thực”. Điều này lại một lần nữa đặt ra sự chuyên nghiệp trong mối quan hệ giữa báo chí với các doanh nghiệp.
Thứ hai, phải đối tượng hóa công chúng xã hội. QC cho ai, giới tính gì, độ tuổi nào, môi trường sống ra sao, trình độ văn hóa thế nào... luôn là các chỉ báo hết sức quan trọng. Yêu cầu đối với người làm công tác QC là phải hiểu công chúng, nắm rõ được những đặc điểm, nhu cầu, mong muốn của của từng đối tượng công chúng. Nội dung và hình thức QC đều phải đáp ứng được nhu cầu, sở thích và mong muốn đó. Việc định vị rõ đối tượng công chúng sẽ giúp các PTTTĐC thu hút được nhiều khách hàng QC. Đồng thời, số lượng cũng như đối tượng công chúng sẽ quyết định được giá quảng cáo, dẫn đến tăng doanh thu – từ đó trở lại nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý để điều chỉnh sự phát triển của báo chí phù hợp nhằm phục vụ đắc lực những mục tiêu phát triển đất nước. Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường vai trò quản lý, giám sát, thanh kiểm tra các hoạt động QC, giúp QC đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới trên cả phương diện kinh tế, văn hóa và xã hội, đặc biệt là phương diện kinh doanh báo chí. Nhất là, phải có sự kiểm soát, thẩm định kỹ càng khía cạnh văn hóa, đạo đức, sự tương ứng giữa thông điệp QC với chất lượng thực tế của hàng hóa để loại thải những QC kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của QC.
Hiệp hội QC Việt Nam cho rằng: "Nhìn toàn cục, chúng ta chưa có chiến lược, quy hoạch phát triển QC cho cả nước" [14]. Đối với ngành QC còn non trẻ như tại Việt Nam hiện nay, khi luật QC và các qui tắc đạo đức trong QC còn tương đối lỏng lẻo, thì hầu như mọi người trong nghề đều tự dựa vào những chuẩn mực đạo đức của riêng mình khi tạo ra một sản phẩm QC mới. Điều đó đôi khi dẫn đến những sai lầm không chỉ của sản phẩm QC đó, mà có thể người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tìm hiểu sâu hơn về bản chất, tính chuyên nghiệp để đưa ra những quyết định sát thực hơn.
Về đào tạo, hệ thống đào tạo chính quy của nước ta cũng ít có chuyên ngành dành cho QC. Cả người làm nghề cũng như người quản lý đều non yếu về nghề. Nhìn chung bức tranh QC Việt Nam vẫn mang nặng tính "tự phát".
Với nhiều bất cập còn tồn tại, ngành QC Việt Nam muốn thực sự lớn mạnh nhất thiết phải được quy hoạch một cách khoa học ở tầm vĩ mô và trong từng doanh nghiệp, từng cơ quan báo chí. Dù là lựa chọn cách làm nào thì việc xây dựng một quy hoạch ít nhất là đến năm 2020 đã là một yêu cầu cấp bách để tiến tới xây dựng ngành QC Việt Nam nói chung và QC trên các PTTTĐC nói riêng ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Chiến lược được đề ra và thực hiện sẽ khắc phục được tình trạng phát triển manh mún, phân tán trong QC; tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, nâng cao số lượng, chất lượng cán bộ chuyên môn và góp phần hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị 22 - CT/TƯ ngày 17 - 10 - 1997 về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb Lý luận Chính trị, H.
Chính phủ, Nghị định 32/1999/NĐ-CP về khuyến mại, QC thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại.
Chính phủ, Thông tư Số 17/2001/TT-BTM, ngày 12/7/2001 Hướng dẩn thực hiện hoạt động khuyến mại quy định tại Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 05 tháng 05 năm 1999 của Chính phủ về việc khuyến mại, QC thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại.
Chính phủ, Thông tư Số 43/2003/TT-BVHTT Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 24/2003/NĐ-CP ngày 13-3-2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh QC.
TS Hoàng Đình Cúc – TS Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, NXB Lý luận chính trị, H.
Armand Dayan (1998), Nghệ thuật QC, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
ThS. Trần Bá Dung (2007), “Nghiên cứu công chúng – người tiếp nhận, những cách tiếp cận”, Tạp chí Người làm báo (số tháng 7).
Bạch Tri Dũng (1998), Sách lược trong nghệ thuật QC, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đào Hữu Dũng (2003), QC truyền hình trong kinh tế thị trường – Phân tích và đánh giá, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
TS Nguyễn Văn Dững, PTS Hoàng Anh (biên dịch) (1998), Nhà báo - bí quyết kĩ năng - nghề nghiệp, Nxb Lao động.
PGS.TS Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Truyền thông –Lý thuyết và kỹ năng cơ bản, Nxb Lý luận chính trị.
Hội thảo “Báo chí với doanh nghiệp – doanh nghiệp với báo chí” ngày 6/1/2007.
Thị trường QC: cạnh tranh đã đến hồi quyết liệt, 27/07/2005.
QC trực tuyến: Chờ khơi nguồn, 10/09/2006.
Thị trường QC Việt Nam: Các DN trong nước từng bước khẳng định mình, 22/08/2007.
QC thời WTO: Ta càng ít, người càng nhiều, 27/06/2007.
Khó khăn, Doanh nghiệp vẫn chi nhiều cho QC, 28/08/2008.
Nguyễn Văn Hà (2006), Nghệ thuật QC, NXB Lao động – Xã hội.
Đỗ Thu Hằng (2000), “Những vấn đề cơ bản về Tâm lý tiếp nhận của công chúng báo chí”, Báo chí – những điểm nhìn từ thực tiễn, NXB Văn hóa – Thông tin.
TS Đinh Thị Thúy Hằng (chủ biên) (2008), PR – Lý luận và ứng dụng, Nxb Lao động – Xã hội.
Nguyễn Quang Hoà (2001), Luận văn cao học QC trên báo in và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội (Qua khảo sát một số báo, tạp chí của Trung ương và Hà Nội), Phân viện Báo chí và Tuyên truyền.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2007), Tổng quan Hội thảo khoa học “Truyền thông đại chúng Việt Nam trong xu thế hội nhập hiện nay”.
Mai Xuân Huy (2005), Ngôn ngữ QC dưới ánh sáng của lí thuyết giao tiếp, NXB Khoa học xã hội.
Otto Kleppner (1992), Công nghệ QC, NXB Khoa học và Kĩ thuật.
Jay Conrad Levinson (2003), Lên một kế hoạch QC, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Hoàng Long (1998), Khóa luận QC báo in – đặc trưng và những dạng thức cơ bản, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền.
Luật báo chí.
Luật sửa đổi một số điều của Luật Báo chí, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1992), Nghề nghiệp và công việc của Nhà báo, Hội Nhà báo Việt Nam, Hà Nội.
Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 39/2001/PL-UBTVQH10 ngày 16/11/2001 về QC.
Hoàng Phê (chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thuận Hoá.
Nguyễn Thị Quý Phương (2008), “Một số đặc điểm của thị trường thông tin và kinh doanh báo chí trong bối cảnh toàn cầu”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (số tháng 4).
Lê Hoàng Quân (biên soạn) (1999), Nghiệp vụ QC và tiếp thị, NXB Khoa học và Kĩ thuật.
Lê Minh Quốc (2000), Hỏi đáp Báo chí Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) (1999), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Vũ Diệu Trang (2005), Luận văn Cơ quan báo chí đa loại hình ở Việt Nam, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Hoàng Trọng (chủ biên) (2000), Quảng cáo, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Kiên Trường (2004), QC và ngôn ngữ QC, NXB Khoa học Xã hội.
Nguyễn Quang Tuấn (2006), Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình hoạch định chính sách, Tạp chí Cộng sản, số 117, tháng 10.
Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học.
Vụ Báo chí, Bộ Văn hóa - Thông tin (1998), Các quy định pháp lý về báo chí.
Nguyễn Hoàng Yến (2002), Khóa luận Thực trạng QC trên một số báo in Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát báo Lao động, Văn hóa, Tuổi trẻ TPHCM năm 2001), Phân viện Báo chí và Tuyên truyền.
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUAN VAN CHUAN.doc