Đề tài Tại sao nhà Nguyễn mất nước?

MỤC LỤC A. Dẫn luận B. Triều đại không có lòng dân 1. Lỗi lầm của cầu viện 2. Sự đáp trả của triều đình 3. Những quyết đinh sai lầm 4. Lời biện hộ cho cái “không thể khác” C. Đất nước “không thể cải cách” 1. Nông nghiệp- nỗi băn khoăn của Đại Nam 2. Thương nghiệp-nỗi vô vọng của nền kinh tế 2.1. Tiểu thủ công nghiệp hạn chế-Thương nghiệp kém phát triển 2.2. Thực sự không thể trông chờ vào thương nghiệp 3. Không thể cải cách 3.1. Vướng mắc của chính trị 3.2. Con người Việt Nam và thái độ với người ÂuTây 3.3. Vốn cho cải cách- không tìm được 3.4. Vấn đề từ bản thân các cải cách 4. Tấm gương ngoại quốc- không soi được D. Sự tìm đến Đông Dương của người Pháp 1. Cơ hội từ ông hoàng mất nước 2. Mục đích chính trị và kinh tế 3. Thiên chúa giáo 3.1. Biểu minh cho sự chia rẽ hệ tư tưởng và dân tộc 3.2. Nhân tố gây mất đoàn kết dân tộc 3.3. Đằng sau giáo hội là người Pháp E. Hàm Nghi- sự trớ trêu của lịch sử F. Lời kết

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1928 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tại sao nhà Nguyễn mất nước?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dẫn luận Đại Nam cuối thế kỉ XIX phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược bởi chủ nghĩa đế quốc. Triều đình nhà Nguyễn, với tư cách là đại biểu giai cấp phong kiến bấy giờ, lãnh trách nhiệm lịch sử, lèo lái con thuyền dân tộc. Mỗi quyết định và sự ứng xử của nó quyết định vận mệnh của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam. Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Đại Nam trở thành thuộc địa của Pháp, bắt buộc phải chấp nhận làm thân phận nô lệ cho ngoại bang. Điều ấy chỉ cho phép ta hiểu: nhà Nguyễn đã không làm tròn được trọng trách mà lịch sử trao cho nó. Đó là kết quả của quá trình từng bước lún sâu vào khủng hoảng nhưng lại bế tắc, không thể tháo gỡ của Đại Nam. Những mâu thuẫn, bất đồng ứ đọng trong xã hội cứ thế tích tụ dần và ngày càng đẩy đất nước đến chỗ rối loạn, suy yếu. Việt Nam, vì thế, trước nguy cơ bị xâm lăng chẳng khác nào một cơ thể ốm yếu đầy bệnh tật, run rẩy trước bệnh dịch nhưng khăng khăng không chịu (hay không thể) uống thuốc. Bằng bất cứ cách lí giải nào, chúng ta phải thừa nhận rằng sở dĩ Nhà Nguyễn lún sâu vào trong mâu thuẫn chính là vì từ trong nó (từ trong bản chất của nó) nó có lí do (có khả năng) để hành động như vậy. Rõ ràng, khi theo sát qýúa trình lịch sử trong thế kỉ XIX, hoàn toàn có thể nhìn thấy một chuỗi sự kiện logic,liên tục, mà, chính từ đó, triều đình Huế mâu thuẫn với quần chúng nhân dân, rồi tự mâu thuẫn với chính mình. Những phân tích về nguyên nhân mất nước của nhà Nguyễn chủ yếu tập trung vào hai luận đề: “không tin dân” và “không làm cải cách”. Nói cách khác,lẽ ra triều đình Huế đã phải làm được ít nhất một trong hai việc đó, nhưng nó đã không làm được gì, bối rối trước mọi tình hình, dần đánh mất vai trò của mình. Liệu nhà Nguyễn có cơ hội thay đổi kết quả mất nước năm 1883 không? Câu hỏi đó chắc sẽ còn vương lại trong đầu của mọi nhà nghiên cứu sử học. B. Triều đại không có lòng dân 1. Lỗi lầm của cầu viện Chẳng ai có cơ hội thay đổi quá khứ của mình, chí ít là thay đổi những điều sai trái đã gây ra, Nguyễn Ánh cũng vậy. Cầu viện quân Xiêm rồi kí hiệp ước với Pháp có lẽ đều không phải là những việc làm có ích. Trái lại, nó hằn vào nhà Nguyễn như vết thương không mất đi bao giờ trên khuôn mặt. Hậu quả những hành động của “ông Hoàng mất nước” tai hại đến nỗi âm hưởng từ nó gây ra tình trạng mâu thuẫn nghiêm trọng giữa triều đình và nhân dân. Sở dĩ sai lầm đó nghiêm trọng chính vì với người dân Việt Nam, đó là một cấm kị. Người Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn cùng tính cộng đồng cao hình thành sau suốt chặng đường kháng chiến và chống lụt hàng nghìn năm. y thức về cái chung,về tổ quốc được củng cố làm mờ y thức về cái tôi. Quốc gia, vì lẽ đó được đặt lên trên cao hơn hết : đạo đức lớn nhất là làm lợi cho đất nước, người Việt không bao giờ lấy dòng họ đặt tên cho đất nước. Hơn nữa, dẫu cầu viện ngoại bang không phải là hiện tượng hiếm trong lịch sử, nhưng, tranh chấp nội bộ dân tộc, dẫn ngoại tộc vào, đối với người Việt khác nào bán mình cho giặc. Nguyễn Ánh – một người Việt quả cảm, thông minh, tài trí – nhưng khi để nỗi hận thù che mờ mắt, nôn nóng phục hưng dòng tộc, đã đặt đạo đức dòng tộc cao hơn đạo đức quốc gia. Lập tức, trong con mắt của sĩ phu, nhà Nguyễn trở lại với vết hoen ố không thể tẩy rửa. Mặt khác, đối với nhân dân, lỗi lầm của ánh là đáng giận, đáng căm ghét. Bởi vậy, chẳng có gì khó hiểu khi người Việt Nam, vốn hiền lành, quen an phận thủ thường, nhưng hễ bất bình với triều đình Nguyễn lại nổi dậy. Từ Gia Long đến Tự Đức, vốn không phải những ông vua bất tài (lại càng không phải hôn quân) nhưng có đến gần 400 cuộc khởi nghĩa, (riêng thời Gia Long có đến 90 cuộc khởi nghĩa). Nếu như nhà Lý, Trần, Lê có được vị trí vững chắc trong lòng dân nhờ công dẹp ngoại xâm, thì trái lại, nhà Nguyên để mất cơ sở niềm tin bởi đã “trót” dẫn quân Xiêm về làm “khách” của Đại Nam. Lỗi lầm ấy của Gia Long đã hại nhà Nguyễn đến chỗ phản ứng tiêu cực một cách mù quáng trước nhân dân. Lùi về Huế, buông bỏ Bắc Hà, không quản lí nổi Nam Kì, triều đình Huế tự cô lập mình với dân tộc. Mầm mống cho sự yếu kém của đất nước bắt đầu từ đây. 2. Sự đáp trả của triều đình Có lẽ nhận thức được thái độ của nhân dân, Nguyễn Ánh cũng như những vị vua kế tiếp ông thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Tiếc rằng triều đình chỉ có thể khôn khéo lợi dụng sự phân tán của các phong trào nhỏ lẻ mang tính địa phương ấy, song chẳng có cách nào tìm được vị trí thực sự trong dân. Thuế tăng cao, bóc lột người dân đến từng xu để đàn áp những đồng bào không cam chịu khổ nhục của họ. Đáng thương cho trều Nguyễn, càng đàn áp nhằm tìm cách khẳng định vị trí của mình (biện pháp của kẻ mạnh, cái lí của kẻ mạnh), thì nỗi căm oán của nhân dân càng lên cao, mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân và triều đình phong kiến càng sâu sắc, trầm trọng. Vấn đề đằng sau đó của toàn thể quốc gia dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này chính xuất phát từ đây: cùng với đàn áp một cách mù quáng, bất lực trước lòng dân, triều đình Huế đồng thời nảy sinh tâm lí nghi ngờ nhân dân, không tin và gần như sợ dân. Cũng như người hay ốm thường sợ bệnh hay thời tiết thay đổi, nhà Nguyễn lo ngại mối lo nội quốc hơn bất kì mối lo nào khác: nếu phải chọn giải quyết giữa xâm lăng và khởi nghĩa, nhất quyết phải đàn áp các cuộc khởi nghĩa trước. Mối tác động qua lại khởi điểm từ sự chán ghét của nhân dân, sau đó là sự trả thù của giai cấp phong kiến ngày càng tồi tệ hơn. Nhưng không chỉ dừng lại ở sự tồi tệ trên mối quan hệ đó, mâu thuẫn tăng cấp từ sự tương tác này thực sự đẩy nhà Nguyễn đến chỗ tiêu cực trong mọi chính sách, để rồi đưa đất nước vào tình trạng không lối thoát. Đặc biệt, sau khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833) ở Nam Kì, trước sự chống trả quyết liệt của nghĩa quân ( Minh Mạng bất ngờ : “Chỉ đáng lạ cho dân Nam Kì… trước đây cái thói trung hậu là thế, vậy mà một chốc đã có cái cực kì ngu dốt như kia”), triều đình không còn tin ở nhân dân nữa (Nam kì là cái gốc phục quốc của Gia Long). Nét gạch đen vào bức tranh thẳm tối bào hiệu trước những nỗi đau sắp tới của Đại Việt. 3. Những quyết đinh sai lầm 1858 là cái mốc đầu tiên người Pháp thực sự bắt đầu công cuộc xâm chiếm bằng bạo lực. Triều đình Huế đứng trước hai lựa chọn: chủ chiến hoặc chủ hoà. Đó là câu chuyện bất đồng của các vị đại thần núp sau bóng thành Huế, còn danh tướng Nguyễn Tri Phương mới thực là người trực tiếp chỉ huy trên chiến trường. ông có hai lựa chọn chiến thuật: hoặc tìm cách đánh tiêu diệt trực tiếp, hoặc hoặc tìm cách giam chân giặc khiến chúng yếu sức. ông hiểu hơn ai hết rằng: một mặt, quân đội mà ông có trong tay không hề thiện chiến; mặt khác, quân đội Pháp vượt trội về sức mạnh với vũ trang đầy đủ. Vị tướng hàng đầu này lập tức đưa ra giải pháp: vừa cố thủ, vừa thanh dã. Biện pháp này thực sự có hiệu quả: quân Pháp không phát huy được sức chiến đấu, ngày càng rệu rã và mệt mỏi. Tình hình tương quan ta và địch có lẽ phần nào được Trần Trọng Kim nói rất đúng trong cuốn Việt Nam sử lược: “Quân Pháp và quân I-pha-nho ở Sài Gòn bấy giờ chỉ có độ 1000 người mà quân Việt Nam ta thì có đến một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Mình chỉ có mầy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay 300 thước Tây là cùng; còn súng đại bác toàn là súng nạp tiền mà bắn 10 phát không đậu 1. Lấy những quân lính, khí giới ấy mà đối địch với quân đã theo đường lối mới, bắn bằng súng nạp hậu và bằng đạn trái phá, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ Việt Nam ta từ đầu đến cuối chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ, chứ không bao giờ có thế công …” Một cách khách quan, trước hiệp ước Nhâm Tuất, dẫu Pháp đang chiếm ưu thế ở Nam Kì nhưng chúng không có khả năng giữ. Chính Giơnuiy thừa nhận: “nếu họ đánh mạnh thì họ đã đánh bại chúng ta lâu rồi”. Chắc chắn triều đình Huế phải nắm được phần nào thực tế ấy (khi Pháp chủ động đưa những hoà ước ra với điều kiện dễ chịu, triều đình khăng khăng khước từ : đây không phải là cách cư xử của một triều đình hèn nhát, bạc nhược, không biết gì về tình hình quân sự.) – một triều đình không hiểu gì về tình hình quân sự như thế chỉ có ở trong những vở kịch lịch sử ! Khi những biện pháp quân sự không có hiệu quả, biện pháp chính trị được sử dụng. Các giáo sĩ xúi dục Tạ Văn Phụng nổi loạn ở Bắc Kì. Triều đình Huế vội vang kí hiệp ước Nhâm Tuất, chấp nhận những điều kiện ngu xuẩn nhất nhằm rảnh tay đàn áp phong trào nông dân. Vết nứt mà từ đó toàn bộ hình tượng, vai trò của triều đình trước nhân dân bị đổ vỡ. Nhà Nguyễn, đến đây, thực sự mất dân. Hai hòa ước kí năm 1883,1884 gần như chịu chung một loại nguyên nhân đó. Triều đình không tin dân nhưng đánh giặc lại không thể tự mình đánh. Chính vì thế, vua Tự Đức rốt cuộc lại cầu viện đến quân Thanh và Pháp để dẹp yêu giặc dã trong nước, nhưng lại cố gắng xoa dịu các tầng lớp nhân dân. Triều đình, như vậy, đã không thể có một lực lượng thật sự để dựa vào đó, bản thân Tự Đức cũng bối rối và không thể tìm ra giải pháp đúng đắn. Nỗi sợ dân ám ảnh triều Nguyễn dai dẳng- không vượt được lên trên nỗi sợ của chính mình, nhà Nguyễn tự kí bản án nghiệt ngã cho chính nó. Kết quả mất nước hoàn toàn( hiệp ước Pa-tơ-nôt) chỉ là khẳng định cao nhất cho sự thiếu niềm tin và sự sứt mẻ nghiêm trọng lòng đoàn kết, tính thống nhất của Nhà nước với nhân dân trong những thời điểm quan trọng quyết định vận mệnh dân tộc. 4. Lời biện hộ cho cái “không thể khác” Mọi quyết định, hành của nhà Nguyễn không phải là cơn trái tính bất thường- sự lặp lại cùng một hành động trong những thời điểm khác nhau bắt ta phải nhìn nhận rằng hiện tượng này chẳng qua là minh họa rõ nét cho bản chất của nó. Nhà Nguyễn khởi dựng lại cơ đồ bằng mọi thủ đoạn nhằm mục đích duy nhất là khôi phục quyền lợi ích kỉ của dòng tộc, bất chấp đạo đức quốc gia. Ngay từ đầu, Gia Long đã không tiếc công gọi quân Xiêm và cầu viện Pháp; cho đến ngày Tự Đức thà giết đồng bào chứ không đánh ngoại bang. Mọi hoạt động của giai cấp phong kiến trong giai đoạn lịch sử đau thương này bị quy định hoàn toàn bởi bản chất ích kỉ đó của triều Nguyễn. Từ cơ sở đó, toàn bộ những chính sách phản động ra đời, đối lập với nhân dân và sự đối lập này sâu sắc đến độ đủ quẫn trí để quên đi đất nước. Bản chất thứ hai của nhà Nguyễn, xuất phát từ bản chất thứ nhất, là một triều đình sợ dân( hơn sợ giặc). Hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân kết hợp với tính ích kỉ khiến triều đình Huế trở nên nhạy cảm đặc biệt với sự nổi dậy của nông dân. Kết quả của nỗi sợ ấy hoàn toàn có thể khẳng định từ đầu: chẳng có kết quả nào khác cho một dân tộc vốn chiến thắng những kẻ thù hùng mạnh chỉ bởi đã đoàn kết nhưng nay lại chia rẽ, mát đoàn kết. Nếu như người ta vẫn nói “lịch sử-cái gì cần sẽ có”, thì đây :người Pháp đã đến dày xéo mảnh đất Đại Nam đủ để triều đình nhà Nguyễn bộc lộ đầy đủ bản chất của nó. Cuối cùng, chúng ta không thể trách được những gì “vốn nó thế”. Triều đình Huế đã làm những gì mà chính nó là như vậy đấy. Hay, chúng ta trông chờ một phép lạ nào đó khiến nhà Nguyễn thay đổi toàn bộ bản chất của nó? Nếu như có một phép lạ như vậy, thì chúng ta chỉ có thể ước rằng Quang Trung đã không ra đi sớm, để đến nỗi lịch sử bối rối trao dân tộc cho Nguyễn Ánh, mở màn cho tấn bi kịch dằng dặc của Việt Nam. C. Đất nước “không thể cải cách” Một triều đình không tin dân vẫn có thể làm cải cách. Nhưng cải cách không đơn giản là món đồ trang sức có thể mua nó bằng tiền- sự duy tân thành công mang lại sức mạnh cho quốc gia nhưng nó đòi hỏi nhiều yếu tố. Cải cách càng không phải là trò chơi hay tấn kịch mà người ta có thể dàn dựng được. Nửa cuối thế kỉ XIX, một số trí thức Việt Nam tìm cách vận động triều đình thực hiện duy tân. Người ta vẫn kể lại câu chuyện này và thở dài nuối tiếc rằng nhà vua đã quá ngu tối và bảo thủ không làm cải cách. Lịch sử, nhờ thế, dường như bị quyết định bởi nụ cười nhạt của Tự Đức? 1. Nông nghiệp- nỗi băn khoăn của Đại Nam Nam Kì cho đến thế kỉ XIX thực sự là vựa lúa của Việt Nam: người nông dân “làm chơi” nhưng “ăn thật”- vùng đồng bằng Nam bộ quả thức là món quà thiên nhiên ban tặng cho một xứ sở nông nghiệp. Tiếc rằng điều đó không có nghĩa rằng vấn đề lương thực được giải quyết. Nếu trong giai đoạn đó, có vùng nào không bị thiếu đói hay xiêu tán, có lẽ vùng đó không ở Bắc hà lẫn miền Trung. Lương thực thiếu trở thành yếu tố kích thích xã hội rối loạn: nông dân đói bỏ, đi xiêu tán, một bộ phận trở thành giặc cướp. Giặc cướp và khởi nghĩa không chỉ “giúp” triều đình và nhân dân tăng cường đối đầu, mà còn khiến nông dân không thể yên ổn làm ăn. Hậu quả rõ nhất là một chuỗi luẩn quẩn: nông nghiệp sút kém, dẫn đến nổi loạn, nổi loạn bắt triêu đình đàn áp, chi phí cho quân sự vì thế đè nặng lên chính lưng người nông dân và thuế mà họ phải đóng- thuế cao sẽ lại quay trở lại làm tổn thương nền nông nghiệp. Đối với đất nước lấy gạo làm nền sống như Việt Nam, sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng đồng nghĩa với mâu thuẫn xã hội lên cao, xã hội bất ổn : điềm báo của chiến tranh và đổ vỡ. Trên cương vị những người cai quản quốc gia, chắc chắn triều đình nhà Nguyễn cũng thấu hiểu điều này. Có lẽ chính sự thấu hiểu này đã thôi thúc các vua Nguyễn tìm cách phát triển nông nghiệp, không chỉ nhằm giải quyết lương thực, mà cao hơn thế, giải quyết bất ổn xã hội. Từ việc lập sổ địa bạ đến những chính sách khai hoang, doanh điền, quân điền…, kì vọng của thượng tầng xã hội được đáp trả lịch thiệp bằng những nạn đói kế tiếp nhau, đi kèm với khởi nghĩa và nổi loạn. Tự Đức nhận thức được món quà nặng nề ấy, nhưng ngài cũng bất lực, vận mệnh dân tộc thì phó mặc cho ngài. Nông nghiệp sa sút không cho phép tiểu thủ công nghiệp phát triển. Nền sản xuất bất an thì thương nghiệp càng tồi tệ hơn. Tài chính đổ cho những chính sách khai hoang và lập điền tuy có đạt được những thành tựu nhất định nhưng vẫn chẳng thấm vào đâu. Vậy là nông nghiệp Việt Nam thế kỉ XIX trở thành nỗi băn khoăn của toàn thể nền kinh tế, cúng là nguyên nhân của nhiều bất ổn xã hội: triều đình loay hoay đàn áp khởi nghĩa và phát triển nông nghiệp, còn nông dân thì tiếp tục quẫn chí xiêu tán, bỏ ruộng, nổi dậy. Tất cả cho phép ta nhận định rằng: nông nghiệp trở thành sợi dây trói chặt toàn bộ nền kinh tế, không cho và kĩm hãm sự phát triển của nền kinh tế , đồng thời hạn chế khả năng cải cách . Dĩ nhiên nông nghiệp phát triển đâu phải là tiền đề duy nhất cho cải cách! Nhưng sự yếu kém của nó trong một nước dùng nó để tồn tại hơn nghìn năm nay, lại không tạo điều kiện để cải cách có thể tiến hành: không có tài chính, không có lương thực ( mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỉ 17, 18 cũng xuất phát từ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi nhu cầu hàng hóa ngoài nông nghiệp được đưa vào thị trường). Vấn đề nông nghiệp nhức nhối, bằng cách đó nó làm lu mờ những giải pháp khắc phục nằm ngoài nông nghiệp. Thương nghiệp nằm trong tay người Hoa, thuốc phiện được đưa vào ào ạt và gạo bị đưa đi góp phần đẩy nông nghiệp vào đường hẻm. 2. Thương nghiệp-nỗi vô vọng của nền kinh tế 2.1. Tiểu thủ công nghiệp hạn chế-Thương nghiệp kém phát triển Gia Long phục quốc nhờ sự giúp đỡ về kinh tế của Hoa thương, bởi vậy, để đền ơn, ngài đành cắn răng cho họ tự do đi lại buôn bán trên đất Việt. Hoa Kiều chiếm ưu thế ở nước ngoài là hiện tượng phổ biến không chi trên khu vực Đông Nam á. Trong khi đa phần các thương nhân người Việt đều an tâm ngồi ở chợ thì Hoa thương không chỉ hoạt động mạnh ở Nam Kì, họ còn xuôi theo sông Hồng, đi từ Vân Nam xuyên xuống Bắc Hà buôn bán. Nền thương nghiệp bị thương nhân người Hoa thống trị cho đến hết thế kỉ XIX, sang thế kỉ XX vẫn còn âm hưởng. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp khiến ta phải suy ngẫm. Sách “Lịch sử Việt Nam đại cương” cuốn I nhận định: Mặc dù thủ công nghiệp nói chung phát triển nhưng phương thức sản xuất hầu như không phát triển…”. Trong khi vào thế kỉ XVIII, thủ công nghiệp phát triển bởi nông nghiệp đảm bảo nhu cầu các mặt hàng tăng lên, thì hiện tượng nông nghiệp đi xuống kèm theo sự phát triển tiểu thủ công nghiệp thật đáng ngờ. Theo chúng tôi, nỗ lực tìm giải pháp ngoài nông nghiệp tuy có thể đã xuất hiện trong nhân dân nhưng nó không được tạo cơ hội phát huy. Thực tế đơn giản rằng: nhà nước chắc chắn không để tình trạng nông nghiệp sa sút còn những ngành kinh tế khác phát triển- quyết định như thế liều lĩnh và đầy nguy cơ. Nhà nước đã nắm ngoại thương, còn trong nước không có nhu cầu, tiểu thủ công nghiệp tuy đã nhích lên trong giai đoạn nào đó hẳn tiếp tục yếu kém lập tức sau đó: sự tồn tại đảm bảo tính lâu bền khi và chỉ khi cơ sở của nó vững chắc- cơ sở thị trường không yêu cầu chắc chắn không có lí do thúc đây tiểu thủ công nghiệp. Ngành khai thác mỏ độc quyền bởi nhà nước để đảm bảo sự quản lí chặt chẽ của triều đình đối với những ngành chiến lược càng không thể được tự do phát triển. Bởi vậy, dẫu không thể phủ nhận qua những tài liệu lịch sử rằng ngành khai mỏ đã phát triển ở Đại Nam dưới thời Nguyễn, các nhà nghiên cứu lịch sử bắt buộc phải thừa nhận rằng nó chẳng giúp gì thêm cho nền kinh tế nhiều- nó hoàn toàn không có khả năng khắc phục những khó khăn mà nông nghiệp lưu lại. Tóm lại với cơ sở hàng hóa nghèo nàn, không thể trông chờ ở thương nghiệp bất kì một lối thoát nào cho nền kinh tế. Bằng một nỗ lực gượng gạo, nhà Nguyễn tìm cách kiểm soát phần nào thương nghiệp, nhưng chỉ còn có thể làm chủ sự buôn bán riêng những ngành sản xuất mà nóđộc quyền hay chủ động khống chế. Trót để người Hoa thao túng buôn bán, triều đình đành gỡ gạc bằng cách đóng cửa không cho thương nhân ngoại quốc vào buôn bán (ngoại trừ người Hoa- triều đình nhà Nguyễn dẫu sao cũng tôn sùng nhà Thanh!). Một phần lí do chính vì muốn làm chủ và khẳng định vị thế của mình trong kinh tế, mặt khác e ngại kịch bản tái diễn như với người Hoa (khi người ta yếu, người ta không chỉ ích kỉ mà còn hay sợ sệt). Thương nghiệp, như vậy, từ chỗ kém phát triển đến chỗ bị kiềm chế, dẫn đến ảnh hưởng không tốt lành không chỉ đối với nền kinh tế Đại Việt, mà còn cho tương lai của dân tộc. Chính sách cho thương nghiệp được triều đình Nguyễn đưa ra rõ ràng do tình hình kinh tế bắt buộc (những giải pháp khác chắc chắn phải do một Nhà nước khác đưa ra!). 2.2. Thực sự không thể trông chờ vào thương nghiệp Quan hệ thương nghiệp ở Việt Nam trong thế kỉ XIX chủ yếu là quan hệ giữa Trung Hoa và Đại Việt. Đây không đơn giản là kết quả do chính sách của nhà Nguyễn. Tình hình này thực ra bị chi phối bởi cơ sở lịch sử trước đó- người Hoa có vị trí đặc biệt đối với người Việt : họ không khác gì người Việt về bề ngoài lắm (đặc biệt người Hoa ở vùng Lưỡng Quảng hoặc đã sinh sống ở Việt Nam lâu đời), lại có kinh nghiệm buôn bán trong cộng đồng người Việt. Nhận xét cay đắng của Rheinart(khi các cửa cảng đã được mở để người Pháp vào,1881) rất đúng với tình hình lúc ấy : “Người Hoa có vị trí đặc biệt: trong nước họ được coi như người An Nam…”. Triều đình Huế cấm xuất khẩu gạo, vàng bạc, tơ lụa..., còn triều đình Mãn Thanh cấm xuất khẩu sắt, thép, chì lưu huỳnh... Nhưng Trung Quốc cần gạo còn Việt Nam cần sắt, than, chì... Từ nhu cầu đó, triều đình Huế cho phép một cách dè dặt những tàu buôn Trung Hoa mang hàng đếnvà mua hàng. Song, thực tế, sự cho phép một cách hạn hẹp như thế không đáp ứng được đòi hỏi lớn: tiền đề này mở đường cho nạn buôn lậu- gần như chính quyển thúc thủ bó tay trước việc thanh toán nạn buôn lậu. Thuyền buôn Trung Hoa cứ thế đến mua gạo, đưa gạo ra khỏi xứ sở đang sắp chết đói. Nạn buôn lậu gạo dẫn đến thiếu hụt gạo cần thiết để lưu thông trong thị trường, làm giá gạo tăng, góp phần tạo nên bất ổn xã hội.Hậu quả khác của buôn lậu cũng nguy hại không kém : nha phiến từ Hoa Kiều lan ra xã hội. Những lện cấm nha phiến suốt những năm 1817.1820,1824,1832,1840,1852, 1853,1856 cho thấy sự bất lực của chính quyền, đồng thời là minh hoạ rõ nét cho hiện trạng xã hội-tệ nạn nha phiến không ngừng lan tràn. Thương nghiệp tự nó đã kém phát triển, sau khi bị kiềm chế, lại càng hợp sức với nông nghiệp kéo lùi xã hội Việt Nam. Các nhà sử học và giới nghiên cứu cho rằng nếu nhà Nguyễn chịu mở cửa cho phương Tây vào buôn bán, thì những mầm mống tư bản đã nảy sinh, tạo tiền đề cho cải cách về sau. Luận điểm này dĩ nhiên có lí ở chừng mực sự thông thương ấy dựa trên cơ sở một nền thương nghiệp tương đối phát triển với nền sản xuất đảm bảo. Nếu không, sự mở cửa thông thương sẽ hóa thành mở cửa cho ngoại quốc thao túng thị trường, nguy cơ đất nước mất chủ quyền càng tăng hơn lên. Sự yếu kém của nền thương nghiệp Việt Nam được thể hiện rõ ràng sau khi Pháp buộc Việt Nam phải mở các cảng và cửa khẩu (Hải Phòng, Quy Nhơn…). Thương nghiệp không tiến triển nhiều, trao đổi buôn bán không được đẩy mạnh. Tình trạng này xuất phát từ nguyên nhân cơ bản : người Hoa làm chủ thương nghiệp, mọi sự cạnh tranh về thương nghiệp của thương nhân các nước khác đều không hiệu quả. Hơn nữa, mặt hàng mà Pháp cần là hồ tiêu và đường thì lục địa châu Mỹ đã đáp ứng đủ nhu cầu rồi. Riêng về gạo, người Hoa biết cách liên hệ trực tiếp với người sản xuất để mua gạo, đem bán ở Hương Cảng-không còn cơ hội cho người Âu Tây chen vào đó. Vậy là, sau khi mở cửa thông thương, thương nghiệp vẫn ì ạch tại chỗ, giai tầng mới không có điều kiện nảy sinh : cơ sở xã hội không bị tổn thương và biến đổi, quan hệ sản xuất mới không xuất hiện, đồng nghĩa rằng nếu cải cách cũng không thể dựa vào thương nghiệp. Nhìn một cách tổng thể, thương nghiệp, bởi sự yếu kém của nó, cùng với sự trì trệ của nông nghiệp, nằm trọn trong tay người Hoa, buộc chính quyền lựa chọn giải pháp đóng cửa, ngày càng yếu kém và không còn sinh khí để đứng lên khi có điều kiện thông thương. Thương nghiệp,với tình trạng như thế, rốt cuộc trở thành nhân tố ngăn cản khả năng cải cách, nó chẳng giúp gì cho duy tân về mặt cơ sở. 3. Không thể cải cách 3.1. Vướng mắc của chính trị Thấm nhuần nền giáo dục Khổng học, vua Nguyễn thừa hiểu rằng những bất ổn, rối loạn xã hội đương thời là do sự cai trị của mình chưa đúng. Nhưng bởi tôn sùng Khổng giáo, triều đình không chút nghi ngờ những nguyên tắc Nho học, vì thế họ không đặt vấn đề tìm giải pháp nằm ngoài Nho học truyền thống: nó ngăn cản thượng tầng xã hội phát huy lối suy nghĩ khác. Tuy vậy, triều đình không có nhiều hơn sự lựa chọn đó: chỉ có Khổng giáo mới giúp nó củng cố sự thống trị, thống nhất và tập trung quyền lực, vả lại Nho học đã có truyền thống lâu đời ở Đại Việt. Trong khi đó, con người xuất thân từ một nền văn hóa nông nghiệp không ưa thích những cái thay đổi , nặng tính ổn định và hoài cổ. Gộp lại tất cả những yếu tố này, có thể nhận định chắc chắn không thể trông chờ ở triều đình một tư diuy cải cách của đa số,càng khó trông chờ điều đó ở một ông vua Nho giáo. Cũng cần nhìn nhận khách quan rằng các vua Nguyễn không hẳn mù tịt về tình hình bên ngoài. Gia Long và Minh Mệnh đều có mong muốn phát triển khoa học kĩ thuật như Phương Tây, Tự Đức rất ham đọc những báo viết bằng tiếng Hán của nước ngoài. Quyết định của họ cuối cùng đều bij quyết định bởi nhu cầu thống nhất quyền lực và bảo vệ dòng tộc. 3.2. Con người Việt Nam và thái độ với người ÂuTây Người Việt Nam là con người của nền văn hóa lúa nước, không có thói quen cũng như truyền thống công nghiệp, họ càng không có thiên chất công nghiệp. Gs Đào Duy Anh đã nhận xét rất đúng: người Việt chịu khổ chịu nhục giỏi, nhưng không cần cù làm ăn được. Rất dễ hiểu thôi : họ đã quen với sản xuất nông nghiệp với những kì nghỉ hội hè giữa các giai đoạn sản xuất. Tính ổn định của sản xuất nông nghiệp quy định tính cách của con người nông nghiệp : không ưa thay đổi và hay kì thị với cái mới, cái bên ngoài. Tính cách và tư chất như thế thực ra không hợp với những cải cách đột ngột, dễ thích nghi với Nho giáo hơn những tư tưởng ngoài luồng. Người Âu Tây vốn khác xa người Việt về bề ngoài. Sự can thiệp của họ vào xã hội Vệt Nam làm nảy sinh ác cảm ở các văn thân sĩ phu, vốn là những người trung thành với hệ tư tưởng Nho giáo, đồng thời tạo nên nghi kị của đông đảo quần chúng nhân dân. Tóm lại, người Việt không phù hợp với sản xuất công nghiệp- muốn tạo nên thói quen công nghiệp phải mất nhiều hơn một thế kỉ(tiền đề con người như thế nhanh chóng làm giảm khả năng thành công nếu các cải cách được tiến hành), đồng thời sự phản cảm của nhân dân ngăn cản người Âu Tây thâm nhập, tiếp cận với người sản xuất cũng như ngành thương nghiệp. 3.3. Vốn cho cải cách- không tìm được Muốn cải cách, chắc chắn các đại thần phải nghĩ đến vốn: không có vốn đồng nghĩa với không có cải cách! Triều đình mỏi mệt với đàn áp, thuỷ lợi, phát triển nông nghiệp, tài chính quốc gia không đủ sức gánh vác những dự án cải cách dường như quá to lớn như vậy. Địa chủ phụ thuộc vào nền nông nghiệp không đủ tự tin để cho vay và cũng không thể có đủ tiền cho nhà nước vay. Vốn vay trong nước(hoặc vốn tự lo) chỉ là một món tiền nhỏ, đành xếp xó khi mua một món đồ lớn. Nguyễn Trường Tộ đề nghị vay tiền của Hoa thương(lại Hoa thương!). Ông cũng như các nhà cải cách khác chẳng thể nào tìm ra nguồn vốn thực sự cho những kế hoạch của mình. Chúng ta chia sẻ nhận định của GS Tsuboi trong cuốn “Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa": “Sự thể ấy còn có nghĩa là các nhà cải cách không hề thảo luận những vấn đề đặt ra cho đất nước, do sự thống trị về kinh tế của người Hoa:bởi vì không thể làm bất cứ gì nếu không đặt vấn đề tiên quyết là sự thống trị ấy”. Như thế, sự bế tắc về vốn thực ra là kết quả có khởi nguyên từ mầm mống thống trị thương nghiệp của Hoa Kiều: ngay từ đầu, những dự án canh tân đất nước đã chết yểu vì thiếu tiền-một cách đáng tiếc, những cải cách ấy được đưa ra có tác dụng còn thua những cải cách cải lương. Vấn đề nền tảng kinh tế rõ ràng vẫn tiếp tục đè nặng đất nước, và, dường như đã chỉ sẵn con đường lịch sử của Đại Việt. 3.4. Vấn đề từ bản thân các cải cách Thời gian đưa ra những cải cách chính vào lúc đất nước bộn bề với việc chống giặc ngoại xâm- khi những dự án cải cách không lưu í tới những biến cố của đất nước, tự cô lập mình với thời đại, nó đi vào ngõ cụt không có đường ra. Các nhà cải cách cũng không lường được những biến cố xã hội tiềm ẩn trong cải cách mà họ đưa ra: làm biến đổi kết cấu xã hội, gây hoang mang trong một bộ phận nhân dân, đụng chạm tới lợi ích một bộ phận xã hội… Canh tân đất nước song không lường trước những hậu quả đàng sau đó, thì dẫu có canh tân cũng bị động trước tình thế,thậm chí kéo theo nguy cơ khủng hoảng niềm tin, mất đoàn kết dân tộc còn cao hơn trước. Sau nữa,họ sẽ dựa vào thế lực nào, vào giai tầng nào để tiến hành cải cách? Thứ nhất, đó phải là một lực lượng tiến bộ, có í thức dân tộc và cải cách, nhận thấy sức mạnh của duy tân (thông thường họ là bộ phận trí thức tiếp xúc với Tây Học). Thứ hai,lực lượng hậu thuẫn này phải có quyền lực thực tế đủ tác động, đủ trở thành một thế lực đối trọng trong triều đình cũng như ngoài xã hội. Tiếc rằng, có lẽ do không có đủ kinh nghiệm, hoặc do thực tế không thể tìm ra một giai tầng nào như thế để dựa vào, những nhà cải cách đành cay đắng thở dài nhìn dự án của mình được ghi chép cẩn thận và cất vào kho sách. Điểm cuối cùng tạo nên tính bất khả thi của những cải cách ở chỗ: nó không đặt vấn đề sẽ thay thế tầng lớp văn thân(chúng ta biết rằng điều này giúp cho sự canh tân có khả năng được chấp nhận, và cho triều đình hiểu răng tất cả những cải cách đề ra không đi ngược lại quyền lợi Nhà nước). Văn thân sĩ phu là bộ phận trí thức chốt yếu của triều đình phong kiến( triều đình sẽ cai quản đất nước bởi những quan chức lấy ra từ bộ phận này.). Nhân dân vốn không có hệ tư tưởng riêng, mà, phải dựa vào trí thức: dân tộc tìm thấy hệ tư tưởng của mình ở những người trí thức- sự ươn hèn hay yếu kém của người trí thức sẽ dẫn đến sự ươn hèn, yếu kém của dân tộc trên bình diện tư tưởng. Nhà nước phong kiến Nho giáo muốn tồn tại phải phụ thuộc vào tầng lớp văn thân sĩ phu để vừa tác động về mặt tư tưởng , vừa thực hiện quản lí.Nguyễn Trường Tộ đặt vấn đề cho người đi học ở nước ngoài rồi về làm, nhưng ông không nhìn thấy sự cần thiết phải thay đổi đầu tiên là tư tưởng của nhưng người “lưu giữ hệ tư tưởng cũ và bảo vệ nó”. Khi hệ thống trí thức Nho giáo còn là bộ phận trung gian cốt yếu nhất giữa triều đình với nhân dân, đồng thời đóng vai trò gìn giữ giá trị cũ, khả năng cải cách bị đẩy lùi. 4. Tấm gương ngoại quốc- không soi được Nhật Bản và Thái Lan được coi như tấm gương cải cách, từ đó kịp thời thoát ra khỏi số phận nô lệ. Một số học giả cho rằng Đại Nam cũng có cơ hội như vậy, nhưng do sự bảo thủ của giai cấp phong kiến, cơ hội bị bỏ qua, khiến Đại Nam từ chỗ không tất yếu mất nước đén chỗ tất yếu mất nước. Khi đi sâu vào xem xét và tìm hiểu hai trường hợp này,khái quát những tiền đề và đặc điểm cải cách, chúng tôi không đồng tình với nhận định đó. Nhật Bản là đất nước nghèo tài nguyên, địa hình bị cắt xén nông nghịêp gặp khó khăn, nằm trong tầm ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa nhưng bởi cách xa nên không quá bị trì trệ tư tưởng bởi tư tưởng Nho giáo, đồng thời có cơ hội tiếp xúc rộng rãi hơn với văn minh Âu Tây. Khi các nước tư bản đi tìm thị trường, họ cũng đến Nhật Bản, cũng bắt kí hoà ước và mở cửa. Nhưng Nhật Bản không phải là một thị trường hấp dẫn, tài nguyên nghèo nàn không lí tưởng để đầu tư khai thác. Nằm chơi vơi ngoài biển, những cơn bão đe doạ nghiêm trọng sự thông thương. Như vậy, Nhật Bản không thu hút sự chú í của các nước tư bản, nhờ thế, khi cải cách, Nhật Bản không gặp phải sự can thiệp mạnh từ bên ngoài. Hơn nữa, bộ phận trí thức Samurai do không còn phải cống hiến cho chiến tranh đã nhanh chóng tìm đến những tri thức bên ngoài, tiếp thu văn hóa Tây học, nhanh chóng đổi mới đầu óc- lực lượng này rất quan trọng cho cải cách bởi vị thế của Samurai trong xã hội là rất cao. Con người Nhật Bản vốn có truyền thống cần cù chịu khó, tính kỉ luật cao, dễ dàng đi vào thời đại công nghiệp. Nửa sau thế kỉ XIX, chế độ Sho-gun ở Nhật Bản với những chính sách gây bất bình vấp phải làn sóng phản đối dâng cao trên toàn bộ bình diện dân tộc. Minh Trị đại biểu cho lực lượng tiến bộ và nguyện vọng nhân dân đã lên nắm quyền và thi hành cải cách. Những chính sách của ông được nhìn nhận là “tự chặt chân chặt tay mình cho cải cách”. Tất cả những tiền đề như trên cho phép Nhật Bản có cơ hội cải cách và cải cách thành công. Việt Nam, trái lại, đã không có những tiền đề bào đảm cho cải cách. Trường hợp của Thái Lan, với tiềm năng sản xuất gạo và gỗ, lại có sự tranh giành ảnh hưởng của cả Anh và Pháp, họ có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa hai cường quốc này, đồng thời thúc đẩy sản xuất để xuất khẩu, tạo nên tăng trưởng kinh tế. Hai vùng thuộc địa của Thái Lan lần lượt được nhường cho Anh và Pháp nhằm đổi lấy sự tự trị tương đối. Hệ tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa không kiềm chế hệ tư tưởng của triều đình phong kiến một cách quá mức. Tuy nhiên, vì là một thuộc địa béo bở, lại không có ngay một hệ thống trí thức chịu ảnh hưởng của Tây học, Thái Lan thực tế là một nước nửa thuộc địa. Việt Nam hoàn toàn không có những điều kiện như vậy. Nếu phải cải cách, Việt Nam sẽ cải cách thế nào? Dựa vào giai tầng nào? Dựa vào cơ sở kinh tế nào? Hơn nữa, khi tạo nên quan hệ sản xuất mới, triều đình phong kiến Nhật Bản và Thái Lan đều tự phân xẻ quyền lực của mình- liệu có thể trông chờ hành động tương tự của một triều đại nặng tư tưởng Nho giáo, tìm mọi cách khẳng định quyền lực? Nhìn nhận một cách chung nhất, Việt Nam hoàn toàn không có điều kiện để cải cách thành công. Tấm gương Nhật Bản và Thái Lan như vậy không soi được. D. Sự tìm đến Đông Dương của người Pháp 1. Cơ hội từ ông hoàng mất nước Nguyễn Ánh với quyết tâm phục quốc vốn không từ bất cứ thủ đoạn nào nhằm đạt tới cái đích cuối cùng của mình. Ngài, sau khi cầu viện quân Xiêm sẵn lòng hứa hẹn với người Pháp. Các giáo sĩ mong muốn truyền bá ánh sáng của Chúa nhìn thấy ở đó cơ hội cho cả tôn giáo và nước Pháp thân yêu, họ tìm cách xúc tiến với Nguyễn một hiệp ước: hiệp ước Vec-xai. Song dẫu chính biến ở Pháp khiến hiệp ước không được tiến hành, Bá Đa Lộc vẫn tìm cách vận động một đội quân tình nguyện giúp Nguyễn (còn bản hiệp ước chết non kia vẫn có tác dụng khiến người Pháp không quên Đại Nam xa xôi). Dù đội quân này không đông đảo nhưng sự giúp đỡ về vũ khí và tổ chức quân sự đã hỗ trợ Nguyễn không ít. Bởi vậy, sau khi lập quốc, Gia Long cho phép các giáo sĩ người Pháp truyền giáo, thậm chí cho họ làm quan trong triều đình của ông.Cơ sở đầu tiên cho quá trình chinh phục xứ An Nam tội nghiệp bắt đầu từ đây. Giáo sĩ thừa sai người Pháp một mặt truyền bá Thiên Chúa Giáo(sự truyền bá này sẽ còn đẩy dân tộc Việt Nam đến chỗ chia rẽ và gây bối rối trong chính sách của triều đình); mặt khác, họ tìm cách vận động chính phủ Pháp với kì vọng những nhà lãnh đạo sẽ đưa quân đến đây “khai sáng” dân tộc An Nam. Như vậy, các giáo sĩ chính là những người đầu tiên vận động cho con đường tìm đến Đông Dương của người Pháp. Đây là bước đệm không thể thiếu: người Pháp đã có vai trò nhất định ở Việt Nam từ thế kỉ XIX, tìm hiểu văn hóa và quan hệ, những mâu thuẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam, tạo tiền đề cho xâm lược. 2. Mục đích chính trị và kinh tế Thất thế ở châu Mĩ, thua Anh ở Ấn Độ và châu Phi, người Pháp rơi vào nguy cơ đánh mất vị thế của mình trên quốc tế, trong khi chủ nghĩa tư bản phát triển lên chủ nghiax đế quốc đang cạnh trang ảnh hưởng và gấp rút tìm kiếm thị trường. Nửa đầu thế kỉ XIX, Pháp thực ra không có nhu cầu kinh tế ở Viễn Đông, động lực thôi thúc không mạnh mẽ : thực dân Pháp đang tìm thị trường ở những vùng béo bở hơn (Trung Quốc chẳng hạn!). Nhưng, với tình hình bị đánh mất ảnh hưởng ở từng mảng trên bản đồ giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, chúng không thể lần lữa kén chọn nữa. Họ có thể tranh thủ vùng Viễn Đông chưa thực sự “có chủ”. Tiền đề thấu hiểu văn hóa đã được các giáo sĩ thừa sai làm tốt(và sẽ phát huy tác dụng!) Cơ hội làm sáng danh Đức Chúa Trời được hỗ trợ bởi sự thôi thúc kinh tế sau khi Pháp mất các tỉnh miền Đông Nam giàu có vào tay Đức, lại phải bồi thườn chiến phí nặng nề. Hơn nữa, Pháp muốn cạnh tranh ảnh hưởng với Anh. Mục đích chính trị rồi kinh tế dồn dập đưa đường Pháp tới Đông Dương. Vậy là, tình thế của kẻ đói thức ăn không cho phép sự chậm trễ. Đông Dương được nhắc đến nhiều hơn và An Nam lấp lánh như viên ngọc qua những bản báo cáo của các giáo sĩ đang có mặt ở An Nam. Thực tế, cuối thế kỉ XIX, Pháp chắc chắn sẽ đẩy mạng xâm chiếm thuộc địa. Không phải người Anh, Bồ Đào Nha hay Hà Lan đến, mà chính là người Pháp bởi họ đã “có chân” ở đây ngay từ đầu thế kỉ XIX. Nhưng nếu không phải là Pháp, thì cũng sẽ là một nước tư bản khác tìm đến Đông Dương với quân đội và bạo lực khi mà nước bọt không làm xứ sở lạc hậu và lạ lẫm trước ánh sáng văn minh này lùi bước. 3. Thiên chúa giáo 3.1. Biểu minh cho sự chia rẽ hệ tư tưởng và dân tộc Thiên chúa giáo len lỏi vào Đại Nam và rõ ràng đã tạo nên những ảnh hưởng đáng kể. Trước hết, quan điểm của Thiên Chúa Giáo về Chúa như một đấng tuyệt đối và khuyên con người ta nghe theo sự dìu dắt của những mục sư đại diện cho Người gây ra sự lo ngại đối với chính quyền Đại Nam. Về hệ tư tưởng, nó mâu thuẫn với hệ tư tưởng Nho giáo: vậy thì, khi nhân dân, một bộ phận theo Thiên Chúa Giáo, triều đình lập tức có phản ứng. Nhưng phản ứng của triều đình trước “tà giáo”, còn là phản ứng của tầng lớp văn thân sĩ phu đối với những kẻ “lầm lỡ” , lại gây ra hậu quả nằm trong tính toán của người Pháp : họ lấy đó làm cớ để cầu viện chính phủ Pháp bảo vệ cho đức tin, mặt khác sự cấm đạo này lập tức gây ra mất niềm tin của nhân dân đã theo Đạo đối với chính quyền. Nhân dân theo Thiên Chúa Giáo cho phép ta có hai nhận định: thứ nhất, một bộ phận nhân dân không còn tin tưởng vào hệ giá trị truyền thống; thứ hai, đây rất có thể là mầm mống tạo nên sự chia rẽ của người Việt. Chúng ta thừa hiểu rằng Thiên Chúa Giáo dạy người ta biết ngoan ngoãn nghe theo ýí Chúa với sự dẫn dắt bởi các mục sư là người thể hiện tinh thần của người. Càng không thể tưởng tượng rằng các giáo sĩ người Pháp sẽ ngoảnh mặt với những người anh em của họ đến để “yêu cầu” chính quyền Đại Nam cho phép Thiên Chúa Giáo được truyền bá rộng rãi. Triều đình Huế bởi e sợ trước những nguy cơ tiềm ẩn đó, đã tìm cách cấm đạo. Nhưng có vẻ như bài toán lịch sử đã gài sẵn cái bẫy đối với nhà Nguyễn. Chúng ta chỉ có thể đồng tình rằng việc những tà đạo xuất hiện, lôi kéo nhân dân và bị nhà nước cấm là hiện tượng không hiếm tròn lịch sử. 3.2. Nhân tố gây mất đoàn kết dân tộc Khởi nghĩa Lê Văn Khôi (1833) tại Gia Định, lôi kéo nhân dân vào khởi nghĩa, có bàn tay Thiên Chúa Giáo can thiệp vào: Lê Văn Khôi cũng là một người Công giáo. Chắc chắn không một triều đình nào bình tâm trước việc một giáo dân đứng lên khởi nghĩa, vận động được nhân dân ở một vùng cơ sở của mình chiến đấu chống lại nhà nước một cách quyết liệt. Sau khởi nghĩa Lê Văn Khôi, triều đình thật sự nghi kị Thiên Chúa Giáo , tìm cách hạn chế ảnh hưởng của nó, nghiêm cấm nhân dân theo đạo thêm. Phản ứng tất yếu này của triều đình lại gây ra làn sóng phản đối ngấm ngầm trong giáo dân cũng như những tính toán khác của các giáo sĩ thừa sai người Pháp. Điều cần bàn chính ở chỗ: những động thái đó của nhà nước không gây ra sự bất đồng đối với bộ phận nhân dân không theo đạo cùng tầng lớp văn thân sĩ phu. Sau những chia rẽ hệ tư tưởng, chia rẽ cộng đồng như vậy không có gì là khó hiểu, chỉ là hậu quả của nó thật không thể nhìn ngay ra được. Khi Gacniê cùng Dupy chiếm Hà Nội, Dupy đã vận động được 14000 giáo dân giúp hắn thành lập một đội quân và một bộ máy hành chính tạm thời. Bất chấp sự cảnh báo của các thừa sai, sau khi Gacniê tử trận và quân Pháp thua trận, lực lượng quân đội của chúng rút khỏi Hà Nội, nhanh chóng lãng quên các giáo dân. Hậu quả ghê ghớm xảy ra một cách tất yếu: bất chấp sự can ngăn của triều đình, văn thân và nông dân nổi lên sát đạo, hành động này nổ ra và không thể kiềm chế được- không thể ngăn người Việt thể hiện lòng căm giận của họ với những kẻ phục vụ cho bọn cướp nước. Kịch bản tương tự xảy ra khi Rivie chiếm Hà Nội. Hai cuộc sát đạo ngoài í muốn của triều đình một mặt gây nên sự bất bình của người Pháp, tạo thành cái cớ để họ ra tăng sức ép, mặt khác các giáo dân càng cảm thấy cần dựa vào Pháp, sau nữa là nảy sinh bất đồng giữa đại đa số quần chúng nhân dân với triều đình Huế do không nhất quyết trong việc sát đạo. Bức tranh thê thảm của dân tộc ngày càng sẫm màu như vậy đó. Nhà Nguyễn bối rối trong chính sách, mất lòng dân trầm trọng. Nếu chúng ta nhắc đến việc sát đạo, cấm đạo như một lỗi sai nghiêm trọng của nhà Nguyễn, thì hãy thấy rằng vai trò của quần chúng nhân dân trong đó là không nhỏ-nếu chúng ta trách triều đình Huế, chúng ta hãy đay nghiến luôn những người nông dân và văn thân sĩ phu yêu nước, hoặc quay sang thở than cho nét văn hóa yêu nước của dân tộc này. 3.3. Đằng sau giáo hội là người Pháp Những phân tích bên trên đủ để ta thấy đằng sau hoạt động của giáo hội còn có sự hiện diện của người Pháp . Xét cho đến cùng, hoạt động của giáo sĩ người Pháp không thể chống lại lợi ích của Tổ quốc họ. Vụ Tạ Văn Phụng(1862) được giáo hội dàn dựng nhằm khoét sâu vào điểm yếu của triều đình Huế, giúp Pháp nhanh chóng có được hiệp ước Nhâm Tuất chứng tỏ chúng ta không thể trông chờ ở các vị thừa sai phẩm chất của những vị thánh sống. Nhìn lại tất cả, nỗi đau dân tộc được tạo nên bằng cả sự khôn ngoan của ngoại tộc và cả sự cả tin chân thành của con dân. Không thể ngoảnh đầu trách quá khứ được nữa, càng bất lực khi chúng ta cố tìm ra một lí do biện minh cho tất cả bằng cách trút tất cả sai lầm lên triều đình Huế. Lịch sử là thế đấy, việc của người đi sau là tìm ra những bài học của nó, chứ không phải là mải mê nuối tiếc, đặt ra những gì lịch sử không có, không thể. E. Hàm Nghi- sự trớ trêu của lịch sử Cùng với cải cách, giải pháp mà nhiều người nghĩ đến cho Đại Nam là sự vận động tinh thần dân tộc: chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng nếu nhà Nguyễn dương ngọn cờ yêu nước, vận động tinh thần dân tộc, nhân dân sẽ không nổi lên để tiêu diệt triều đình,trái lại, ngoan ngoãn hưởng ứng những chính sách của triều Nguyễn, chống giặc ngoại xâm. Truyền thống đánh thắng những kẻ thù hung hãn của người Việt cho phép ta hi vọng một chiến thắng trước người Pháp. Tấm gương Hồ Quí Ly là một minh chứng lịch sử mách bảo chúng ta rằng sức mạnh thật sự của dân tộc Việt Nam chính nằm ở tinh thần yêu nước và đoàn kết- không khơi dậy được sức mạnh này, sẽ không có thành công to lớn nào của dân tộc được mở ra cả.Nhưng nếu chúng ta nhắc đến nhà Hồ như là bài học đầy chua xót thì nhà Nguyễn lại xuất hiện như những kẻ “không thể dạy bảo được”- một triều đại đối xử hỗn xược với lòng yêu nước của nhân dân. Điểm lại những vị vua đầu triều Nguyễn cho đến Tự Đức-ông vua này trực tiếp chịu trách nhiệm để đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, không khó gì để nhận ra một nguyên lí bất biến trong hành động của họ: sự an nguy của dòng tộc và triều đại được đặt lên trên hết. Dường như có một nỗi ám ảnh truyền đời trong triều đại này: bất kì ông vua nào cũng e sợ nguy cơ đến từ nhân dân(chẳng bao giờ người ta lại không ám ảnh khi làm điều có lỗi, dù ít hay nhiều). Tóm lại, khi nhà vua đã đặt quyền lợi của dòng tộc cao hơn hết, đồng thời lại mang trong mình nỗi ám ảnh vì tội lỗi trước đất nước của dòng họ, rồi chứng kiến sự thù ghét của nhân dân, ông ta không bao giờ có can đảm vận động sức mạnh của nhân dân-cũng giống như giai cấp tư sản luôn e sợ phong trào của quần chúng vậy. Những trang sử cuối cùng của thế kỉ XIX lại cho ta thấy một bi kịch trớ trêu của triều Nguyễn và của cả dân tộc. Vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết trốn khỏi kinh thành Huế khói lửa cùng những dự định bất thành. Trong lúc hoàng tộc theo lệnh Pháp cử ra một ông vua nhu nhược khác, thì Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, vận động sức mạnh của toàn dân tộc, kêu gọi tinh thần đoàn kết cùng lòng yêu nước. Cả nước đã đứng lên hưởng ứng chiếu Cần Vương trong một thời gian dài. Chỉ tiếc rằng Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đã xuất hiện muộn mằn trong lịch sử, khi đã vận động được sức mạnh dân tộc thì thực dân Pháp đã làm chủ tình thế, những phong trào lẻ tẻ theo đường lối cũ không thể địch lại sức mạnh của văn minh phương Tây. Trớ trêu làm sao cho dân tộc Việt Nam, chỉ có ông vua không chính thống đã chối từ quyền lợi dòng tộc mới dám đứng thẳng người đánh Pháp. Đến lúc này, người ta mới hiểu rằng bản chất của nhà Nguyễn đã trói buộc số phận lịch sử như vậy đó, và đất nước phong kiến lạc hậu này không thể làm cải cách thì thực tế cũng không thể có sức mạnh kháng chiến chống ngoại bang/. F. Lời kết Lịch sử bao giờ cũng liên tục và logic! Khi chúng ta mong muốn rằng nó lẽ ra đã khác, chúng ta vẫn thường đặt ra giả thuyết cho nó, thay đổi một mắt xích nào đó. Nhưng công việc ấy chỉ đúng trong chừng mực người ta dùng nó để hiểu lịch sử, rút ra những bài học. Đừng gán cho lịch sử những gì lịch sử không có, không thể. Lịch sử diễn ra bởi nó đã thế đấy! Nhà Nguyễn với bản chất của nó cùng sự bó buộc của lịch sử, cuối cùng đã để mất nước vào tay thực dân Pháp. Sau khi xem xét toàn bộ những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, chúng tôi đi đến một nhận định rằng: kết quả mất nước của nhà Nguyễn cuối thế kỉ XIX là tất yếu. Những kết luận khác đều được đưa ra dựa trên giả thuyết lịch sử, bài tiểu luận này cũng đã trình bày những giả thuyết như thế, nhưng xin nhắc lại rằng nếu đưa ra những giả thuyết đó, lần theo dòng tuyến tính lịch sử, chắc chắn chúng ta sẽ phải thay đổi lịch sử rất nhiều để có một sự kiện như thế. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLSU22-.doc