Thành tựu phát triển Lâm nghiệp trong thời gian qua có ý nghĩa rất quan trọng tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Trong thời gian tới phương hướng phát triển ngành đã được Đảng và Nhà nước nêu ra là:
- Xây dụng một nền lâm nghiệp phát triển bền vững, áp dụng những thành tựu khoa học mới, công nghệ mới, công nghệ cao và công nghệ sạch của thế giới vào trồng rừng, chế biến gỗ, chọn giống, bảo tồn nguồn gen rừng để tạo ra khả năng cạnh tranh của Lâm sản Việt Nam trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
- Phát triển lâm nghiệp một cách toàn diện gắn với công nghiệp chế biến nông lâm sản kết hợp, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. phát triển đồng đều các vùng kinh tế, giảm sự chênh lệch giữa các vùng, phát huy thế mạnh, tiềm năng của mỗi vùng sinh thái và liên kết chặt trẽ giữa các vùng.
- Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu, cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong Lâm nghiệp nhất là công nghệ sinh học lai tạo, sản xuất giống cây rừng, cơ giới hoá trồng rừng, quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên đất Lâm nghiệp đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất.
110 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư nước ngoài vào lâm nghiệp Việt Nam thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệm hàng ngàn năm để lại, không quen áp dụng khoa học kỹ thuật, ở nhiều nhà máy sản xuất, chế biến gỗ, lâm sản… doanh nghiệp giao và chỉ dẫn họ làm theo kỹ thuật nhưng họ không làm theo dẫn đến thiếu nguyên liệu sản xuất. Nông dân là nguyên nhân chính dẫn đến chậm giải toả mặt bằng vì họ chưa nhìn thấy cái lợi về lâu dài. Trường hợp của hai công ty Trồng rừng Belatex và công ty công tác quốc tế Kiến Tài liên tục bị dân đến chặt phá lấn chiếm gây cháy rừng làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài .
Các dự án liên doanh trong Lâm nghiệp hoạt động hiệu quả thấp hoặc nhiều năm thua lỗ chiếm tỷ lệ gần 20% trên tổng số các dự án đã thực sự đi vào hoạt động.
3. Nguyên nhân của những tồn tại nói trên.
3.1. Nguyên nhân chủ quan.
Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài đang trong quá trình hoàn thiện nên không tránh khỏi hạn chế chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài, nhất là một số chính sách khuyến khích, chế độ ưu đãi sản phẩm hàng dùng cho các đại bàn kinh tế xã hội có nhiều khó khăn vùng sâu, vùng xa.
Một số chính sách hay thay đổi như chính sách về đất đai, chế độ ưu đãi trong đầu tư hay những mặt hàng được phép và không được phép kinh doanh.
Trên phạm vi toàn ngành cũng như từng địa phương đơn vị đều chưa xây dựng được chiến lược và quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư với nước ngoài phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới, gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ cũng như dài hạn. Vì vậy, công tác quy hoạch xúc tiến đầu tư chưa được chuẩn bị tốt.
Các thủ tục triển khai dự án vẫn còn nhiều phức tạp, nhiêu khê, nhất là trong việc cấp đất giải phóng mặt bằng, duyệt thiết kế xây dựng. Việc xử lý các phát sinh nhằm tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư còn chậm chạp, tiêu tốn thời gian, tiền vốn của các nhà đầu tư và các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cân đối ngoại tệ, xuất nhập khẩu còn nhiều vướng mắc.
Môi trường đầu tư tuy đã có nhiều cố gắng thay đổi, chuyển biến theo hướng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn nhưng vẫn chưa đạt mức độ có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Công tác thẩm định dự án cũng có nhiều thiếu sót, chủ quan, khuynh hướng chạy theo số lượng mà chưa chú ý đến chất lượng của dự án đầu tư nước ngoài.
Trong khi các nhà đầu tư nước ngoài có thể chấp nhận trong một số năm và hướng tới triển vọng dài hạn, các đối tác Việt Nam do không có khả năng lớn về tài chính nên thường phát sinh tâm lý nôn nóng lo ngại về trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn góp phần vào liên doanh.
Hệ thống cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn nhiều yếu kém và sự chênh lệch giàu nghèo của khu vực này cũng là những rào cản cho đầu tư nước ngoài (hiện nay còn 4 tỉnh miền núi phía Bắc chưa có dự án đầu tư nước ngoài).
Một điểm không thể phủ nhận là trình độ dân trí của nông dân còn quá thấp nên chưa thấy được lợi ích lâu dài của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó mối qua hệ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với các bộ quản lý chuyên ngành và địa phương có dự án đầu tư nước ngoài còn chưa rõ ràng và chồng chéo.
3.2.Nguyên nhân khách quan.
Việc đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp và phát triển nông thôn thường nhiều rủi ro, chi phí cao, chậm thu hồi vốn và đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn còn rất yếu kém… đây là những trở ngại lớn nhất ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp Việt Nam thời gian qua.
Các nước trong khu vực ASEAN (những nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư vào ngành lâm nghiệp nước ta) chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1998 dẫn đến đầu tư nước ngoài đã giảm sút nghiêm trọng.
Gần đây trong khu vực xuất hiện thêm nhiều thị trường đầu tư hấp dẫn như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia… và các nước này không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, nguồn vốn FDI gần đây có xu hướng tập trung vào các nước phát triển, có cơ sở hạ tầng hiện đại như: Mỹ, Nhật, EU…vì đầu tư vào những nước này rất thuận lợi cho việc phát huy vốn ĐTNN, kinh doanh nhanh chóng đem lại lợi nhuận.
Thường xuyên quan tâm đến việc phát triển, mở rộng thị trường. Công tác nghiên cứu, tiếp thị, tìm kiếm thị trường nước ngoài phải do đại diện của cả hai bên đối tác cùng tham gia thực hiện. Tránh phó mặc cho đối tác nước ngoài đảm nhiệm như đã xảy ra phổ biến trong những năm qua.
Một số nhà đầu tư nước ngoài chưa nghiên cứu kỹ tình hình cơ bản của địa bàn đầu tư Việt Nam nên đưa ra các phương án chưa có tính khả thi cao và đầu tư không thu lai được kết quả như mong đợi.
Chương III: Một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài vào lâm nghiệp Việt Nam .
I. Mục tiêu phát triển Lâm nghiệp và định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Những thời cơ và thách thức trong việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp.
1.1. Những thời cơ.
Nhân tố bên ngoài:
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc tăng mạnh mẽ về khối lượng đầu tư ra nước ngoài đã tạo cơ hội cho các nước nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhiều quốc gia từ chỗ nhận đầu tư nước ngoài nhanh chóng trở thành những nước đầu tư nước ngoài với quy mô lớn. Mặt khác, dòng vốn đầu tư quốc tế đang có xu hướng chảy mạnh vào các nước đang phát triển.
Sự gia nhập Tổ chức Thương Mại thế giới trong tương lai gần cũng là một nhân tố tích cực thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, vì khi đó hàng hoá sản xuất tại Việt Nam không những có chi phí thấp (do lợi thế về giá nhân công) mà còn được hưởng mức thuế ưu đãi khi suất hàng sang các nước thuộc thị trường Bắc Mỹ, một thị trường lớn trên thế giới.
b. Nhân tố trong nước.
Việt Nam là một nước có chế độ chính trị khá ổn định, kinh tế những năm gần đây phát triển với tốc độ cao và ổn định. Bên cạnh đó, Việt Nam có một môi trường pháp lý khá hấp dẫn cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đó là Luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật được Nhà nước và Chính phủ ban hành cũng thực sự tạo ra sự chú ý đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, có chủng loại sản phẩm phong phú gồm các nông sản nhiệt đới và có thể phát triển các loại cây vùng ôn đới. Nông lâm sản Việt Nam có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như Cà fê, cao su… có thể tiêu thụ rộng rãi trên thị trường quốc tế. Tiềm năng phát triển Lâm nghiệp còn lớn có thể đầu tư khai thác trên lĩnh vực: Mở rộng quy mô diện tích cây trồng, đầu tư thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm.
Việt Nam có nguồn lao động lâm nghiệp khá phong phú, giá nhân công rẻ, trình độ văn hoá tương đối cao. Đây là một điều đáng chú ý đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động đầu tư vào lâm nghiệp.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận tiện cho phát triển giao thông vận tải biển, hàng không, thông tin liên lạc, là những ngành tạo tiền đề chó phát triển những ngành công nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận cao. Nhiều tiềm năng của đất chưa được khai thác.
Cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn đang từng bước được đầu tư xây dựng, tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
c. Những khó khăn.
Hiện nay trên thế giới sự cạnh tranh đang diễn ra gay gắt, quyết liệt giữa các khu vực nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài,trong đó nhiều nước có lợi thế hơn hẳn Việt Nam về mọi mặt (cả về cơ sở hạ tầng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô) trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Nền kinh tế của chúng ta đi lên từ xuất phát điểm thấp, khả năng đầu tư rất hạn hẹp lại phải đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Trình độ khoa học kỹ thuật quản lý của Việt Nam còn yếu kém.
Nước ta là nước đông dân nhưng đất canh tác không nhiều lại phân tán, manh mún, khả năng mở rộng diện tích tuy còn khá lớn đòi hỏi đầu tư rất lớn và phải có thời gian khá dài. Trong khi đó đầu tư nước ngoài cho Lâm nghiệp thường có xu hướng đi vào kinh doanh một cách nhanh chóng để thu hồi vốn.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp và kết cấu hạ tầng nông thôn còn nghèo nàn, thiếu thốn, giao lưu trao đổi hàng hoá gặp nhiều khó khăn.
Lâm nghiệp là ngành sản xuất có tính rủi ro cao, khả năng sinh lãi của vốn đầu tư thấp hơn nhiều so với đầu tư vào các lĩnh vực khác như công nghiệp, thương mại và dịch vụ… Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp các nước nói chung và ở nước ta nói riêng còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng nguồn vốn đầu tư của các đối tác nước ngoài.
Việt Nam vẫn được coi là một nước có tiềm năng to lớn về lực lượng lao động nhưng đến nay vấn đề này đang gặp trở ngại lớn vì đa số lực lượng lao động là lao động phổ thông chưa qua đào tạo (con số này chiếm tới gần 80%). Trong điều kiện hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng nên nhu cầu về lao động không còn là sức lao động phổ thông nữa mà đòi hỏi người lao động phải được đào tạo có trình độ chuyên môn nhất định.
Các chính sách kinh tế nhằm khuyến khích ĐTNN còn chưa đồng bộ lại hay có thay đổi hoặc điều chỉnh. Điều này tạo ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư.
Nhìn chung thì đầu tư nước ngoài vẫn còn là một lĩnh vực hoạt động còn khá mới mẻ trong nông lâm nghiệp nước ta nên chưa có kinh nghiệm về tổ chức thực hiện cũng như quản lý về lĩnh vực này.
Mục tiêu phát triển lâm nghiệp .
Xuất phát từ một nền nông lâm nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển thấp vì vậy nhiệm vụ phát triển ngành lâm nghiệp của Việt Nam trong những năm tới là hết sức khó khăn, phải đạt được mục tiêu tăng trưởng liên tục và hiệu quả để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Trải qua 10 năm đổi mới, lâm nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành quả to lớn, đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 10 năm đạt 4,3%/năm, là tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với các nước trong khu vực và thế giới. nhưng cho đến nay hiện trạng lâm nghiệp vẫn còn yếu kém và khó có khả năng duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục. Nền Lâm nghiệp còn nhiều mặt lạc hậu, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của đa số các loại cây trồng, lâm đặc sản… còn thấp trên thị trường cả trong và ngoài nước. Lực lượng sản xuất còn nhỏ bé, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, trình độ khoa học công nghệ còn thấp, công nghệ sau thu hoạch, bảo quản, chế biến chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển ngành Lâm nghiệp, nguồn nhân lực có kiến thức, tay nghề, năng lực kinh doanh, năng lực khoa học còn ít lai chưa được sử dụng tốt, lao động trong doanh nghiệp, nông thôn dư thừa quá lớn. Đầu tư của Nhà nước cho toàn xã hội cũng như cho riêng Lâm nghiệp tuy đã được quan tâm nhiều hơn nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của ngành trong nền kinh tế quốc dân, đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp còn gặp nhiều khó khăn
Mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 4,5%/năm trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo thực sư là khá nặng nề vì trong điều kiện nền Lâm nghiệp còn nhiều yếu kém như đã nêu ở trên. Muốn đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải tăng thêm đầu tư cho lĩnh vực Lâm nghiệp. Trên thực tế hoạt động đầu tư vào ngành này thời gian qua còn chiếm tỷ lệ hết sức hạn chế ở mức thấp, khả năng đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ bé (những năm vừa qua chỉ chiếm khoảng 17,34% trong tổng vốn đầu tư). Đầu tư nước ngoài thường không bao giờ thoả mãn các yêu cầu mục tiêu phát triển Lâm nghiệp . Vì vậy, thu hút đầu tư nước ngoài phải lựa chọn mục tiêu nào là chính nhất đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay Lâm nghiệp Việt Nam vẫn còn có những tiềm năng về lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên do đó nên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những lĩnh vực sử dụng nhiều lao động tại chỗ hoặc khai thác những tiềm năng sẵn có, đặc biệt là đầu tư vào vùng sâu vùng xa, Trung du và miền núi.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì lợi nhuận được coi là tiêu chuẩn số một để xác định hiệu quả đầu tư nước ngoài. Nhưng đối với Việt Nam khi xem xét hiệu quả đầu tư nước ngoài, phải xem xét toàn diện về kinh tế tài chính xã hội. Đầu tư nước ngoài mang lại hiệu quả trước mắt tạo chỗ làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngân sách, tận dụng cơ sở hiện có và đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, về lâu dài sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển của Lâm nghiệp đó là về chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề.
Mục tiêu cụ thể huy động vốn đầu tư nước ngoài trong 10 năm tới (2001-2010) phải được xác định trên cơ sở khả năng huy động nguồn vốn trong nước. Theo nguyên tắc tiếp nhận được nguồn vốn đầu tư nước ngoài , đòi hỏi phải có một lượng vốn đối ứng nhất đinh trong nước. Hiện nay vốn FDI của chúng ta mới đạt 33%, mà lượng cần thiết ít nhất cũng phải là 50%. Về lâu dài thì cần phải tăng dần tỷ trọng vốn đầu tư trong nước trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và tránh được nguy cơ lệ thuộc. Theo tính toán thì vốn FDI thực hiện trong thời gian qua (1998-2000) đạt khoảng gần 7000 tỷ VND.
Số vốn đầu tư nước ngoài thực hiện thời gian qua mới chỉ đạt khoảng 40% tổng số vốn ký kết và đăng ký, như vậy còn khoảng 2 tỷ USD sẽ thực hiện trong thời gian tới, số vốn cần phải huy động thêm là 3,5 tỷ USD nếu vốn thực hiện bình quân là 40% vốn đăng ký, ký kết thì trong thời gian tới cần phải cấp phép và ký kết được 8,75 tỷ USD. Khả năng khó thực hiện vì theo chúng tôi cần phải nâng cao tỷ lệ vốn thực hiện trong tổng vốn đăng ký.
Những định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lâm nghiệp .
Thành tựu phát triển Lâm nghiệp trong thời gian qua có ý nghĩa rất quan trọng tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Trong thời gian tới phương hướng phát triển ngành đã được Đảng và Nhà nước nêu ra là:
- Xây dụng một nền lâm nghiệp phát triển bền vững, áp dụng những thành tựu khoa học mới, công nghệ mới, công nghệ cao và công nghệ sạch của thế giới vào trồng rừng, chế biến gỗ, chọn giống, bảo tồn nguồn gen rừng… để tạo ra khả năng cạnh tranh của Lâm sản Việt Nam trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
- Phát triển lâm nghiệp một cách toàn diện gắn với công nghiệp chế biến nông lâm sản kết hợp, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. phát triển đồng đều các vùng kinh tế, giảm sự chênh lệch giữa các vùng, phát huy thế mạnh, tiềm năng của mỗi vùng sinh thái và liên kết chặt trẽ giữa các vùng.
- Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu, cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn, tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong Lâm nghiệp nhất là công nghệ sinh học lai tạo, sản xuất giống cây rừng, cơ giới hoá trồng rừng, quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên đất Lâm nghiệp…đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất.
- Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tận dụng khả năng tăng nhanh khả năng tiếp nhận, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến hiện đại của nước ngoài, đồng thời nâng dần tỷ trọng vốn góp của phía Việt Nam trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở phương hướng phát triển Lâm nghiệp mà Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đưa ra, hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian tới sẽ thực hiện theo các hướng sau:
+ Các lĩnh vực ưu tiên là: Chọn tạo, nhập nội, sản xuất các loại cây trồng rừng, chế biến gỗ, nghiên cứu cải thiện giống, nhân giống, chọn ra các loài có năng suất chất lượng cao… để đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
+ Chế biến bảo quản lâm đặc sản, các sản phẩm nông lâm kết hợp để nâng cao giá trị sản phẩm và tạo ra thị trường lâm sản ổn định đối với cà fê, chè, cao su, hồ tiêu, điều, trồng các loài cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế cao và chế biến hạt điều…
+ Nghiên cứu xây dựng và áp dụng các lý thyết khoa học và tiến bộ kỹ thuật của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới, công nghệ kỹ thuật tiên tiến và cơ chế chính sách kinh tế- xã hội nhằm tổ chức kinh doanh và sử dụng hợp lý tài nguyên rừng, bảo vệ môi trường sống góp phần xây dựng, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
+ sản xuất thuốc bảo quản lâm sản, thuốc diệt côn trùng rừng, các bệnh hại cây rừng và các máy móc phục vụ cho lâm nghiệp. Các khu vực được ưu tiên là: Địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
- Thông qua hợp tác đầu tư với nước ngoài để tiến đến tiếp cận với kỹ thuật hiện đại, tiếp thu trình độ quản lý và kỹ thuật, tiếp cận thị trường. Một mặt cần phải tiếp thu công nghệ kỹ thuật hiện đại nhưng phải chú ý đầu tư sử dụng nhiều lao động tại chỗ.
- Với mục đích là nâng cao đời sống nhân dân, do đó phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu.
- Hoạt động đầu tư nước ngoài phải góp phần mở rộng thị trường nhất là đối với thị trường quốc tế.
* Hướng huy động và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài cụ thể như sau:
(a). Đầu tư cho công nghệ sinh học.
Đầu tư nước ngoài vào công nghệ sinh học tạo ra các giống cây mới có năng suất cao, chất lượng cao đưa vào sản xuất để cung cấp các sản phẩm chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao trên thị trường trong nước và có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ sinh học nước ta có thể thực hiện dưới các hình thức, trang bị kỹ thuật và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên môn cao, thông qua các dự án đầu tư phát triển, các trung tâm khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp kể cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
Đầu tư cho công nghệ chế biến và công nghệ bảo quản sau thu hoạch.
Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến nước ta đang gặp nhiều bất cập về công nghệ chế biến. Có những cơ sở chế biến hiện nay công nghệ đã quá cũ nên sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ trên thị trường quốc tế hoặc tiêu thụ được nhưng giá thấp. Một số sản phẩm chỉ xuất khẩu dưới dạng bán thành phẩm nên hiệu quả kinh tế không cao.
- Phát triển công nghiệp chế biến vừa nâng cao giá trị sản phẩm qua chế biến vừa tạo ra thị trường tiêu thụ lâm sản nguyên liệu cho nông dân và từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông lâm nghiệp và nông thôn nước ta.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chế biến có thể thực hiện dưới các hình thức: Liên doanh, liên kết hoặc cho vay bằng thiết bị kỹ thuật công nghệ cao.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp chế biến là hình thức liên doanh với nước ngoài. Những sản phẩm sản xuất ra bên cạnh việc tiêu thụ tại thị trường nội địa cần huy động khả năng của đối tác nước ngoài trong việc tìm kiếm thị trường quốc tế để tiêu thụ. Hiện nay trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông lâm sản kết hợp ở nước ta đã xuất hiện những cơ sở chế biến mía đường, chế biến chè, chế biến hạt điều… một số cơ sở liên doanh đã hoạt động khá hiệu quả, điều đó chứng tỏ hoạt động đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông lâm sản ở nước ta đã bước đầu khởi sắc, cần tiếp tục phát huy.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, bên cạnh sự ưu đãi của thiên nhiên đối với sản xuất Lâm nghiệp, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực sản xuất và bảo quản lâm sản. Do vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch cũng là vấn đề đáng quan tâm. Thực tế cho thấy ở nhiều vùng, nhất là vùng miền núi, giao thông khó khăn do công nghệ bảo quản nông lâm sản quá thấp nên nhiều tiến bộ giống đưa vào sản xuất không bền vững.
Giảm được sự thất thoát, hư hỏng sản phẩm sau thu hoạch là vấn đề đang được nhiều nhà nghiên cứu và sản xuất quan tâm. Trong giai đoạn tới, hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch cần tập trung vào công tác sơ chế và bảo quản sản phẩm để kéo dài được thời gian bảo quản nguyên liệu cho các cơ sở chế biến hoặc bảo quản lâm sản cung cấp cho thị trường xa mà chất lượng sản phẩm không giảm.
(b). Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ Lâm nghiệp.
Cơ sở vật chất phục vụ cho ngành Lâm nghiệp nước ta nói chung còn rất thấp kém, chưa đáp ứng được những yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho Lâm nghiệp nước ta cần một lượng lớn vốn đầu tư, do vậy, việc thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này sẽ khắc phục được khó khăn về vốn. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư nước ngoài thường ít chú ý đến lĩnh vực này vì đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đòi hỏi lượng vốn lớn và thời gian thu hồi vốn kéo dài. Biện pháp tốt nhất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này là các hoạt động liên kết, liên doanh khai thác những vùng đất mới với thời hạn liên doanh lâu dài và có chế độ ưu đãi đối với các chủ đầu tư vào lĩnh vực này.
(c). Đầu tư trực tiếp cho sản xuất của ngành Lâm nghiệp.
Nói chung các nhà đầu tư nước ngoài thường chỉ muốn đầu tư trực tiếp cho việc sản xuất ra những lâm sản có giá trị kinh tế cao và hướng vào sản xuất các sản phẩm xuất khẩu như các loại lâm sản quý hiếm, các loại cây công nghiệp xuất khẩu… Bên cạnh đó cũng có các hoạt động đầu tư cho phát triển Lâm nghiệp dưới hình thức viện trợ hoặc bảo vệ môi sinh. Trong giai đoạn tới cần có chính sách cởi mở, ưu đãi hơn để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Lâm nghiệp.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Lâm nghiệp có thể thực hiện dưới hình thức liên doanh, liên kết hoặc vốn vay nước ngoài để phát triển vùng sản xuất hàng hoá hoặc sản xuất nguyên liệu cho các nhà máy chế biến.
II. Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI vào lâm nghiệp trong thời gian tới.
Giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
1.1. mục
Hoạt động đầu tư nước ngoài có được thực hiện hay không, điều đó phụ thuộc vào cả hai bên (bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư). Vì vậy, để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhưng thực chất lại gắn bó và hỗ trợ cho nhau, đó là phải biết kết hợp hài hoà lợi ích của cả hai bên thì mới phát huy được hiệu quả. Đối với bên đầu tư (bên nước ngoài) mục tiêu duy nhất của các nhà đầu tư là quan tâm đến lợi nhuận, còn bên nhận đầu tư lại quan tâm đến mục tiêu tổng hợp là hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, sự kết hợp hài hoà lợi ích giữa hai bên là cơ sở quan trọng của sự hợp tác đầu tư, để có được sự thống nhất thì hai bên cần có sự điều chỉnh, nhân nhượng thì mới có sự thành công trong hợp tác đầu tư..
Để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài mà trước hết phía Việt Nam với tư cách là bên tiếp nhận đầu tư phải có đầy đủ nhũng điều kiện cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện dự án ĐTNN. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần phải hoàn thiện một số nội dung sau:
(a). Tạo môi trường pháp lý hấp dẫn.
Cần tạo được một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, điều đó được thực hiện trên các mặt cụ thể sau đây:
- Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ đảm bảo thi hành pháp luật nghiêm minh. Hệ thống luật lệ và các văn bản pháp quy của Nhà nước không nên hoặc không có sự điều chỉnh, thay đổi lớn trong một thời gian ngắn.
- Cần có các điều khoản rõ ràng về tính chất ưu đãi, về lợi ích kinh tế và đảm bảo an toàn về tiền vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù thời gian qua Việt Nam đã có chính sách đầu tư vào Lâm nghiệp bằng các ưu đãi về thuế, song chưa cụ thể đến từng lĩnh vực, vì vậy trong thời gian tới cần có giải pháp ưu đãi đến từng lĩnh vực sản xuất Lâm nghiệp thật chi tiết, cụ thể hơn. Theo chúng tôi, các dự án đầu tư nước ngoài vào những địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn có thể miễn cả thuế kinh doanh một số năm đầu bước vào sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện quy định bình đẳng đối với nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài đang lao động tại Việt Nam. Thống nhất mức giá và các loại dịch vụ cung ứng cho hoạt động đầu tư nước ngoài và người nước ngoài lao động tại Việt Nam như đầu tư trong nước và người Việt Nam.
- Khuyến khích phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế tư nhân-Thành phần cần được sự giúp đỡ để phát triển. Vì đây là đối tượng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm chú ý hợp tác đầu tư. Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã quy định mọi tổ chức kinh tế pháp nhân đều được trực tiếp tham gia hợp tác với nước ngoài, song trong những năm qua hầu như mới chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm 95%) tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài. Một phần thực tế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhỏ bé, mà quan trọng là thủ tục để hợp tác với nước ngoài đối với các pháp nhân kinh tế còn chưa thuận lợi. Ngày nay, hoạt động đầu tư nước ngoài dưới dạng các dự án đầu tư của các tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động rộng rãi ở các quốc gia. Do đó, Nhà nước cần sớm ban hành các quy định cụ thể để các pháp nhân kinh tế ngoài quốc doanh có thể tham gia hợp tác với các nhà đâu tư nước ngoài một cách thuận lợi hơn. Đó là việc điều chỉnh các quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh và các quy định đảm bảo an ninh phù hợp hơn. Nhà nước cần hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Đơn giản hoá các thủ tục đăng ký giấy phép, các thủ tục sau cấp phép và ký kết đầu tư nước ngoài. Những năm qua tuy đã được cải tiến giảm bớt các thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư, song thủ tục vẫn còn rườm rà nhất là các thủ tục trển khai sau giấyphép như nhập khẩu thiết bị, máy móc, tuyển dụng lao động và cấp đất. Việc giải phóng mặt bằng và các thủ tục cấp đất còn nhiều khâu nhiều bước, việc giải phóng mặt bằng, đền bù ở một số nơi còn khó khăn do thiếu vốn. Do vậy, trong thời gian tới cần phải nghiên cứu để đơn giản các thủ tục sau cấp phép (các thủ tục sau cấp phép cần quy về một mối quản lý), cân đối vốn trong việc đền bù giải phóng mặt bằng (đối với đối tác Việt Nam tham gia liên doanh), nghiên cứu giảm giá thuế sử dụng đất tuỳ theo lĩnh vực đầu tư.
Hoàn thiện các chính sách về tài chính, tín dụng ngoại hối. Giảm dần việc kết hồi ngoại hối để kiếm lời, xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện, từng bước thực hiện tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai.
Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên doanh với nước ngoài, đồng thời đa dạng hơn nữa hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp doanh, đầu tư nước ngoài thoe hình thức mua lại và sát nhập.
(b). Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi
Những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam phát triển với tốc độ cao và ổn định tạo ra sức hấp dẫn với đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế nói chung vào Lâm nghiệp nói riêng. Tuy vậy vốn FDI vào lâm nghiệp còn ít với tốc độ tăng chậm. Để tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp cần giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Trước hết là có những giải pháp hữu hiệu để giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, kiềm chế được lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Trong những năm gần đây, nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng chậm dần, chất lượng tăng trưởng thấp, sản lượng làm ra khó tiêu thụ, sức mua trong nước còn thấp do thu nhập dân cư thấp, vấn đề kiềm chế lạm phát đang nảy sinh nhiều diễn biến phức tạp, lên xuống thất thường và cũng có những lúc diễn ra thiểu phát. Tỷ giá hối đoái ổn định là một thành công trong việc ổn định và nâng cao giá trị đồng tiền trong nước, nhưng việc duy trì lâu dài một tỷ giá cứng thời gian qua cũng làm hạn chế khả năng xuất khẩu và ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có các giải pháp đồng bộ thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của Chính phủ tạo điều kiện cho thị trường đầu tư hoạt động có hiệu quả.
- Xây dựng chiến lược hợp tác đầu tư với nước ngoài trên cơ sở phát triển chiến lược Lâm nghiệp, khẩn trương hoàn thành quy hoạch tổng thể và cụ thể về cơ cấu lĩnh vực và khu vực đối với đầu tư nước ngoài trong lâm nghiệp.
- Tăng cường đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật và đào tạo tay nghề cao cho người lao động theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản vừa đào tạo chuyên sâu. Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề thông qua xây dựng quỹ hỗ trợ đào tạo.
- Cải tạo nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn, nhất là ưu tiên cho những vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thường tìm đến những địa bàn thuận lợi về giao thông và các dịch vụ sản xuất khác, trong khi đó những vùng còn nhiều tiềm năng phát triển Lâm nghiệp chủ yếu lại ở các vùng Trung du và miền núi đất rộng người thưa nhưng cơ sở lại hết sức nghèo nàn, thấp kém, giải quyết điều này không phải dễ dàng trong thời gian ngắn với điều kiện tiềm lực kinh tế của Việt Nam còn nhỏ bé, Ngân sách nhà nước còn hạn chế. Do vậy cần huy động tối đa tiềm lực nội địa của từng vùng và tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức, Chính phủ các nước. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nông thôn thì nên đầu tư xây dựng dứt điểm một số công trình và địa bàn để tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp.
- Phát triển nhanh thị trường tài chính, lao động… và phát triển các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng đáp ứng với những đòi hỏi bức xúc của hoạt động sản xuất kinh doanh. Phát triển thị trường chứng khoán và các hoạt động của ngân hàng nước ngoài để tiến tới thu hút đầu tư nước ngoài qua thị trường chứng khoán.
- Có những biện pháp cần thiết để khắc phục rủi ro trong sản xuất nông lâm nghiệp. Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ cần có những quy định cụ thể để giúp các cơ sở hợp tác liên doanh với nước ngoài khắc phục và giảm thiểu thệt hại khi xảy ra rủi ro trong sản xuất. Một trong những biện pháp khắc phục rủi ro trong kinh doanh sản xuất là mở rộng hoạt động bảo hiểm sản xuất. Các doanh nghiệp hợp tác liên doanh với nước ngoài có hợp đồng bảo hiểm được bồi thường tương xứng với mức thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
- Phát huy nguồn lực nội địa để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây, hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài sẽ an tâm hơn khi có hoạt động đầu tư đối ứng của các đối tác trong nước thông qua hoạt động liên doanh, liên kết, vì khi đó các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ được sự hỗ trợ của các đối tác trong nước và sẽ cùng các đối tác chia sẻ rủi ro gặp phải. Phát huy nguồn nội lực nội địa làm nguồn vốn đầu tư đối ứng để hình thành các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài là một biện pháp hiệu quả để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp. Chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ đầu tư để các pháp nhân kinh tế trong nước có thể phát huy tiềm lực tại chỗ tạo ra môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài.
* Tạo điều kiện thuận lợi để triển khai các dự án ĐTNN.
Tốc độ thực hiện dự án là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của đầu tư, quá trình triển khai càng nhanh thì các dự án càng sớm đi vào sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, tiến độ thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài vào lâm nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, chắc trở như thủ tục rườm rà, phiền nhiễu, sự khônt thống nhất của một số cơ quan chức năng ở một số địa phương làm mất nhiều thời gian cho việc triển khai dự án. Để các dư án đầu tư nước ngoài triển khai thực hiện được nhanh chóng, sớm phát huy hiệu quả cần phải:
- Nhanh chóng cải thiện thủ tục đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi, rõ ràng về đầu tư, củng cố cơ sở hạ tầng.
- Giảm vướng mắc cho các doanh nghiệp trong quá trình giải toả đền bù. Cần cho phép người nông dân ký hợp đồng thuê đất trực tiếp với công ty.
- Nhanh chóng đẩy mạnh công tác khuyến nông, tuyên truyền xoá bỏ lạc hậu đổi mới nhanh tư duy tiếp cận tiên tiến.
* Khả năng tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài.
Khả năng tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài của nền kinh tế và doanh nghiệp là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư, để tiếp nhận một cách có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi phải có một tỷ lệ hợp lý vốn đối ứng trong nước. Thực tế trong thời gian qua các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của các doanh nghiệp trong nước còn thấp, chỉ đạt 33% vốn trong nước đóng góp ít không những ảnh hưởng đến phần lợi nhuận được chia mà điều quan trọng là về lâu dài là quyền chi phối các hoạt động kinh doanh sẽ thuộc về các nhà đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư, các bên trong nước phải tăng tỷ lệ góp vốn và phải tính đến khả năng mua lại cổ phần của bên nước ngoài. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp trong nước chưa có đủ tiềm lực về tài chính để tham gia liên doanh thì Chính phủ cần có sự hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp bằng hình thức cho vay dài hạn với lãi xuất thấp hoặc hỗ trợ thông qua quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển.
* Tập trung cao độ công tác quản lý điều hành tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả.
Khuyến khích các doanh nghiệp triển khai các dự án thuận lợi, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn. Giải quyết kịp thời các vướng mắc phát sinh để giúp các doanh nghiệp triển khai các dự án một cách thuận lợi- Đây là cách tốt nhất chứng minh có sức thuyết phục về môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng.
Đối với các dự án chưa thực hiện cần rà soát lại tính khả thi của dự án. và liên hệ với nhà đầu tư nước ngoài để nắm thực chất dự định của họ. Xem xét nếu như dự án không thể thực hiện được thì nên sớm xử lý rút giấy phép đầu tư để có thể quy hoạch đất dự án vào việc khác hoặc kêu gọi nhà đầu tư khác đầu tư vào dự án. Cần tính đến lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư nước ngoài khi thanh lý, giải thể dự án đầu tư nước ngoài. Nếu các dự án có thể tiếp tục triển khai, nhưng chủ đầu tư gặp khó khăn về tạm thời về huy động vốn hoặc về thị trường tiêu thụ sản phẩm thì có thể xem xét cho phép dãn, hoãn tiến độ trong một thời gian nhất định.
Đối với những dự án mới bắt đầu triển khai thủ tục hoặc xây dựng cơ bản thì cần hỗ trợ họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính như công bố thành lập doanhnghiệp, thuê đất, thẩm định thiết kế xây dựng… Để nhanh chóng đưa doanh nghiệp vào hoạt động.
Đối với những dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng gặp các khó khăn về tài chính , thị trường thì cần xem xét cụ thể để có những biện pháp giải quyết cho thích hợp. Trước hết, cần xem xét điều chỉnh các dự án đầu tư nước ngoài để nhanh chóng được hưởng những ưu đãi, khuyến khích của các quy định mới trong Luật, Nghị định vừa ban hành. Cho phép dự án sản xuất gặp khó khăn về thị trường quốc tế tăng tỷ lệ nội tiêu nền sản phẩm đó trong nước có nhu cầu mà ta vẫn phải nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp có khó khăn về tài chính có thể xem xét việc cho họ vay vốn tín dụng để triển khai dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển nhượng vốn đầu tư nước ngoài.
* Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo và quản lý các khâu của hoạt động đầu tư nước ngoài như thẩm định dự án, quản lý sau cấp phép và ký kết đầu tư. Thẩm định dự án là khâu đầu tiên xác định hiệu quả trong tương lai của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, công việc này đòi hỏi phải được tiến hành một cách thận trọng, tỉ mỉ và chính xác. Song không vì thế mà làm chậm tiến độ ký kết đầu tư. Muốn công tác thẩm định dự án một cách khoa học, chính xác phải có đầy đủ thông tin kinh tế-xã hội và đủ kiến thức khoa học cần thiết. Chính phủ sau khi tạo được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ. Chính phủ phải hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy để ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc việc các bộ ngành địa phương, ban hành các văn bản trái với quy định trung hoặc thực hiện không nghiêm túc các quy định của Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài giúp Chính phủ quản lý thống nhất hoạt động đầu tư nước ngoài là đầu mối phối hợp giữa các Bộ, các ngành và địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các Bộ, ngành và địa phương thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài theo đúng chức năng, thẩm quyền đã quy định theo Luật Đầu tư nước ngoài theo Nghị định của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, giúp đỡ các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật. Giám sát, kiểm tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp, chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời xử lý các cán bộ có hành vi tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực.
Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các Cơ quan quản lý Nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế của các doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo giám sát được các doanh nghiệp và áp dụng những chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp.
Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; Công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính kiên quyết giảm đầu mối, giảm các thủ tục hành chính không cần thiết nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài; duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư.
* Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách vưà là người vận dụng luật pháp, chính sách để sử lý các tác nghiệp, hàng ngày liên quan đầu tư nước ngoài. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước cao cấp, đội ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp ĐTNN. Trước mắt tập trung vào một số vấn đề sau:
- xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn; nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; Chế độ báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban tổ chức Trung ương đang phối hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu chuyên đề quan trọng này để trình Bộ Chính trị.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác đầu tư nước ngoài, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường xuyên việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp và kinh nghiệm cần thiết.
- Bộ Lao động và Thương binh - xã hội, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Ban tổ chức Trung ương Đảng quy định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và nội dung hoạt động của các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này.
- Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam có kế hoạch vận động thành lập Công đoàn trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ cần xem xét hỗ trợ một phần kinh phí cho các tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp, xây dựng tổ chức công đoàn thực sự trở thành người bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động; Giáo dục kỷ luật lao động, tác phong lao động công nghiệp cho công nhân, quan hệ hợp tác xây dựng với chủ đầu tư, đóng góp vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết luận
Kể từ khi thành lập (năm 1961)cho đến nay, trải qua bao nhiêu thử thách, so với yêu cầu của đất nước hiện nay thì những gì mà ngành lâm nghiệp làm được chưa nhiều, song nếu nhìn lại những ngày đầu của thập kỷ 60, không ai trong chúng ta không tự hào về một chặng đường lớn lên cùng đất nước. Với mục tiêu “Phát triển lâm nghiệp toàn diện, lấy xây dựng và phát triển vốn rừng làm nền tảng” với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm, lấy rừng phát triển rừng…rừng Việt Nam sẽ xanh tươi giàu có và nghề rừng Việt Nam cũng sẽ chuyển mình trong bước đi chung của đất nước.
Trong quá trình phát triển, hội nhập Việt Nam từ một nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình đi lên, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí hết sức quan trọng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn bổ xung vốn đầu tư, là một kênh chuyển giao công nghệ, là giải pháp tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Nhận thức đúng vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong quá trình thực hiện, những chính sách đó không ngừng được cải tổ bổ xung và hoàn thiện với mục tiêu tạo ra thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam .
Thực hiện đường lối chính sách đó thời gian qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Lâm nghiệp đã đạt được kết quả đáng khích lệ. Trong 13 năm qua (1988- 2000) đầu tư trực tiếp nước ngoài đã sản xuất ra được 2089,9 triệu USD giá trị xuất khẩu đạt 537,22 triệu USD, nộp ngân sách Nhà nước 88,29 triệu USD. Một điều quan trọng hơn những con số đó là động lực ban đầu cho đầu tư trực tiếp nước ngoài bổ xung nguồn vốn quan trọng cho Lâm nghiệp (Thời kỳ 1995-2000) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 32,14% tổng vốn đầu tư cho Lâm nghiệp. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kích thích nông lâm nghiệp Việt Nam phát triển, tạo chỗ làm việc và thu nhập cho gần 4 vạn lao động và gián tiếp tạo ra hàng trục vạn việc làm trong các ngành sản xuất nông lâm nghiệp. Vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc khôi phục và xây dựng mới kết cấu hạ tầng nông nghiệp và nông thôn như xây dựng các công trình thuỷ lợi thuỷ nông. Tạo ra thị trường ổn định cho việc tiêu thụ nông sản cho nông dân. cùng với nó đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang một số kỹ thuật và công nghệ mới vào phát triển nông lâm nghiệp Việt Nam như công nghệ chế biến đường tiên tiến, công nghệ áp dụng cho trồng trọt…
Khi thực hiện hợp tác đầu tư với nước ngoài chúng ta không tránh khỏi những mất mát thua thiệt, trở thành “ Bãi thải” công nghệ lỗi thời của các nước tiên tiến, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kiệt quệ. Cái giá phải trả cho việc mượn sức người là rất lớn nếu chúng ta non kém về trình độ hay mắc những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý điều hành vĩ mô. ngược lại chúng ta có thể hạn chế được những tác hại to lớn ấy nếu chúng ta biết khôn khéo xử lý các tình huống và phải có khả năng để thực hiện các quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Để đạt được chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng nông lâm nghiệp từ nay đến năm 2010 mỗi năm là 4,5% do Đảng và Nhà nước ta đưa ra việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong nông lâm nghiệp trong giai đoạn tới có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chúng ta phải coi nhiệm vụ thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông lâm nghiệp là công việc vừa cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài.
Để thực hiện thành công chiến lược thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông lâm nghiệp chúng ta cần phải giải quyết những vấn đề bức xúc như cải thiện môi trường pháp lý, cải tạo cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nông lâm nghiệp. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu nhưng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn chưa như mong muốn của chúng ta. Nhưng tin chắc rằng trong những năm tới bằng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự cố gắng của các ngành các cấp biết khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài sẽ giúp chúng ta thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế xã hội trong nông lâm nghiệp đặt ra.
Hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, trong điều kiện hạn chế về thời gian thực tập, số lượng tài liệu cũng như giới hạn về lượng kiến thức kinh nghiệm thực tế, ngoài sự cố gắng của bản thân, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, chỉ bảo cặn kẽ của thầy giáo TS Lê Nhiệm, Các cô chú cán bộ công tác tại Viện Khoa học Lâm nghiệp. Trong bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em mong rằng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Hà Nội tháng 5 năm 2002.
Lời nói đầu 1
Chương I Kiến thức cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài và Lâm nghiệp Việt Nam. 4
d1. Đầu tư nước ngoài 4
I. Một số vấn đề cơ bản của đầu tư quốc tế. 4
1. khái niệm về đầu tư quốc tế. 4
2. Các hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế: 4
2.1. Đầu tư của tư nhân. 4
a. Đầu tư trực tiếp. 4
b. Đầu tư gián tiếp. 5
c. Tín dụng thương mại. 5
2.2. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). 5
II. Các vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 6
1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 6
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài 8
2.1. Các nhân tố bên trong một quốc gia: 8
2.2. Các nhân tố bên ngoài một quốc gia: 9
3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế các nước đang phát triển. 9
3.1. Vai trò tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài với các nước đang phát triển. 9
3.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. 9
3.1.2. Tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng lao động. 11
3.1.3. Nâng cao năng lực công nghệ. 12
3.1.4. Thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tế. 13
3.1.5. Một số lợi ích khác của đầu tư trực tiếp nước ngoài . 14
3.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 14
3.2.1. Về kinh tế 14
3.2.2. Về chuyển giao công nghệ. 15
3.2.3. Về cơ cấu ngành và lãnh thổ. 16
3.2.4. Về các vấn đề khác. 16
d2. Lâm nghiệp Việt Nam. 17
I. Một số đặc điểm của ngành lâm nghiệp Việt Nam . 17
1. Vài nét về Ngành Lâm nghiệp Việt Nam. 17
2. Lịch sử hình Ngành Lâm nghiệp Việt Nam. 19
a. Quá trình hình thành các bộ phận nghiên cứu Khoa học Lâm nghiệp. 19
b. Các hoạt động chính của Ngành Lâm nghiệp bao gồm : 22
2. Cơ cấu tổ chức ngành Lâm nghiệp Việt Nam 23
2.1. Các phòng nghiên cứu kỹ thuật lâm sinh. 23
2.1. Các trung tâm chuyên đề. 26
2.1. Phân viện và các trung tâm vùng. 28
2.1. Các đơn vị sản xuất và dịch vụ. 32
3.5. Một số đặc điểm khác của ngành Lâm nghiệp Việt Nam. 33
3.5.1. Nền lâm nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền nông lâm nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. 33
3.5.2. Nền lâm nghiệp Việt Nam trải qua nhiều năm trong chiến tranh. 34
3.5.3. Trình độ phát triển lâm nghiệp Việt Nam chưa cao. 34
d3. Định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông lâm nghiệp Việt Nam. 35
I. sự cần thiết phải đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Lâm nghiệp Việt Nam 35
1. Vị trí, vai trò của ngành lâm nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 35
2. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lâm nghiệp là một hoạt động kinh tế đối ngoại đặc biệt quan trọng. 37
3. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lâm nghiệp là một biện pháp quan trọng để tạo nguồn vốn đầu tư cho sản xuất lâm nghiệp. 38
4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một biện pháp nâng cao công nghệ sản xuất và đào tạo chất lượng nguồn nhân lực trong lâm nghiệp. 38
5. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lâm nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ lâm sản của nước ta. 39
II. Định hướng đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp Việt Nam. 40
1. Định hướng phát triển nghành Lâm nghiệp Việt Nam. 40
2. Các giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu trên là: 42
Chương II thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài lâm nghiệp Việt Nam thời gian qua. 43
I. Sơ qua vài nét về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua. 43
1. Điểm qua những thành tựu đạt được. 43
2. Những tồn tại cơ bản trong thu hút ĐTNN. 47
II. Thực trạng thu hút vốn FDI vào lâm nghiệp. 50
1. Quy mô và tốc độ thu hút. 50
2. Cơ cấu vốn đầu tư vào lĩnh vực lâm nghiệp . 52
2.1. Cơ cấu vốn theo ngành. 52
2.1.1. Ngành trồng trọt. 53
2.3.Cơ cấu vốn theo hình thức đầu tư 57
III. thực trạng kết quả thực hiện FDI trong lĩnh vực lâm nghiệp Việt Nam . 62
1. Vốn đã thực hiện. 62
1.1. Phân theo ngành. 62
b. Phân theo hình thức đầu tư 64
2. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn FDI trong lĩnh vực lâm nghiệp . 65
c. Trồng rừng. 67
2. Các dự án vốn đầu tư bị rút giấy phép và giải thể trong lĩnh vực lâm nghiệp Việt Nam . 68
IV. Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông lâm nghiệp Việt Nam . 72
1. Những thành công trong thu hút và sử dụng vốn FDI trong lâm nghiệp . 72
2. Những mặt hạn chế và tồn tại trong thu hút và sử dụng vốn ĐTNN trong lâm nghiệp . 76
3. Nguyên nhân của những tồn tại nói trên. 80
3.1. Nguyên nhân chủ quan. 80
3.2.Nguyên nhân khách quan. 81
Chương III: Một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài vào lâm nghiệp Việt Nam . 83
I. Mục tiêu phát triển Lâm nghiệp và định hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 83
1. Những thời cơ và thách thức trong việc thu hút, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài vào Lâm nghiệp. 83
1.1. Những thời cơ. 83
b. Nhân tố trong nước. 83
c. Những khó khăn. 84
2. Mục tiêu phát triển lâm nghiệp . 85
3. Những định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lâm nghiệp . 88
(a). Đầu tư cho công nghệ sinh học. 90
(b). Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ Lâm nghiệp. 91
(c). Đầu tư trực tiếp cho sản xuất của ngành Lâm nghiệp. 92
II. Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn FDI vào lâm nghiệp trong thời gian tới. 92
1. Giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 92
1.1. mục 92
(a). Tạo môi trường pháp lý hấp dẫn. 93
(b). Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi 95
1.2.Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài. 97
Kết luận 103
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0074.doc