Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của tài liệu số TN.GNS/W/120 (W/120) của vòng đám phán Uruguay của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và danh mục sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên hợp quốc (CPC) định nghĩa:
Dịch vụ bán lẻ là hoạt động bán các hàng hóa cho người tiêu dùng hoặc các hộ tiêu dùng từ một địa điểm cố định (cửa hàng, kiốt) hay một địa điểm khác (bán trực tiếp) và các dịch vụ phụ liên quan.
Ngoài ra còn có khá nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ.
Trong cuốn sách “Quản trị Marketing” Philip Kotler đã định nghĩa bán lẻ như sau:
91 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 861 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh hưởng chi phối của nó đến các nhà cung cấp nhỏ. Các siêu thị thường đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chất lượng rất cao đối với người nông dân, nếu đáp ứng thì họ sẽ mua với khối lượng khổng lồ. Để đáp ứng được yêu cầu rất cao của các siêu thị, người nông dân phải đầu tư máy móc thiết bị, giống, phương pháp canh tác, nhưng họ lại không có vốn và phải đi vay ngân hàng, nếu các nhà phân phối nước ngoài không mua hàng, họ sẽ bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điều này không dễ dàng gì so với trước đó khi họ chỉ phải chuyển tất cả nông sản làm ra với các hình thức khác nhau tới các chợ. Đối với hàng gia dụng và trang trí là mặt hàng có thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, các tập đoàn phân phối nước ngoài thường áp dụng mức giá cao trong các đơn đặt hàng các sản phẩm gia công đồng thời cũng đặt ra các quy định ngặt nghèo về thời hạn giao hàng, sử dụng lao động, nguồn nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ. Có đối tác lo đầu ra, các doanh nghiệp nhỏ chỉ phải tập trung sản xuất, không phải lo các khâu bao bì, thiết kế, marketing, xây dựng hệ thống phân phối và tạo dựng thương hiệu, nên hình thức liên kết này thu hút nhiều nhà sản xuất nhỏ, nhưng sau đó, phía nước ngoài càng giảm giá đặt hàng, các nhà sản xuất trong nước bị lỗ nặng. Tiền vốn đổi mới công nghệ theo yêu cầu của nhà phân phối hàng hóa nước ngoài lại là vay của ngân hàng, không bán được hàng nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Với vốn đầu tư lớn, mặt hàng kinh doanh rộng, hệ thống quản lý bán hàng, lưu kho, vận chuyển có tính ưu việt, các khâu Logistics được thực hiện với độ chuyên nghiệp cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước; các tập đoàn phân phối nước ngoài hàng hóa sẽ dần khống chế hệ thống phân phối hàng hóa nội địa.
Như vậy, rõ ràng là việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ cùng lúc tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực không chỉ đối với sự phát triển của lĩnh vực này mà còn đối với sự phát triển trong nhiều mặt kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung. Mặc dù rất khó để có thể lượng hoá và so sánh được những lợi ích và tổn thất có thể tạo ra, song trên cơ sở xem xét những đặc điểm, tính chất cũng như xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam như đã trình bày ở những phần trên, có thể đưa ra nhận định chung là Việt Nam nhận được những lợi ích nhiều hơn là những thiệt hại đối với dòng vốn này.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG TỐT NHẤT DÒNG VỐN FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC TỚI VIỆC THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
Thời cơ
Xu hướng đầu tư của thế giới
Xu thế toàn cầu hoá: Trên thế giới hiện nay toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng mà bản chất của nó là sự mở rộng thị trường theo các định chế song phương, khu vực và toàn cầu. Thông qua các cam kết về mở cửa thị trường mà sự phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia trong lĩnh vực phân phối ngày càng lớn mạnh. Sự hình thành nên các hãng phân phối lớn xuyên quốc gia và đa quốc gia có mạng lưới phủ khắp toàn cầu đã trở thành một thế lực mạnh, áp đặt cuộc chơi cho các nhà sản xuất. Trong lĩnh vực bán lẻ, xuất hiện sự thay thế các cửa hàng quy mô nhỏ, độc lập bằng những hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm. Quy mô trung bình của các loại hình này ( diện tích, doanh số, lao động) tăng lên, đồng thời mật độ của chúng ngày càng giảm xuống; ngày càng xuất hiện nhiều siêu thị, đại siêu thị, trung tâm thương mại có quy mô lớn, kinh doanh theo chuỗi. Đã có không ít các tập đoàn bán lẻ thực hiện hoạt động kinh doanh trên khắp thế giới. Tập đoàn Wal-Mart (Mỹ) có tới 7.343 cửa hàng trên 14 quốc gia, Carefour (Pháp) có 15.000 cửa hàng trên 30 nước. Như đã nói ở trên, cả hai tập đoàn này đã lên kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam. Điều đó sẽ mang đến những tác động không nhỏ đến lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực phân phối bán lẻ nói riêng.
Xu hướng chuyển dịch FDI sang lĩnh vực dịch vụ: Vai trò của FDI trong khu vực dịch vụ khác với trong lĩnh vực chế tạo, với số lượng việc làm tạo ra ít hơn và giá trị gia tăng cũng ít hơn. Sáp nhân và thôn tính (M&A) là những hình thức thâm nhập thị trường nhanh nhất và thực tiễn nhất. Đặc biệt, trong các dịch vụ kinh doanh, các hình thức đầu tư phi cổ phần khá phổ biến - ủy thác đặc quyền, hợp đồng quản lý, quan hệ đối tác, xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT), xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO)Sự tăng trưởng FDI vào lĩnh vực dịch vụ ngày càng được tiếp sức bởi sức ép cạnh tranh ở thị trường trong nước, dẫn đến việc các công ty xuyên quốc gia phải tìm kiếm thị trường mới để phát huy lợi thế cạnh tranh của họ. Sự tăng trưởng dòng FDI trong lĩnh vực dịch vụ kinh doanh vào các nền kinh tế đang phát triển trong tổng lượng vốn FDI từ 7% năm 1990 lên 38% năm 2002. Các công ty dịch vụ xuyên quốc gia chiếm tới 52% trong Top 100 công ty lớn nhất thế giới theo doanh thu năm 2003 và 52 công ty này đều có mức doanh số cao hơn GDP của Việt Nam. Các công ty này thậm chí còn vượt các nhà sản xuất hàng hóa về mặt doanh thu, lợi nhuận, tài sản và vốn tự có tính theo đầu công nhân. Sự chi phối của các dịch vụ tài chính đã giảm xuống, còn các dịch vụ máy tính, giải trí, sức khỏe và bán lẻ đã nổi lên chiếm ưu thế MIP - UNDP, Services Sector Development: Akey to Viet Nam’s Sustainable Growth, 2005
.
Xu hướng chuyển dịch địa bàn đầu tư: Chi tiêu thương mại ở mỗi nước tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước đó. Theo như cách tính chỉ số chi tiêu thương mại (CCE) dựa trên 4 dữ liệu chính là lượng mua bán hàng hóa - dịch vụ giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất; doanh số bán buôn và bán lẻ các thành phẩm; một vài chi phí vốn kinh doanh và chi tiêu của Chính phủ cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thì năm 2006thì các nước khu vực Châu á – Thái Bình Dương có bước nhảy vọt từ vị trí thứ 5 lên vị trí khu vực có mức tiêu dùng lớn thứ 3 trong tổng số 6 khu vực trên thế giới đứng sau Châu Âu và Mỹ đạt mức 16,1%. Như vậy, có thể thẩy rằng tiêu dùng ở các nước Châu Á đang ngày càng gia tăng và đây là một trong những thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn phân phối hàng hóa lớn trên thế giới. Một đặc điểm chung của các nước Châu Á là hệ thống phân phối hàng hóa còn mang nặng tính sản xuất nhỏ, các cửa hàng bán lẻ kiểu gia đình, quy mô nhỏ, hình thức mua bán trên thị trường chủ yếu là các giao dịch ngẫu nhiên theo kiểu mua đứt bán đoạn. Hệ thống phân phối hàng nông sản chủ yếu qua các chợ và các cửa hàng bán lẻ nhỏ. Điều này lại càng thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo quy mô lớn để thu hút lượng khách hàng phân tán trên thị trường. Tuy nhiên tại Châu Á, thời gian qua có một số nước bất ổn về tình hình chính trị do bạo loạn, khủng bố nên đã ảnh hưởng không ít đến hoạt động đầu tư. Hiện nay, Việt Nam đang được coi là điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư thế giới vì tình hình chính trị ổn định, môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư cũng đã tương đối hoàn chỉnh, cùng với việc nền kinh tế Trung Quốc phát triển quá nóng khiến các nhà đầu tư tìm hướng đầu tư vào Việt Nam càng tăng.
Xu hướng chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam
Trước hết, đó là xu hướng gia tăng nhanh chóng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam. Trong những năm qua, sự gia tăng trong chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam luôn đạt tốc độ cao, hứa hẹn những tiềm năng rất lớn cho sự phát triển của thị trường phân phối ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố mới đây thì mức chi tiêu cá nhân bình quân của người tiêu dùng Việt Nam năm 2004 là 378.000 đồng/tháng/người, cao gấp 2 lần so với mức chi tiêu của năm 2000. Hơn nữa trong quỹ tiêu dùng cuối cùng, mức bán lẻ hàng hóa tăng lên qua các năm. Nếu giai đoạn 1996-2000 thương mại bán lẻ hàng hóa chiếm 66,15% quỹ tiêu dùng cuối cùng thì giai đoạn 2001-2005 tỉ lệ tương ứng là 76,74%. Dự báo giai đoạn 2006-2010, TMBLHH chiếm khoảng 80% Quỹ tiêu dùng cuối cùng.
Hơn nữa, tỉ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam đạt khoảng trên 70%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực như Singapore 57%, Malaysia 59%, Thái Lan 68%... cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự gia tăng mạnh trong tiêu dùng trong nước của Việt Nam.
Thứ hai là xu hướng thay đổi trong cách thức mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam. Sự thay đổi này diễn ra khá mạnh ở Việt Nam trong những năm qua và đang cho thấy xu hướng chuyển dịch mạnh từ việc mua sắm trong các khu chợ truyền thống sang các siêu thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong một cuộc điều tra mới đây được thực hiện ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có tới 70% người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và 20% ở Hà Nội cho rằng họ thích mua sắm ở các siêu thị hơn là ở các khu chợ truyền thống ngoài trời. Theo dự đoán, trong mười năm tới, con số này có thể tăng lên tương ứng là 90% ở Thành phố Hồ Chí Minh và 50% ở Hà Nội. Điều này cho thấy sự thay đổi khá nhanh và mạnh trong cách thức của người dân Việt Nam đối với việc mua sắm hàng hoá.
Cam kết và việc thực hiện cam kết
Nhận thức được xu thế khách quan của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi hệ thống XHCN tan rã (1991), trong gần 20 năm qua, Đảng và Chính phủ đã nhất quán trong việc thực hiện phương châm hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu hơn và chủ động hơn. Để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả và chủ động, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp từ chính trị, ngoại giao, kinh tế, kết hợp đàm phán thương mại để gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế với cải cách trong nước.
Về các quan hệ song phương, đến nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 160 quốc nước và vùng lãnh thổ, trong đó đã ký kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế hai lần, có thoả thuận đối xử Tối huệ quốc 81 quốc gia. Một số hiệp định quan trọng như Hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (1991), Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc (1992), Hiệp định khung với Liên minh châu âu (EU) (1992), Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định hợp tác đầu tư với Nhật Bản (2003) Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đầu tư với 70 nước và vùng lãnh thổ.
Về các quan hệ đa phương toàn cầu và khu vực, Việt Nam đã khai thông và nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) (1993); gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996, là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) năm 2001.
Việt Nam đã kết thúc thành công 14 phiên đàm phán đa phương và song phương với 28 nước thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, mở ra những cơ hội to lớn đối với phát triển kinh tế nước ta.
Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế mở cửa thị trường đối với hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa. Cam kết quốc tế về mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối bán lẻ hàng hóa của Việt Nam bao gồm các cam kết trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ASEAN+ (ASEAN với các đối tác) và cam kết trong khuôn khổ WTO.
Dịch vụ phân phối hiện nay đã được mở cửa cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ, Nhật Bản (theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt Nam - Nhật Bản). Gia nhập WTO, trong thời gian tới, dịch vụ phân phối sẽ được tiếp tục mở cửa cho các nước thành viên khác. Đến 01/01/2009, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ 100% vốn đầu tư nước ngoài đối với hầu hết các mặt hàng. Ngoài sự mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp FDI trong nước, theo bộ Kế hoạch và đầu tư sẽ có một số tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đã đến khảo sát thị trường và bày tỏ ý định đầu tư vào Việt Nam. Trong số đó có Tesco của Anh, tập đoàn bán lẻ đứng thứ 6; Wal-Mart - nhà bán lẻ lớn nhất thế giới, và Carrefoul, nhà bán lẻ lớn thứ hai thế giới cũng đã đưa Việt Nam vào kế hoạch mở rộng các thị trường trọng điểm trong thời gian tới.
Hệ thống phân phối hàng hóa tại Việt Nam hiện nay chủ đạo bởi hệ thống phân phối truyền thống với kênh phân phối chính là chợ và các tiệm bán lẻ rải rác khắp các địa phương. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết quốc tế, đã xuất hiện các hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại với các siêu thị như Co.opMart, MaxiMark... và các trung tâm bán buôn, bán lẻ lớn như Metro, BigC đã dần dần tạo nên những thay đổi trong thói quen mua sắm của dân cư, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Tại các đô thị lớn - nơi có sức mua lớn nhất, nhịp sống dần dần được thay đổi trong các gia đình trẻ bởi thói quen cuối tuần đi siêu thị mua đồ dùng cho cả gia đình trong một tuần. Thêm nữa, sự chênh lệch về phương thức kinh doanh, sự đa dạng hàng hóa, giá cả, nhãn hiệu, an toàn thực phẩm... đã nghiêng cán cân lợi thế về phía hệ thống phân phối hiện đại.
Như vậy, với việc thực hiện các cam kết quốc tế, hệ thống phân phối trong nước ngày càng đa dạng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Lĩnh vực phân phối bán lẻ của nước ta sẽ có cơ hội trở thành một ngành công nghiệp bán lẻ tiên tiến theo kịp với xu hướng chung của khu vực và thế giới.
Thách thức
Cơ sở hạ tầng yếu kém
Sự khan hiếm mặt bằng kinh doanh là một trở ngại đối với việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ. Ở nước ta hiện nay, hầu hết các mặt bằng hiện hữu không đạt tiêu chuẩn quốc tế và để đảm bảo chỗ đứng cho mình, nhiều nhà kinh doanh bán lẻ quốc tế đã phải chọn giải pháp cải tạo lại các cửa hàng mặt tiền trong khi chờ đợi những mặt bằng có chất lượng tốt hơn. Do thiếu mặt bằng nên giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40 USD/m2/tháng vào cuối quí III năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200 USD/m2/tháng CBRE, Viet_CBRE fearless forecast 2008
.
Hiện nay công suất thuê mặt bằng tại các thành phố lớn nước ta đều đạt trên 95% và nhu cầu thuê mặt bằng đang tăng mạnh. Có nhiều trung tâm thương mại đến nay vẫn đang trong quá trình xây dựng nhưng các nhà kinh doanh cũng đã đăng ký thuê kín chỗ.
Phong cách tiêu dùng của người dân vẫn mang nặng tính truyền thống
Phần lớn dân cư nước ta vẫn chưa thích ứng được với các mô hình mua sắm hiện đại. Vì vậy, ở trong nước, dù những tập đoàn bán lẻ lớn như Big C, Metro đang kinh doanh rất thành công, thì hệ thống phân phối truyền thống gồm hơn 9.000 chợ vẫn đang hoạt động hiệu quả và thu hút một lượng lớn dân cư thuộc mọi tầng lớp, đặc biệt là những người có mức thu nhập trung bình, thấp và những người hưu trí. Những người tiêu dùng trong nước hàng ngày vẫn tiếp cận với những nguồn hàng hoá tại chợ gần với nơi họ sinh sống hoặc tại các cửa hàng ven đường. Điều đó cho thấy, mặc dù nhu cầu ngày một gia tăng, nhưng điều đó chưa đủ để có thể thay đổi tập quán, thói quen tiêu dùng.
Hiện tại, thị phần bán lẻ qua các kênh phân phối hàng hóa ở Việt Nam về cơ bản được phân chia như sau: qua các hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi... khoảng 10%; qua hệ thống chợ truyền thống khoảng 40%; qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập khoảng 44%; còn lại khoảng 6% là do các nhà sản xuất trực tiếp phân phối sản phẩm của mình.
Nguồn: Bộ công thương
Biểu đồ 4: Các loại hình phân phối bán lẻ của Việt Nam trong giai đoạn 2002 - 2005
Người Việt Nam vốn quá quen với văn hóa chợ và cửa hàng tạp hóa nên để người tiêu dùng có thể thay đổi hành vi mua sắm ở các cửa hàng bán lẻ hiện đại, họ cần thời gian thích nghi. Yếu tố này thường dễ làm các nhà đầu tư nản lòng.
Mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất trong nước và các nhà bán lẻ nước ngoài
Khi các doanh nghiệp bán lẻ vào Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp phân phối hàng tiêu dùng, một điều họ khá quan tâm là nguồn cung hàng hóa trong nước. Đa phần các nhà sản xuất đều mong muốn sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của thị trường, với hàng may mặc thì nhà sản xuất phải có nhiều bộ siêu tập trong năm, các yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật phải đảm bảo, đồng thời phải giao hàng đúng thời hạn, giá cả được trả theo đúng thỏa thuận hai bên đã cam kết. Song sản xuất của chúng ta quy mô nhỏ, đôi khi không thể hoàn thành đơn hàng đúng thời hạn. Chất lượng sản phẩm không đúng theo yêu cầu và dẫn đến tình trạng có những nhà sản xuất đưa tiền cho nhân viên siêu thị để được có mặt trong hệ thống của họ. Đặc biệt về hàng hóa thời trang như may mặc, giày dép, mặc dù chúng ta có thể xuất khẩu nhưng hầu hết vẫn phải nhường chỗ cho thương hiệu nước ngoài trong những trung tâm mua sắm sang trọng như Parkson, Zen plaza
Hơn nữa, đối với các nhà phân phối lớn như Metro, Walmartthì họ cần một lượng hàng hóa tập trung mà chỉ có những doanh nghiệp sản xuất lớn mới có thể có khả năng đáp ứng những điều kiện của họ. Còn những nhà sản xuất nhỏ yếu về kinh nghiệm, tài chính, nguồn lực thì khó có thể cạnh tranh để có được một vị trí tốt trên những quầy kệ, siêu thị của hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại này.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hạn chế
Gia nhập WTO và mở cửa thị trường là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là những lĩnh vực đã được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ đến thời điểm hiện nay. Vì được bảo hộ nên năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này rất yếu kém và nếu không kịp thời đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh thì rất dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất và kinh doanh và dẫn tới phá sản là điều khó tránh khỏi. Phân phối bán lẻ là lĩnh vực tác động không chỉ đến tiêu dùng mà còn đến cả sản xuất. Nếu các doanh nghiệp trong nước không đứng vững được trên thị trường nước nhà thì nguy cơ bị các tập đoàn bán lẻ nước ngoài lũng đoạn thị trường là điều khó tránh khỏi. Vì thế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ Việt Nam là một bài toán khó của tiến trình mở cửa thị trường. Nếu doanh nghiệp Việt Nam đủ lớn mạnh để phân chia thị phần với các doanh nghiệp nước ngoài thì lợi ích cho việc mở cửa thị trường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phân phối bán lẻ là không nhỏ. Do đó để có thể tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực này thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp là điều khá cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG TỐT NHẤT DÒNG VỐN FDI VÀO LĨNH VỰC PHÂN PHỐI BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
Giải pháp về phía nhà nước
Thực hiện mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa theo các cam kết quốc tế
Mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ phân phối với lộ trình đã cam kết để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam đồng thời tạo dần sức ép cạnh tranh để buộc các doanh nghiệp trong nước phải đẩy mạnh quá trình đổi mới hoạt động thương mại, đẩy mạnh quá trình liên kết, đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực để đẩy mạnh quá trình tăng trưởng. Mặt khác, thông qua các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi, giúp doanh nghiệp trong nước tranh thủ thời gian và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp và của xã hội để vươn lên, đủ khả năng hợp tác và cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và sẽ tham gia vào lĩnh vực phân phối.
Bên cạnh đó mở cửa phải đi đôi với việc công bố rộng rãi những tiến trình xúc tiến việc mở cửa thị trường trên toàn thế giới để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các doanh nghiệp đã đến tìm hiểu thị trường Việt Nam, nhà nước cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp này được tiếp xúc với nguồn thông tin cần thiết và hỗ trợ về mặt pháp lý để đẩy nhanh tiến độ xúc tiến đầu tư. Để làm được việc đó, Chính phủ có thể thành lập Website công bố toàn bộ các chính sách về thương mại, về đầu tư, về sở hữu trí tuệ. Điều đó cũng đáp ứng nguyên tắc công khai, minh bạch theo yêu cầu của WTO.
Nhà nước cần có các biện pháp xây dựng và quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ
Để thu hút được vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ, bên cạnh việc hoàn thiện và tăng tính hấp dẫn của các văn bản thì việc sớm công bố quy hoạch trở nên cấp bách. Quy hoạch này cần cố gắng đảm bảo độ chuẩn xác cao với tình hình mất cân đối trong việc thu hút vốn đầu tư giữa các vùng, mất cân đối giữa các hình thức đầu tư.
Trong thực tế, thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ một cách cân bằng giữa các vùng là mong muốn của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, để thực hiện được thì lại rất khó. Các dự án lớn của các tập đoàn bán lẻ đều chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn do họ đều đặt các mục tiêu lợi nhuận, doanh thu lên hàng đầu. Do đó nhà nước cần có những chính sách ưu đãi tưng xứng để thu hút nguồn vốn FDI về vùng nông thôn nhằm phát triển cân bằng giữa các vùng và góp phần đô thị hóa nông thôn.
Nhà nước cần có các biện pháp hoàn thiện môi trường đầu tư
Để tạo sự hấp dẫn cho dòng vốn đầu tư, việc hoàn thiện môi trường đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Giải pháp này cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép cho các dự án FDI
Thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút đầu tư và quyết định tiến độ thực hiện dự án. Thủ tục rườm rà, sách nhiễu sẽ làm giảm độ hấp dẫn đối với dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, gây trở ngại đến việc thu hút đầu tư. Thêm vào đó, Việt Nam sắp tới thời điểm thực sự mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ thì thủ tục xét duyệt và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI lại càng cần phải hoàn thiện. Thêm vào đó, Chính phủ cũng cần sớm nghiên cứu để xây dựng những quy định, nguyên tắc về đánh giá nhu cầu thực tế khi xem xét các đề nghị mở từ điểm bán lẻ thứ hai trở đi của các nhà đầu tư nước ngoài theo đúng các cam kết trong WTO bảo đảm được lợi ích chung của xã hội.
Hai là, nâng cao chất lượng mặt bằng đồng thời với việc củng cố hạ tầng vật chất kỹ thuật
Đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ thì mặt bằng là một trong những yếu tố quyết định đối với doanh số bán hàng. Vì vậy chính phủ cần tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng... bảo đảm nhanh chóng và thuận tiện để các doanh nghiệp. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nơi mà những mặt bằng đẹp đang được tăng cường tận dụng thì chính phủ nên quy hoạch thống nhất những vị trí có thể đầu tư xây dựng những trung tâm thương mại đảm bảo sự tiện lợi cho việc kinh doanh của các tập đoàn nước ngoài, sự hài lòng của người tiêu dùng Việt Nam đồng thời tạo nên tổng thể hài hòa và phát triển của thành phố. Đối với những tỉnh thành chưa phát triển thì nhà nước tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận được với các mặt bằng đẹp, thuận tiện. Đặc biệt các cơ quan nhà nước tại các tỉnh thành đó cũng cần xem xét hợp lý những dự án xin đầu tư vào địa phương mình để chọn lựa mặt bằng đầu tư phù hợp với hoạt động sau này của dự án. Các tỉnh thành này cần tập trung cho công tác quy hoạch và chính sách phát triển, xử lí và cung cấp thông tin, các hoạt động xúc tiến thương mại, kiểm tra, kiểm soát thị trường
Bên cạnh đó, đối với hầu hết các dự án đầu tư nước ngoài thì chủ đầu tư luôn muốn đầu tư vào những nơi có môi trường đầu tư thuận lợi mà trước hết là những nơi có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại. Lĩnh vực phân phối bán lẻ phụ thuộc khá lớn vào những cơ sở hạ tầng đó vì nó liên quan đến sản xuất, vận chuyển, kho chứa, bến bãi.Do vậy nhà nước cần chú trọng phát triển hệ thống đường bộ, đường biển, đường hàng không, hệ thống thông tin liên lạc
Trên thực tế, có thể liên kết, hoán đổi mặt bằng để đầu tư xây dựng siêu thị, trung tâm thương mại. Hiện có nhiều Tổng công ty nhà nước quản lý một số lượng lớn mặt bằng, nhưng chủ yếu là cho thuê, vì vậy có thể liên kết với các thương nhân kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại để đầu tư xây dựng siêu thị, trung tâm thương mại.
Điều này có thể học tập tại Trung Quốc, họ đã hình thành một quỹ gọi là Quỹ phát triển hạ tầng thương mại nội địa. Ban đầu là của Nhà nước, sau đó sẽ có một số doanh nghiệp cùng góp vốn, đầu tư để hình thành và phát triển quỹ này. Chính việc tham gia quỹ này của các doanh nghiệp sẽ kích thích việc đầu tư và mở rộng. Các doanh nghiệp sản xuất cũng tham gia vào quỹ này (tất nhiên sẽ có những cam kết cụ thể). Việc tham gia của những doanh nghiệp sản xuất vào quỹ này sẽ biến nó thành chất kết dính giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà phân phối sẽ được gắn bó hơn. Ngay bản thân các nhà sản xuất sẽ không phải mất thêm chi phí để xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của mình.
Ba là, đối xử công bằng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Thị trường bán lẻ là lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm và hấp dẫn. Nhạy cảm vì dễ bị tổn thương và hấp dẫn vì có lãi lớn. Vì vậy, Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hiện nay vẫn mong muốn được nhà nước bảo hộ, hạn chế sự mở rộng và đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài đồng thời có những chính sách đãi ngộ ưu tiên hơn những doanh nghiệp FDI. Có những doanh nghiệp còn hi vọng nhà nước quy định tỉ lệ thị trường nhiều hơn cho các DN trong nước mức lý tưởng là 70/30 còn không là 60/40 hay là việc cần tạo ra hàng rào kỹ thuật để các doanh nghiệp trong nước phát triển như: chúng ta đã cam kết phía nước ngoài được lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài nhưng ta quy định mỗi tập đoàn chỉ được mở một siêu thị thay vì nhiều siêu thị
Điều này chưa chắc đã là một giải pháp tốt để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước mà còn tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong môi trường đầu tư nước ta và có thể tạo ra những cản trở trong việc thu hút nguồn vốn FDI làm cho môi trường đầu tư của nước ta kém phần hấp dẫn. Do đó chính phủ cần hạn chế bảo hộ để tạo sức ép cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp lành mạnh, chấm dứt hoạt động của các doanh nghiệp kém hiệu quả bằng cách phá sản, bán lại, cổ phần hóa. Việc bảo hộ lĩnh vực phân phối bán lẻ một mặt là cần thiết nhưng mặt khác lại làm cho nhiều ngành khác thậm chí cả nền kinh tế bị ảnh hưởng. Phải nhìn nhận rõ tính hai mặt của bảo hộ, không nên lạm dụng bảo hộ mà gây nên tâm lý ỷ lại, trì trệ, chậm đổi mới tác động tiêu cực đến sự phát triển chung của kinh tế trong nước.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước cũng cần các cơ quan nhà nước của các tỉnh thành đối xử một cách công bằng, tránh tình trạng thích cấp đất cho các doanh nghiệp FDI hơn là các doanh nghiệp trong nước, đồng thời với việc thực hiện quy hoạch, đấu thầu một cách công khai giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Bốn là, điều chỉnh kịp thời, hoàn thiện môi trường luật pháp
Môi trường chính sách cho dịch vụ ở Việt Nam là một hệ thống khá phức tạp với nhiều loại luật, quy định và các văn bản dưới luật do các Bộ, cơ quan và các chính quyền địa phương ban hành. Kết quả là thiếu minh bạch và điều khá phổ biến là các văn bản này thường mâu thuẫn với nhau. Ngay cả người Việt cũng gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với các văn bản này do đó việc tiếp cận và hiểu được các văn bản đó đối với các công ty nước ngoài còn khó khăn hơn nhiều. Trên thực tế, các công ty nước ngoài thường được thông báo về những thay đổi trong các quy định cấp phép và hoạt động chỉ sau khi họ đã chuẩn bị tài liệu theo những quy định trước đó. Thêm vào đó là sự phân chia trách nhiệm không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý là tính thiếu nhất quán của môi trường pháp luật. Tại Việt Nam, mỗi Bộ đóng vai trò nhất định đối với khu vực dịch vụ, hoặc là giám sát trực tiếp một ngành dịch vụ, hoặc là xây dựng chiến lược, chính sách,Đơn cử như đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ, trong khi Vụ chính sách thị trường trong nước – Bộ công thương quản lý thị trường bán lẻ thì Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư có quyền về cấp phép cho các dự án đầu tư mới. Sự phân chia trách nhiệm không rõ ràng giữa các bộ và cơ quan dễ dẫn đến tình trạng trong đó mỗi một cơ quan theo đuổi những lợi ích của riêng mình mà ít chú ý đến sự phát triển tổng thể của nền kinh tế.
Năm là, góp phần tăng cường và định hướng tiêu dùng đồng thời phát triển du lịch thu hút tiêu dùng từ những khách nước ngoài
Đối với lĩnh vực phân phối bán lẻ, tiêu dùng là nhân tố quyết định đến tính hấp dẫn của thị trường. Nước ta mặc dù năm 2007 xếp thứ 4 về mức độ hấp dẫn nhất của thị trường bán lẻ theo AT Kearney nhưng hiện tại kênh phân phối hiện đại chưa thu hút được nhiều khách hàng do thị phần bán lẻ qua các hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi chỉ chiếm khoảng 10% như đã phân tích ở trên. Nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì chính phủ Việt Nam cũng cần định hướng tiêu dùng, hướng người tiêu dùng sử dụng những hệ thống phân phối hiện đại, dần bỏ thói quen ghé xe vào những chợ hoặc cửa hàng ven đường mua bán. Tổ chức sắp xếp lại hệ thống chợ truyền thống đi liền với việc quy hoạch phát triển các khu trung tâm thương mại, siêu thị một cách hợp lý cần được coi là một công cụ can thiệp chủ yếu của Nhà nước để tạo nên sự dịch chuyển một cách hiệu quả cho thị trường phân phối bán lẻ của Việt Nam.
Bên cạnh việc hướng người tiêu dùng Việt Nam mua sắm tại những hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại, để gia tăng tổng mức hàng hóa bán lẻ trên địa bàn thì gia tăng kim ngạch xuất khẩu tại chỗ là một giải pháp tốt. Tăng lượng khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam và tăng mức chi tiêu của những du khách này ở các siêu thị, trung tâm thương mại sẽ đảm bảo mức gia tăng doanh thu bán lẻ trên địa bàn. Chính việc tăng cường thu hút du lịch cũng là một biện pháp để phát triển lĩnh vực phân phối bán lẻ. Nhà nước cũng có thể ưu tiên, khuyến khích đối với các dự án đầu tư vào những nơi có cơ sở du lịch nổi tiếng ở nước ta.
Hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tiếp cận với nguồn vốn
Một trong những khó khăn lớn nhất của các nhà sản xuất là việc tiếp cận nguồn vốn. Doanh nghiệp nước ta thường là thiếu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư vào máy móc tiên tiến, nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ của các công nhân sản xuất vì thế nên không ít các cơ sở kinh doanh không thể đáp ứng được yêu cầu của các tập đoàn phân phối nước ngoài. Hỗ trợ các doanh nghiệp này được tiếp xúc với nguồn vốn sẽ giúp nâng cao sản xuất tránh những trường hợp đáng tiếc xẩy ra mà nguyên nhân là do thiếu vốn đầu tư sản xuất.
Hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực phân phối bán lẻ
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực phân phối bán lẻ nhà nước cũng cần hỗ trợ để các doanh nghiệp này nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình, tránh việc phá sản hàng loạt. Khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước được củng cố thì việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này sẽ không còn bị phản đối một cách gay gắt nữa. Hỗ trợ các doanh nghiệp này, nhà nước có thể áp dụng những biện pháp như sau:
Thứ nhất, công bố và phân tích thông tin về mở cửa thị trường, tự do thương mại
Để tạo sự chủ động để tận dụng những cơ hội và đặc biệt là để vượt qua những thách thức cho các chủ thể kinh doanh dịch vụ phân phối của Việt Nam trong tiến trình mở cửa thị trường theo các cam kết trong khuôn khổ WTO, Chính phủ Việt Nam cần đóng vai trò chủ đạo và tích cực trong việc nâng cao nhận thức và hiểu biết của các đối tượng có liên quan trong lĩnh vực phân phối, trong đó tập trung đặc biệt vào khu vực các doanh nghiệp phân phối và các hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ ở trong nước.
Trước hết, những thông tin cụ thể về cam kết của Việt Nam đối với lĩnh vực phân phối cần được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi để bảo đảm mọi đối tượng có liên quan đều có thể tiếp cận một cách dễ dàng nhất. Ở đây rất cần lưu ý việc sử dụng các kênh cung cấp thông tin khác nhau một cách đa dạng và linh hoạt để tiếp cận tới những đối tượng khác nhau cho phù hợp. Bên cạnh đó, việc phổ biến thông tin không nên chỉ dừng lại ở việc đăng tải "nguyên văn" những cam kết trong các văn kiện gia nhập của Việt Nam mà cần có sự nghiên cứu, giải thích một cách cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với trình độ tiếp thu của các đối tượng có liên quan trước khi đưa ra phổ biến rộng rãi. Đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng bảo đảm tính hiệu quả và thiết thực của công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức trong cộng đồng dân cư.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần giao nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý chuyên ngành như Bộ Công thương, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp... thực hiện những nghiên cứu đánh giá tác động, những cơ hội, thách thức có thể đem lại cho các nhà phân phối trong nước khi mở cửa thị trường, thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO về lĩnh vực này để cung cấp cho các nhà phân phối trong nước những thông tin hữu ích trong việc chủ động thích ứng với những thông tin hữu ích trong việc chủ động thích ứng với những thay đổi có thể diễn ra.
Thứ hai, hoàn thiện các chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp
Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ta không tránh khỏi những bỡ ngỡ trước những thay đổi của môi trường kinh doanh mới. Các chính sách định hướng, khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp của Chính Phủ sẽ một phần nào nâng cao được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có những chính sách thực sự cần thiết trong gia đoạn hiện nay như:
- Hoàn thiện cơ chế tổ chức, quy chế hoạt động của các hiệp hội theo nguyên tắc tự nguyện để thành lập các hiệp hội bán buôn, bán lẻ, chợ, siêu thị nhằm giúp các hội viên chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, tìm kiếm cơ hội, tạo mối liên doanh, liên kết, hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại trong nước, đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu; đồng thời thông qua hiệp hội để kiến nghị và tham gia vào quá trình xây dựng chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Nghiên cứu, ban hành các chính sách hỗ trợ hoặc khuyến khích phù hợp để tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nhỏ lẻ có thể tham gia vào các chuỗi cửa hàng phân phối uy tín trong nước theo kiểu làm đại lý hoặc kiểu nhượng quyền kinh doanh. Nhà nước có thể đứng ra bảo lãnh cho các hộ kinh doanh nhỏ lẻ để được tham gia vào các mối liên kết với các nhà phân phối lớn, mang tính chuyên nghiệp cao, đặc biệt là các nhà phân phối trong nước để từng bước chuyển đổi hoạt động kinh doanh của các hộ cá thể này theo hướng ổn định lâu dài. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần nghiên cứu, xây dựng các chương trình tín dụng cho các hộ kinh doanh cá thể vay vốn chuyển đổi ngành nghề kinh doanh sang các lĩnh vực khác.
- Xây dựng những chính sách quy hoạch một cách công khai các vị trí bán lẻ để các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài đấu thầu lành mạnh, tránh các trường hợp mập mờ không công khai đồng thời cũng thực hiện đúng theo quy hoạch tránh thay đổi đột ngột làm cho các doanh nghiệp không chuẩn bị kịp thời.
Thứ ba, hỗ trợ nâng cao kiến thức về lĩnh vực phân phối bán lẻ
Do thời gian trước đây nước ta chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực phân phối bán lẻ cho nên hiện nay các doanh nghiệp nói chung chưa có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực này mà đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và những hộ kinh doanh. Nhà nước nên bố trí ngân sách tập trung theo chương trình để nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật, đổi mới đội ngũ giáo viên và giáo trình về lĩnh vực phân phối cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề để đào tạo các cán bộ quản lý, các nhân viên có kỹ năng hiện đại cho các khâu bán hàng, thanh toán, nghiệp vụ kho hàng. Xây dựng chương trình đào tạo phù hợp và theo kịp xu hướng phát triển của thế giới trong lĩnh vực phân phối. Triển khai các chương trình đào tạo cho các chủ hộ kinh doanh cá thể về lý thuyết và những kỹ năng cơ bản nhất trong kinh doanh bán lẻ hiện đại để có thể tiếp tục cạnh tranh và phát triển trong phân đoạn thị trường của mình. Trên thực tế, ở nước ta cũng đã tổ chức được những khóa đào tạo như vậy và đạt được những thành công nhất định.Trung tâm Xúc tiến Thương mại - Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức khoá đào tào về bán lẻ đầu tiên cho 88 học viên đa phần là các tiểu thương, chủ cửa hàng bán lẻ trên địa bàn Cần Thơ. Tại đây, nhiều học viên cho rằng họ đã bất ngờ "khi nhận ra những điều dễ bỏ qua lại là điều cần nhớ nhất vì đó là nếp văn hoá hết sức cần thiết cho người bán hàng. Những bài học tâm lý trong cách phục vụ khách hàng, những phương cách ứng phó khi đứng trước các tình huống bất lợi... được giảng dạy một cách bài bản trong khoá học này."
Giải pháp về phía doanh nghiệp
Đồng thời với việc thu tăng cường thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp trong nước là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ còn yếu kém về nhiều mặt đã tỏ ra chưa thực sự vững vàng và chưa sẵn sàng đương đầu với các thách thức của môi trường cạnh tranh quốc tế. Điều này một phần do cách thức tổ chức của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, mang tính tự phát cao, cở sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp còn yếu kém, đội ngũ lao động chưa qua đào tạo... Chính vì vậy, khi tiếp cận môi trường kinh tế phát triển mang tính cạnh tranh cao, có hệ thống những quy định thương mại chặt chẽ thường các doanh nghiệp cảm thấy khó khăn và lúng túng. Do vậy, bản thân các doanh nghiệp này phải đổi mới khẩu tổ chức quản lý, áp dụng các công nghệ quản lý tiên tiến nhằm điều chỉnh lại hình thức tổ chức kinh doanh, bảo đảm tận dụng hết tiềm năng của người lao động, phối hợp một cách đồng bộ các nguồn lực trong nội bộ công ty, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nội bộ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Doanh nghiệp cần chủ động huy động vốn từ mọi hình thức
Vốn luôn là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động vốn luôn là một yếu tố quan trọng, nguồn vốn càng đa dạng bao nhiêu thì càng san sẻ bớt rủi ro trong quá trình sử dụng vốn.
Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có nhiều doanh nghiệp, tập đoàn có vốn lớn gấp hàng chục, thậm chí là hàng trăm, hàng nghìn lần so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ của ta. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phát triển trong một môi trường kinh doanh mà áp lực cạnh tranh và sự biến động kinh tế là rất lớn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế cần có sự chuẩn bị kỹ càng, đặc biệt là nguồn vốn. Vì thế doanh nghiệp cần huy động mọi nguồn vốn để thực hiện đầu tư phát triển. Nguồn vốn có thể là từ vốn tự có của các doanh nghiệp, huy động vốn từ các tổ chức kinh tế khác thông qua phát hành trái phiếu, tín phiếu, thậm chí có thể huy động vốn từ các nhân viên của doanh nghiệp.
Tận dụng tối đa hiểu biết về thị trường trong nước
Cho dù các tập đoàn bán lẻ có tập trung đầu tư nghiên cứu thị trường thì cũng không thể hiểu hết về thị trường Việt Nam bằng các doanh nghiệp Việt Nam. Tại nước ta đã có những trường hợp của các mô hình cửa hàng tiện lợi như Masan, Daily vốn rất phổ biến trên thế giới nhưng không thích hợp với thị trường Việt Nam nên nhanh chóng bị đào thải ra khỏi thị trường. Sự hiểu biết về thị trường là một thế mạnh rất lớn của các doanh nghiệp trong nước. Nếu như biết tận dụng tốt thế mạnh này thì các doanh nghiệp trong nước có thể vững vàng cạnh tranh cùng các tập đoàn nước ngoài. Điều này đã được chứng minh rất rõ bởi sự thành công của các nhà bán lẻ Hàn Quốc. Và cũng không phải nói ở đâu xa, nước ta hiện nay nếu so sánh tương quan trên thị trường bán lẻ nội địa hiện nay bằng chỉ tiêu doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn đang tỏ ra chủ động và vượt trội trong việc nắm bắt phần lớn các kênh phân phối trên thị trường nội địa. Thành công này phần lớn là nhờ vào cách ứng xử của người tiêu dùng, quyết định bởi thu nhập họ có được, tập quán mua bán truyền thống, kinh nghiệm và sở thích. Trong thời gian tới, để cạnh tranh và giữ được vị thế của mình, ngoài việc khai thác triệt để ưu thế về độ quen thuộc, thông hiểu tập quán, sở thích tiêu dùng của người dân; để bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị hiếu tiêu dùng của người dân, vốn rất nhanh nhạy với giá cả, chất lượng dịch vụ, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần nhanh chóng đổi mới theo phương pháp quản lý kinh doanh hiện đại và chuyên nghiệp
Đổi mới khâu tổ chức và quản lý
Thứ nhất, áp dụng công nghệ hiện đại. Nhằm nâng cao chất lượng quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ phân phối nói riêng, áp dụng công nghệ hiện đại là một trong những đòi hỏi cấp thiết trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cái lợi đầu tiên trong việc đưa công nghệ hiện đại vào quản lý là con người bởi nó làm thay đổi tư duy làm việc của mọi vị trí trong mỗi doanh nghiệp, ứng dụng một hệ thống quản lý hiện đại, ban lãnh đạo doanh nghiệp có được thông tin nhanh chóng và chính xác. Các cấp quản lý có thể tối ưu hóa năng suất tại mỗi công đoạn, hợp lý hóa công việc, giảm chi phí...
Thứ hai, ứng dụng thương mại điện tử vào kinh doanh. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ thông tin thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa cần coi thương mại điện tử là xu thế khách quan, một giải pháp hữu hiệu nhất nhằm rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian, mở rộng hợp tác, quản lý điều hành kinh doanh nhanh chóng kịp thời với mức chi phí hợp lý nhất. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình chiến lược và kế hoạch ứng dụng thương mại điện tử phù hợp với hoàn cảnh của từng doanh nghiệp, xây dựng cho mình các website riêng và tăng cường đầu tư cho ứng dụng thương mại điện tử. Việc tham gia vào đúng lúc, đúng thời điểm với sự chuẩn bị đầy đủ sẽ mang lại những đột phá mang tính bước ngoặt cho công việc kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa, đồng thời là yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống siêu thị nội địa đang ngày càng khiến nhiều khách hàng chán nản. Những vụ thanh tra gần đây cho thấy nhiều vi phạm trong hệ thống này như bán hàng quá hạn, hàng chưa đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn, hàng không rõ nguồn gốcVì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng và quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO để thực sự mang lại hiệu quả trong quản lý điều hành, xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp không những ở trong nước mà cả trên thế giới. Đối với mặt hàng nông sản, thực phẩm các doanh nghiệp nên áp dụng những biện pháp như kiểm tra thực tế khả năng nuôi trồng của nhà cung cấp, kiểm tra giấy chứng nhận cơ sở sản xuất kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp, kiểm tra giấy xét nghiệm định kỳ đối với sản phẩm và lựa chọn những nhà cung cấp chuyên nghiệp, nghiêm túc đảm bảo giúp siêu thị khẳng định uy tín với khách hàng.
Nâng cao chất lượng lao động
Nguồn nhân lực được coi là vấn đề sống còn của mỗi một doanh nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối hàng hóa không nằm ngoại lệ. Vốn quý nhất của doanh nghiệp chính là vốn nhân sự, một đội ngũ lao động được đào tạo gắn kết cùng đồng lòng chia sẻ thuận lợi và vượt qua những thử thách gay go của quá trình kinh doanh là điều hết sức quan trọng. Ngành dịch vụ phân phối bán lẻ hàng hóa thu hút một lượng lao động lớn, tuy nhiên do đặc thù của ngành nên lao động đến với ngành này phần lớn chưa qua đào tạo, trong khi nguồn cung lao động của ngành dịch vụ phân phối rất dồi dào, thực hiện hoạt động kinh doanh một cách nhỏ lẻ... điều này gây cho ngành dịch vụ phân phối hàng hóa một áp lực cạnh tranh rất lớn sẽ được tạo ra từ phía các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ trong khuôn khổ thực hiện các cam kết của WTO. Có thể nói việc mở cửa thị trường dịch vụ phân phối sẽ không chỉ tạo ra những tác động về mặt kinh tế mà còn tạo ra không ít tác động về mặt xã hội ở Việt Nam . Chính vì vậy, việc nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa. Đặc biệt đối với phân phối bán lẻ, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa về đào tạo kỹ năng mềm cho nhân viên như khả năng giao tiếp giữa người với người, đánh giá nhu cầu, kỹ năng thương lượng, các kỹ năng giải quyết vấn đề. Chính những kỹ năng đó sẽ tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Mở rộng thị trường tới khu vực nông thôn
Thị trường nông thôn đang trở thành một thị trường tiềm năng với khoảng 60 triệu dân và thu nhập ở nông thôn cũng ngày một tăng dần, chuyển đổi cơ cấu hiệu quả sẽ bùng phát sức mua tại các khu vực này. Thị trường phân phối bán lẻ ở nông thôn sẽ trở nên sôi động trước hết là ở các nơi có tốc độ đô thị hóa cao. Chỉ cần mỗi ngày một người dân nông thôn tăng mua 1.000 đồng hàng hóa thì tổng mức bán lẻ ở khu vực này tăng thêm 60- 70 tỉ đồng. Bên cạnh đó, khi mở rộng thị trường tới vùng nông thôn, các doanh nghiệp nước ta không những tránh được các sức ép cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp FDI mang đến mà còn được hưởng lợi rất lớn từ sự ưu tiên về vị trí, về mặt bằng cũng như sự ưu tiên trong các chính sách phát triển của nhà nước.
KẾT LUẬN
Mặc dù nước ta chưa thực sự mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ nhưng kể từ 1996 đến nay đã có một số doanh nghiệp FDI đầu tư vào lĩnh vực phân phối và bán lẻ ở Việt Nam. Tuy số lượng nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ hàng hóa chưa nhiều và thời gian đầu tư vào nước ta chưa đủ dài để đánh giá đầy đủ những tác động mà nó mang lại nhưng cũng có thể thấy rằng nguồn vốn FDI này đã tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế và xã hội của Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó khóa luận đã xác định việc cần thiết phải mở cửa thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ.
Khóa luận đã phân tích tổng quan về lĩnh vực phân phối bán lẻ ở nước ta và chỉ ra những đóng góp của lĩnh vực này vào sự phát triển chung của đất nước; Khóa luận cũng đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phân phối bán lẻ, chứng minh sự cần thiết phải thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này và chỉ ra những tác động tới kinh tế và xã hội của Việt Nam trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, khóa luận chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tới việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ và kiến nghị những biện pháp nhằm tận dụng tốt nhất dòng vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ trong thời gian sắp tới để phát triển toàn diện hơn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam cũng như trong việc tiếp cận với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Xét cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế, thì nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển đúng hướng và những tác động tích cực của mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ là hoàn toàn có thể nhận thấy được. Nếu như trước khi có các doanh nghiệp FDI đầu tư, lĩnh vực phân phối nước ta hoàn toàn mang tính chất tự phát, truyền thống thì trong những năm qua, lĩnh vực này đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tiên tiến và hiện đại hơn. Nhưng, khi lĩnh vực này được mở cửa một cách sâu rộng mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để tận dụng tốt nhất nguồn vốn FDI thì nguy cơ các doanh nghiệp nước ngoài thao túng thị trường nước ta là hoàn toàn có thể xẩy ra. Sau một thời gian nhất định nữa, những mặt tích cực và tiêu cực mà dòng vốn này mang lại sẽ xuất hiện rõ nét hơn. Nếu chúng ta có thể hoàn thiện các cơ chế chính sách, phát triển bền vững thị trường trong nước thì việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ sẽ hỗ trợ không nhỏ tới công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
Bộ kế hoạch và đầu tư (3/2008), Danh mục đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phân phối bán lẻ 1996- 3/2008.
Bộ Thương mại (2006) Đề án phát triển thương mại trong nước 2006-2010, định hướng đến 2020, Hà Nội,
Bộ Thương mại (2006) Dự án quy hoạch phát triển mạng lưới chợ toàn quốc đến năm 2010 và định hướng đến 2020, Hà Nội.
Bộ Thương mại và GTZ (2005) dự đoán về môi trường pháp lý cho dịch vụ phân phối ở Việt Nam, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Liên Hợp quốc (2005), Phát triển các thành phần dịch vụ, chìa khóa cho Việt Nam tăng trưởng bền vững. UNDP, Hà Nội.
GS.TS Nguyễn Thị Mơ (2005), Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở cửa về dịch vụ thương mại, NXB Lí luận chính trị.
PGS. TS. Nguyễn Văn Thường, Trương Đình Chiến (1999), Quản trị hệ thống phân phối sản phẩm, NXB Thống kê.
Ủy ban quốc gia và hợp tác kinh tế quốc tế (2006) Tài liệu về Việt Nam gia nhập WTO, Hà Nội.
WTO: “Bảng phân ngành dịch vụ” (1991) WTO, Geneva, (MTN.GNS/W/120).
Viện Nghiên cứu Thương mại (2005), Đề tài tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động thương mại Việt Nam. Hà Nội.
Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
Athukorala, Prema-chandra, (2006) Trade Policy Reforms and the Structure of Protection in Vietnam. World Economy.
Auffret, Philippe (2003) Trade Reform in Vietnam: Opportunities with Emerging Challenges. World Bank Policy Research Working Paper 3076. World Bank, Washington, D.C.
CBRE Vietnam (2008), Market trends & local opportunities for retailers and developers.
MPI (Ministry of Planning and Investment) and UNDP (United Nations Development Programme), (2005), Services Sector Development: A Key to Viet Nam's Sustainable Growth. UNDP, Hanoi.
Julian Arkell and Michael D C Johnson. SIA of WTO negotiations (2005) Final report for the Distribution services Study. Institute for Developmenet Policy and Management, University of Manchester, UK.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7324.doc