Cơ sở của nền kinh tế mở của việc thương mại hóa toàn cầu chính là lợi thế của mỗi nước khi tham gia quan hệ quốc tế. Các nước đều phải tìm được lợi thế của mình khi tiến hành tham gia thương mại toàn cầu. Lý thuyết tuyệt đối của Smith trong thương mại quốc tế chính là hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa dịch vụ xuất khẩu thấp nhất so với các nước khác. Còn đối với những nước nhập khẩu thì những mặt hàng nhập khẩu là những mặt hàng có chi phí sản xuất cao nhất so với các nước khác. Chính vì những nguyên nhân này mà tất cả các nước đều có lợi thế khi tham gia thị trường toàn cầu. Các nước xuất khẩu có lợi thế là tăng được ngoại tệ từ xuất khẩu, tạo được việc làm nhiều hơn, tận dụng được nguồn năng lực sẵn có của mình. Còn đối với các nước nhập khẩu, nhờ có nhập khẩu mà họ có thể tiêu dùng được hàng hóa dịch vụ nhiều hơn với giá thành rẻ hơn so với tự sản xuất lấy, bên cạnh đó họ có thể tập trung vào sản xuất được những mặt hàng lợi thế của mình. Từ đó nước nào cũng có được lợi ích khi tham gia thị trường quốc tế.
130 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng huy động và sử dụng vốn nước ngoài trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế; hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
Trong lĩnh vực Môi trường, vốn ODA đã được sử dụng để hỗ trợ bảo vệ và cải thiện môi trường sống trong các lĩnh vực như trồng rừng, quản lý nguồn nước, cấp nước và thoát nước, xử lý nước thải, rác thải ở nhiều thị xã, thành phố, khu công nghiệp và các khu dân cư tập trung.
c) Phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người, chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến: vốn ODA đã hỗ trợ tài chính và chuyên môn để xây dựng một số luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Phòng, chống tham nhũng và nhiều văn bản dưới luật; chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ; kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Một lực lượng lớn nguồn nhân lực đã được đào tạo và được đào tạo lại ở trong và ngoài nước, góp phần đáng kể tăng cường năng lực con người cho các cấp;
d) Phát triển kinh tế, xã hội tại các địa phương: vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và
xoá đói, giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ (cấp nước, đường giao thông, trường học, trạm y tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,...) và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Bảng 3. Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo vùng lãnh thổ thời kỳ 1993 - 2007
Đơn vị: Triệu USD
Ngành, lĩnh vực
Hiệp định ODA ký kết
1993 - 2007
Tổng
Tỷ lệ %
1. Vùng Đồng bằng Sông Hồng
3.500,83
16%
2. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ
2.063,78
16%
3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung
3.278,19
34%
4. Vùng Tây Nguyên
1.132,39
34%
3. Vùng Đông Nam Bộ
3.995,60
34%
4. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
2.394,67
34%
5. Liên vùng
9.211,33
34%
6. Khác (Tăng cường năng lực, thể chế,)
Tổng số
11.206
100%
Giá trị ODA bình quân đầu người vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đạt 33,98 USD, vùng đồng bằng sông Hồng đạt 18,42 USD, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đạt 52,46 USD, vùng Tây Nguyên đạt 21,86 USD, vùng Đông Nam Bộ đạt 25,4 USD, vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 11,19 USD.
( Nguồn:
V.Những kết quả và hạn chế chủ yếu
Kết quả:
Việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.
Tuy tiếp nhận một khối lượng vốn ODA bao gồm các khoản vay gắn liền với các điều kiện về cải cách thể chế, song ta vẫn giữ được độc lập tự chủ và chủ động thực hiện công cuộc đổi mới và cải cách theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy đã vay một lượng vốn ODA đáng kể, song theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ nước ngoài của ta hiện trong giới hạn an toàn.
ODA đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
Nguồn vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô vừa và nhỏ (nước, đường, trường, trạm, lưới điện, điện thoại...), nhờ vậy đã tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện cơ sở vật chất trường học, y tế và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, đặc biệt ở các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Thông qua các chương trình và dự án ODA, ta đã tiếp nhận được các thành tựu khoa học hiện đại, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường năng lực và phát triển thể chế (hỗ trợ xây dựng chính sách, luật pháp: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng,...và đào tạo cán bộ).
Hạn chế:
Một là, khả năng hấp thụ ODA của Việt Nam thấp hơn so với các nước có cùng mức bình quân thu nhập đầu người (chỉ số này được đánh giá dựa trên các yếu tố: tốc độ giải ngân, khả năng lựa chọn dự án, năng lực và quản lý hiệu quả các dự án đầu tư). Nguồn vốn viện trợ phát triển chỉ thực sự có hiệu quả khi nó được chuyển hóa vào từng công trình cụ thể của hạ tầng kinh tế, xã hội và tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển. Khi Việt Nam chưa đưa ra và chứng minh được tính hiệu quả của các dự án cụ thể thì “tiền vẫn nằm trong túi các nhà tài trợ”. Một chuyên gia kinh tế nước ngoài nhân định : ‘Tốc độ triển khai dự án của Việt Nam chậm hơn các nước có cùng bình quân thu nhập đầu người từ 1 đến 2 năm, một dự án ODA ở nước khác được hoàn thành trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 năm thì ở Việt Nam là từ 6 đến 7 năm. Năm 2006, Việt Nam nhận được tổng mức cam kết viện trợ 3,74 tỷ USD nhưng chỉ giải ngân được khoảng 1,8 tỷ USD. Còn năm 2007 vẫn chưa biết mức giải ngân là bao nhiêu vì điều này phụ thuộc vào các dự án được đưa ra, được duyệt và được triển khai như thế nào”. Như vậy con số 11 tỷ USD ODA cần phải giải ngân trên thực tế trong giai đoạn 2006-2010 là không dễ thực hiện nếu chính phủ không kịp thời đưa ra các giải pháp quyết liệt hơn. Theo bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, để kinh tế đạt kế hoạch và tạo đà cho thời kỳ phát triển sau 2010, Việt Nam sẽ ưu tiên sử dụng các nguồn vốn ODA vào đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Như vậy, việc giải ngân ODA sẽ khả thi và hiệu quả hơn.
Hai là, phải khẳng định rằng, phần lớn ODA không phải là “ tiền trên trời rơi xuống” hay “cho không” Việt Nam. Đây là tiền đi vay và phải trả, mặc dù khoảng thời gian ân hạn cho khoản vay này là khá dài. Điều này cảnh báo chúng ta rằng, nếu sự tăng trưởng nhanh của một nền kinh tế không đi kèm với những chuyển biến về chất thì nguy cơ gánh nặng nợ nần trong tương lai sẽ trở thành hiện thực.
Trong con mắt các nhà tài trợ, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 của Việt Nam là một chiến lược đáng tin cậy và bền vững về mặt tái chính nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo trong 5 năm tới. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị CG 2006 cho rằng, đây là kim chỉ nam cho các hoạt động hỗ trợ của các nhà tài trợ tại Việt Nam và khẳng định những mục tiêu đầy tham vọng nhưng có thể đạt được. Tuy nhiên, các nhà tài trợ khuyến cáo Chính phủ Việt Nam phải xác định được những mục tiêu ưu tiên trong thời gian tới mới có thể thành công. Ngoài ra, cần chú trọng đến chất lượng tăng trưởng chứ không phải chạy theo tốc độ. Hiện nay, Việt Nam đã có tiến bộ vượt bậc khi đưa vào áp dụng các nguyên tắc kinh tế thị trường, giảm nghèo và cải thiện các chỉ số xã hội về y tế, dinh dưỡng, xóa mù chữ,người dân được sử dụng các cơ sở hạ tầng cơ bản và vấn đề là làm sao để duy trì lâu đài các thành tựu này. Trong thời gian tới, Việt Nam cần có chính sách cụ thể nhằm tăng hiệu quả phân bổ các nguồn lực; Xây dựng hành lang pháp lý và quy định cho nền kinh tế thị trường; Chú trọng các chính sách nhằm mang lại hiệu quả cao nhất từ các hoạt động phát triển như giảm nghèo; Đây mạnh tính minh bạch, công khai, dân chủ
Ba là, quy trình và thủ tục nội bộ của Việt Nam đối với việc quản lý và sử dụng ODA còn phức tạp, thiếu rõ ràng gây trở ngại nhiều cho nhà đầu tư khi chuẩn bị và thực hiện dự án. Những thủ tục rườm rà, mất thời gian đã làm cho nhiều nhà đầu tư không muốn đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta vừa trải qua nền kinh tế bao cấp, quan liêu nên những tư tưởng này còn tồn tại nhiều trong tâm lý các nhà lãnh đạo không phải dễ dàng mà thay đổi ngay trong một sớm một chiều.
Bốn là, một số quy định của Việt Nam và của nhà tài trợ chưa hài hòa, thống nhất với nhau nhất là trong quá trình đấu thầu, tiến hành di dân và giải phóng mặt bằng. Những điều kiện của cả hai bên thường khó thống nhất với nhau, việc thỏa thuận lại mất rất nhiều thời gian. Điều này đã gây cản trở không nhỏ đối với việc thực hiện dự án, kéo dài thời gian gây bất lợi với cả hai bên.
Năm là, năng lực quản lý và tổ chức thực hiện dự án, nhất là ở cấp địa phương còn yếu kém. Những yếu kém này bộc lộ rõ trong quá trình phê duyệt dự án khi các cấp địa phương chưa đủ khả năng để xử lý những vấn đề gặp phải khi phê duyệt, thực hiện và quản lý dự án. Khả năng quản lý dự án kém, quy trình phức tạp, qua nhiều cửa đã gây ra lãng phí về thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư. Chính những yếu kém này đã gây ra tâm lý lo lắng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam.
( Nguồn: Tạp chí Kinh tế và dự báo- tháng 2 -2008)
VI. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Thời kỳ 2006 – 2010:
Trong thời kỳ 2006 - 2010, chủ trương thu hút và sử dụng ODA là tiếp tục tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả.
Để thực hiện chủ trương và chính sách sử dụng ODA nêu trên, các lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn này là:
a) Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoá đói, giảm nghèo;
b) Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại;
c) Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số phát triển và một số lĩnh vực khác);
d) Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
đ) Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu sử dụng ODA theo ngành, lĩnh vực:
Ngành, lĩnh vực
Cơ cấu ODA
thực hiện 2001 - 2005
Dự kiến
cơ cấu ODA
ký kết
2006 - 2010
Tổng ODA ký kết
(Tỷ USD)
Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói, giảm nghèo
21%
21%
4,27 - 4,98
Năng lượng và công nghiệp
17%
15%
3,05 - 3,56
Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị
32%
33%
6,72 - 7,84
Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế, tăng cường năng lực)
30%
31%
6,31 - 7,37
Tổng
100%
100%
20,35 - 23,75
So với thời kỳ 2001- 2005, chính sách phân bổ nguồn vốn ODA trong thời kỳ 2006 - 2010 sẽ tiếp tục duy trì tỷ trọng ODA ở mức cao (21%) để hỗ trợ phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xoá đói, giảm nghèo; tập trung sử dụng vốn ODA vay ưu đãi (15%) để hỗ trợ phát triển hệ thống lưới điện và các trạm phân phối; tăng tỷ trọng vốn ODA (33%) cho phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và phát triển hạ tầng đô thị. Các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học và công nghệ và các ngành khác tiếp tục giữ tỷ trọng vốn ODA cao (31%).
2. Thời kỳ sau năm 2010:
Theo thông lệ tài trợ quốc tế, một nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD) sẽ ít được hưởng vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao.
Theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1.050 USD. Do vậy, tỷ trọng nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi cao trong tổng vốn ODA thời kỳ sau năm 2010 sẽ giảm xuống, đồng thời vốn vay ODA có điều kiện gần với điều kiện vốn vay thương mại có thể sẽ tăng lên.
Trong thời kỳ 2006 - 2010, cần triển khai công tác nghiên cứu việc sử dụng các khoản vay mới có điều kiện kém ưu đãi hơn từ nguồn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), nguồn Tín dụng thông thường (OCR) của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nguồn Tài trợ chính thức khác (OOF) của Nhật Bản, nguồn Vốn vay có bảo lãnh 3 (PS 3) của Pháp, vay phát triển của Đức nhằm chuẩn bị các điều kiện thu hút và sử dụng có hiệu quả những nguồn vốn này trong thời kỳ sau năm 2010 như mở rộng các đối tượng thụ hưởng ODA kể cả các thành phần kinh tế tư nhân; điều chỉnh hướng sử dụng vốn ODA, tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực ưu tiên có khả năng thu hồi vốn nhanh và bảo đảm trả nợ vốn vay một cách bền vững.
( Nguồn: http:// www.mof.gov.vn)
VII: NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ:
Nguyên nhân dến từ cả hai phiá: Việt Nam và nhà đầu tư.
1. Việt Nam:
Thứ nhất, chưa nhận thức được đúng đắn và đầy đủ về bản chất của ODA. Việt Nam đã có một thời gian dài làm việc theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và điều này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy về mọi khía cạnh đời sống kinh tế - xã hội. Hiện nay, tư duy bao cấp này, dù ít dù nhiều, vẫn còn tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn ODA. Người thụ hưởng ở nhiều nơi có nhận thức chưa đúng về nguồn vốn này, coi đó là thứ “của trời cho”, là “của chính phủ bao cấp và chính phủ trả nợ”. Từ quan niệm sai lầm đó, các cơ quan, tổ chức ở những nơi đó sẽ ra sức “tranh thủ” nguồn vốn ODA mà không tính toán đến hiệu quả kinh tế, tính bền vững của dự án cũng như khả năng trả nợ. Cũng do nhận thức trên nên một số dự án hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại không đạt được kết quả như mong muốn. Thông thường, bên nhận chỉ chú trọng đến lượng vốn mà ít chú ý đến đầu ra, đến hiệu quả kinh tế - xã hội, cũng như việc tranh thủ tiếp thu, học tập kinh nghiệm, kỹ năng quản lý từ phía nước ngoài. Hậu quả từ quá trình đó là có nhiều dự án chống chéo lên nhau về nội dung, kém hiệu quả gây lãng phí về thời gian và tiền bạc.
Cuộc thăm dò ý kiến tại 24 cơ quan chủ quản và quản lý vốn ODA do Chương trình Nâng cao năng lực toàn diện về quản lý ODA tại Việt Nam thực hiện cho kết quả rất đáng suy nghĩ về sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn này. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA theo cam kết Hà Nội là “phải quản lý dựa vào kết quả”, nhưng đó lại là một trong ba nội dung ít được tán đồng nhất. Theo kết quả thăm dò ý kiến thì chỉ có 70.2% số người được hỏi tán thành quan điểm phải quản lý sử dụng ODA dựa trên kết quả. Số còn lại không đồng ý hoặc không trả lời. Ngoài ra kết quả thăm dò ý kiến còn cho thấy mơ hồ của nhiều chuyên viên và cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý vốn đầu tư theo nội dung này.
Mặt khác, do phải chịu sức ép về thiếu vốn nên chúng ta dễ dàng chấp nhận sử dụng vốn vay nước ngoài cho bất kỳ mục tiêu nào, miễn là nằm trong phạm vi ưu tiên rộng là được. Đây chính là nguyên nhân trong nhiều trường hợp ta đánh mất quyền làm chủ hoặc không phát huy được quyền này, dẫn tới tình trạng có khá nhiều trường hợp hiệu quả sử dụng vốn này không cao.
Thứ hai, chậm cụ thể hóa chủ trương chính sách và định hướng thu hút, sử dụng ODA. Mặc dù đã có chủ trương chính sách và những định hướng về thu hút và sử dụng vốn ODA chung của Nhà nước, nhưng một số bộ, ngành và địa phương còn chậm triển khai thành các chương trình và dự án cụ thể, do đó thường bị động và chưa phát huy hết vai trò làm chủ trong hợp tác với các nhà tài trợ. Các cơ quan QLNN chưa đề ra được chiến lược vận động thu hút ODA một cách toàn diện có mục tiêu, trọng điểm rõ rang nhằm giải quyết những khâu trọng yếu, mang tính đột phá, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế đồng thời tạo ra được nguồn thu ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Công tác quy hoạch thu hút và sử dụng ODA còn rất nhiều hạn chế, vì vậy thiếu tính chủ động trong việc định hướng các nhà tài trợ và các cơ quan tiếp nhận tại Việt Nam vào các lĩnh vực và các vùng cần tập trung ưu tiên ODA. Một số dự án còn phụ thuộc hoàn toàn vào ý đồ sắp đặt của bên cung cấp ODA. Cũng vì quy hoạch chưa tốt nên vốn đối ứng thường không đảm bảo được yêu cầu của các dự án (thông thường phải có từ 20-30% vốn trong nước để thực hiện dự án). Đây là nguyên nhân làm cho Việt Nam bị động trong quá trình thảo luận về thiêt kế dự án với các nhà tài trợ, dẫn đến tình trạng đầu tư không đồng bộ, vượt quá nhu cầu hoặc khả năng khai thác của đơn vị thụ hưởng. Việc vận động vốn ODA chưa tính đến chiến lược vay và trả nợ quốc gia trong khi các khoản nợ phát sinh trên các khoản vay ODA ngày càng tăng( như đã phân tích ngắn và dài hạn chưa gắn kết chặt chẽ với chiến lược huy động vốn vay ODA)
Thứ ba, khung pháp lý về chế độ quản lý và sử dụng ODA còn bất cập. Giữa các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng vốn ODA và các văn bản pháp quy chi phối nguồn vốn này còn thiếu sự đồng bộ. Việc quản lý và sử dụng ODA phải tuân thủ Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006, song vẫn phải chịu sự chi phối của nhiều văn bản pháp quy khác với các nội dung chưa nhất quán như các công trình về quản lý đầu tư xây dựng công trình đấu thầu,gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện nguồn vốn ODA.
Quy trình và thủ tục ODA trong nước cũng như quy định của một số nhà tài trọa còn phức tạp, kém linh hoạt. Chẳng hạn, ở một số trường hợp, trong cùng một dự án nhưng phải lập đến hai báo cáo nghiên cứu khả thi, một để nộp cho Chính phủ Việt Nam để xem xét phê duyệt, còn nhà tài trợ thì xem xét phê duyệt một bản khác. Cách làm trên làm gia tăng chi phí chuẩn bị dự án lên gấp đôi. Đồng thời, nó còn kéo dài thời gian chuẩn bị đầu tư, do phải chờ cả hai phía xem xét, phê chuẩn, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư và tiến độ giải ngân. Các quy trình thủ tục quản lý ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài hòa, gây chậm trễ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án, làm giảm hiệu quả đầu tư và tăng chi phí giao dịch.
Sự không hài hòa, hay nói cách khác là sự chồng chéo trong các thủ tục chuẩn bị đầu tư và triển khai cũng ảnh hưởng không ít đến hiệu quả sử dụng vốn ODA. Theo bộ tài chính, chỉ co 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ thống quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại là theo cách thức của các nhà tài trợ. Tỷ lệ thực hiện các báo cáo đánh giá tác động về môi trường và xã hội theo quy định của Việt Nam lần lượt là 9% và 0.4%.
Thứ tư, tổ chức quản lý ODA, năng lực đội ngũ cán bộ còn yếu kém. Cơ cấu tổ chức và phân cấp trong công tác quản lý và sử dụng ODA chưa đáp ứng được những yêu cầu của quá trình đổi mới quản lý nguồn lực công. Cơ cấu tổ chức quản lý, điều phối và sử dụng ODA ở các cấp chưa được xây dựng thống nhất cả ở Trung ương, địa phương và cơ sở. Bộ máy quản lý dự án, trong nhiều trường hợp phân tán ở nhiều cơ quan và phải chịu sự quản lý của nhiều cơ quan và phải chịu sự chi phối của nhiều cơ quan QLNN, trong khi giữa các cơ quan này có sự phân công phân cấp rõ rang, chức năng nhiệm vụ còn chồng chéo. Tổ chức và quy chế hoạt động của các ban quản lý chương trình, dự án ODA chưa chặt chẽ. Hiện nay, vẫn chưa có mô hình chuẩn về các ban quản lý chương trình, dự án ODA với chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn được xác đinh cụ thể.
Quản lý dự án vốn vay nước ngoài chỉ được chú trọng trong thời gian xây dựng dự án, thi công và giải ngân vốn vay. Việc quản lý trong quá trình hoạt động như hiệu quả của dự án, thu hồi vốn, lãi lại chưa được chú trọng; công tác thẩm định các dự án sử dụng vốn vay ODA chưa được quan tâm đúng mức, còn sơ sài và chưa thực sự tính toán chặt chẽ đến hiệu quả kinh tế, do đó một số dự án gặp khó khăn trong việc hoàn trả vốn vay. Bên cạnh đó việc lập kế hoạch phân bổ cho dự án chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế do không thực hiện đúng chu trình dự án, nhiều hiệp định đã ký kết nhưng mới chỉ có tên dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi, chưa hoàn thành thủ tục phê duyệt dự án đầu tư. Khi xây dựng báo cáo nghiên cứu khả thi đã không xác định rõ mục tiêu đầu tư, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu dẫn tới việc nhập khẩu thiết bị máy móc hoặc thiếu đồng bộ, hoặc chưa có đủ điều kiện, nên công suất phát huy thấp
Một điều đáng nói là giữa năng lực cán bộ tham gia quản lý và thực hiện các chương trình và dự án ODA còn yếu về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hợp tác quốc tế, nhất là về ngoại ngữ. Mặc dù được quan tâm tạo điều kiện và được đặc biệt ưu tiên đào tạo, nhưng một bộ phận cán bộ quản lý dự án vẫn còn nhiều mặt bất cập: thiếu sự hiểu biết về các chính sách thủ tục của các nhà tài trợ, thiếu năng lực gắn kết, vận dụng và thuyết phục các nhà tài trợ chấp nhận đề xuất hợp lý cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Do vậy, dẫn đến việc chuẩn bị nội dung dự án không ký, gây lung túng cho việc thực hiện, triển khai dự án. Đây là nguyên nhân làm cho việc giám sát dự án nhiều lúc còn bị buông lỏng.
Thứ năm, công tác theo dõi và đánh giá ODA còn hạn chế. Công tác theo dõi đánh giá các chương trình, dự án ODA, hoạt động của các ban quản lý dự án chưa được quan tâm đúng mức; chế độ báo cáo thanh quyết toán chính chưa được thực hiện nghiêm túc và thiếu các chế tài cần thiết. Suốt một thời gian dài, công tác theo dõi nguồn vốn ODA mới chỉ chủ yếu tập trung vào báo cáo khai thác tiến độ tình hình thực hiện để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư nhằm giải ngân dự án; chỉ chú trọng nhiều trong khâu thu hút ODA chứ chưa chú ý thỏa đáng khâu thẩm định hiệu quả dự án, thiếu kiểm tra trong quá trình thực hiện dự án.
Nhiều cơ quan chủ quản ở cả Trung ương và địa phương chưa quản lý được các dự án của mình. Những quy định về báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án chưa được thực hiên nghiêm túc. Công tác giám sát quá trình thực hiện dự án ODA của các cán bộ quản lý ban ngành quản lý dự án, của tư vấn giám sát không hiệu quả do yếu kém về trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, thậm chí một số có tư cách đạo đức nghề nghiệp kém. Mặt khác, chất lượng của báo cáo của các ban quản lý chưa đảm bảo được yêu cầu và chưa sát với thực tế.
Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương còn thiếu sự quan tâm đúng mức đến công tác đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, không coi đó là nhiệm vụ thường xuyên và phải đưa vào công tác hàng năm. Trong khi đó tính đồng bộ các khâu cũng chưa được đảm bảo, khâu đánh giá hiệu quả các chương trình dự án ODA ở các giai đoạn vận hành đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức, thiếu các văn bản pháp quy để các cấp, các ngành có thẩm quyền thực hiện.
Chưa có cơ chế, chế tài xử lý và chế độ khen thưởng cụ thể đối với các ban quản lý dự án và các cơ quan QLNN tham gia theo dõi, kiểm soát thực hiện đúng quy trình về thời gian và đảm bảo chất lượng của các báo cáo. Vì vậy, tình trạng vi phạm chế độ báo cáo còn xảy ra phổ biến, làm ách tắc thông tin phản hồi; mặt khác cũng chưa đưa ra được cơ chế kiểm soát trực tiếp, thẩm định lại chất lượng của các bản báo cáo cũng như cơ chế vận hành hệ thống thông tin trực tiếp từ cơ sở(từ các dự án đang thực hiện, đang vận hành và khai thác) tới các cơ quan QLNN về ODA.
( Nguồn: Trang 51- 53- Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế xã hội-9-2007)
2. Các nhà đầu tư:
Thứ nhất, thủ tục liên quan đến ODA do các nhà tài trợ đưa ra phức tạp và không thống nhất với nhau gây khó khăn cho các nước tiếp nhận. Hiện nay ngoài 22 nước thuộc OECD thực hiện tài trợ song phương, còn có các tổ chức quốc tế và hàng nghìn tổ chức phi chính phủ cũng tham gia vào hoạt động ODA. Mỗi nhà tài trợ này thường xây dựng một cơ chế tiếp nhận, sử dụng ODA riêng. Nước tiếp nhận ODA cần phải đáp ứng cùng một lúc các yêu cầu, thủ tục của nhiều nhà tài trợ. Đây là vấn đề khó khăn với các nước nghèo trong bối cảnh điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ còn hạn chế
Thứ hai, mức độ ưu đãi của ODA nhiều khi bị triệt tiêu bởi các điều kiện ràng buộc của nhà đầu tư đặt ra. ODA được coi là khoản tài trợ có ưu đãi ( hơn so với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị trường) do có yếu tố không hoàn lại hay còn được gọi là thành tố hỗ trợ. Thành tố hỗ trợ của từng khoản ODA được xác định dựa trên các yếu tố : thời gian vay, thời gian ân hạn (thời gian không phải trả vốn gốc) và lãi suất cho vay, sao cho tổng thành tố hỗ trợ trong một khoản ODA theo yêu cầu của OECD phải không thấp hơn 25%. Tuy nhiên yếu tố không hoàn lại mới chỉ phản ánh mức độ danh nghĩa. Trên thực tế, rất có thể khoản ODA trở thành khoản vay đắt đỏ do những ràng buộn mà các nhà tài trợ đặt ra. Hầu hết các khoản ODA song phương đều được kèm theo các điều khoản phải mua hàng hóa hay dịch vụ, thuê chuyên gia tư vấn.. với giá rất cao của các nhà tài trợ. Cụ thể Bỉ, Đức, Đan Mạch yêu cầu các nước nhận tài trợ yêu cầu các nước nhận tài trợ phải mua 50% hàng hóa của mình, Canada yêu cầu cao hơn với tỷ lệ 65%. Mức trung bình của các nước OECD là 22%. Một số các nước ODA còn yêu cầu dự án ODA phải do các công ty của nước mình thực hiện ( điển hình là Nhật Bản). Những điều kiện ràng buộc kiểu như vậy đã làm giảm tính ưu đãi của ODA. Nhiều khoản viện trợ - nếu cân nhắc tính toán kỹ- có thể nghĩa vụ trả nợ còn cao hơn vay thương mại, nhưng các nước nghèo vẫn phải tiếp nhận, một phần vì nền kinh tế dã phụ thuộc vào viện trợ, một phần vì dự án ODA khi được triển khai đem lại nhiều lợi ích cho các nhà lãnh đạo.
Thứ ba, ODA nhiều khi được thực hiện theo ý tưởng của các nhà tài trợ chứ không phải chỉ là mong muốn của người nhận. Ngân hàng Thế giới cho rằng ODA thực sự phát huy hiệu quả một khi nó có thể đáp ứng được nhu cầu của các nước tiếp nhận, các nước nghèo phải phát huy được tính chủ động trong thu hút và sử dụng ODA. Tuy nhiên do năng lực yếu kém của các nước ODA, đặc biệt là ODA dành cho hỗ trợ kỹ thuật, được các nhà tài trợ thiết kế và trực tiếp quản lý.
Thứ tư, chính sách viện trợ của các nước giàu dành sự ưu tiên đặc biệt cho các nước nghèo, mà chưa quan tâm đến mức độ hấp thu ODA của các nước này. Chính sách ưu tiên viện trợ cho các nước nghèo thể hiện tính nhân đạo và mong muốn của cộng đồng quốc tế với sự phát triển của các nước này. Tuy nhiên ở đây xuất hiện một nghịch lý làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng ODA. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tiền đóng vai trò quan trọng trong hoạt động viện trợ nhưng không phải là tất cả. Để đạt được mục tiêu của viện trợ thì cần có sự kết hợp hài hòa giữa tiền của nhà tài trợ và thể chế của nước tiếp nhận. Một khoản viện trợ sẽ phát huy tác dụng nếu nước tiếp nhận có cơ chế sử dụng hiệu quả. Thời gian qua, do các nhà tài trợ quá đề cao mục tiêu viện trợ cho các nước nghèo và dành cho một lượng lớn ODA, trong khi theo đánh giá chung, các nước nghèo đa phần có thể chế yếu kém. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến cho các nước nghèo tuy nhận được nhiều viện trợ nhưng vẫn chưa thoát ra được cảnh đói nghèo như mong muốn của các nhà tài trợ và của chính các nước nghèo.
( Nguồn: Tạp chí Tài chính- 9-2007)
VIII. GIẢI PHÁP ĐẶT RA:
Thứ nhất, thay đổi nhận thức về quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài. Dưới góc độ QLNN. Nguồn gốc ODA là nguồn của ngân sách nhà nước. Nguồn vốn này phải được quản lý và sử dụng theo đung luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác về chi tiêu công. Nhận thức đúng như vậy mơi giúp chúng ta đổi mới tư duy về quản lý và sử dụng vốn ODA. Do đó, (i) cần phải nhận thức một cách đầy đủ về vốn ODA từ cấp trực tiếp sử dụng và cấp đàm phán ký kết vốn vay; (ii)kiên quyết loại bỏ các dự án chạy theo phong trào;(iii) coi nguồn vốn ODA là một chất xúc tác hay là vốn mồi;(iv) cần phát huy mạnh vai trò của cơ quan chủ quản;(v) cần nghiên cứu đưa toàn bộ nguồn vốn này vào ngân sách nhà nước, sau đó sẽ được cấp phát thanh toán ra cho dự án theo kế hoạch hang năm được giao, đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn vốn ODA theo Luật Ngân sách nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cường quản lý, huy động và sử dụng vốn vay nước ngoài. Tiến hành rà soát các quy định trong các văn bản pháp quy hiện hành để trên cơ sở đó nghiên cứu và trình Quốc hội xây dựng Luật hay Pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài của quốc gia nhằm nâng cao tính pháp lý và tính toàn diện trong công tác quản lý các khoản vay nợ và viện trợ nước ngoài. Nghiên cứu và sửa đổi một số nghị định có liên quan đến quản lý và sử dụng ODA, tạo sự hài hòa giữa thủ tục của phía các nhà tài trợ và phía Việt Nam. Tiến tới quản lý ODA dựa vào kết quả đầu ra. Kết quả của một chương trình, dự án ODA là nỗ lực đóng góp chung của nhà tài trợ cũng như bên thụ hưởng, do vậy quản lý vốn vay nước ngoài đầu tư phải hướng vào kết quả cuối cùng mà chương trình, dự án đó mang lại chứ không phải chỉ là đạt được những mục tiêu mà chương trình, dự án ODA đặt ra.
Thứ ba, xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sử dụng vốn vay nước ngoài. ODA là nguồn vốn lớn có vai trò quan trọng tới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cả trước mắt lẫn lâu dài. Bởi vậy việc huy động nguồn vốn này cần phải có chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn này cần phải đáp ứng được các nhu cầu như: (i)Xây dựng quy hoạch vận đọng và sử dụng vốn ODA phải phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với tính chất và xu hướng phát triển của nguồn vốn, thể hiện được mối quan hệ giữa các ngành, các vùng; phải gắn kế hoạch sử dụng nhằm thực hiện đúng mục tiêu phát triển và công bằng xã hội.(ii), Xây dựng hệ thống tiêu chí ưu tiên vận động và sử dụng ODA một cách thống nhất, từ đó xác định được nhu cầu về ODA cho giai đoạn mới trên cơ sở cân đối các nguồn vốn khác cũng như khả năng cung cấp của các nhà tài trợ và khả năng tiếp nhận của ngành. (iii) Xác định rõ mối tương quan giữa vốn ODA với các nguồn vốn khác
Song song với việc xây dựng chiến lược thu hút vốn ODA, cần phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn vốn này vì nó có vai trò rất quan trọng trong việc vận động, diều phối, sử dụng ODA. Quy hoạch, kế hoạch là cơ sở điều phối và sử dụng ODA nhưng cần phải liên tục cập nhật và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phối hợp chặt chẽ với vận động, sử dụng nguồn vốn ODA với các nguồn vốn khác.
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các đơn vị thụ hưởng nguồn vốn vay nước ngoài. Trong công tác quản lý vốn ODA, hệ thống quản lý điều phối viện trợ của Chính phủ bao gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Noại giao, Ngân hang nhà nước và Văn phòng chính phủ, trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư có vai trò làm đầu mối. Việc nâng cao sự phối hợp đồng bộ cho cơ chế quản lý thống nhất cho phép tăng cường và phát huy hiệu quả các nguồn lực, tránh tình trạng lãng phí do trùng lắp trong quá trình sử dụng vốn viên trợ, tạo cơ chế phối hợp thuận lợi và có hiệu quả trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA.
Thứ năm, nâng cao năng lực cán bộ quản lý nguồn vốn vay nước ngoài. Quản lý dự án nói chung, dự án vốn vay nước ngoài nói riêng là một kỹ năng chuyên biệt, do đó, để đảm bảo cho việc nâng cao năng lực quản lý vốn vay nước ngoài, cần chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý dự án. Điều này có thể được triển khai trên cơ sở coi quản lý vốn dự án nước ngoài như một nghề nghiệp chuyên môn cần được cấp chứng chỉ, đưa quản lý dự án thành một môn học trong trường bên cạnh việc tổ chức các khóa học ngắn hạn về các kỹ năng quản lý dự án để dần dần xây dựng đội ngũ quản lý dự án chính quy lành nghề. Đây cũng là một hình thức nhằm tiết kiệm nguồn lực cho xã hội, tránh tình trạng mỗi một tổ chức khi thực thi một dự án lại phải hình thành một bộ máy riêng, giải tán nó khi kết thúc dự án và không có một cơ chế nào để tận dụng các kinh nghiệm về quản lý dự án trước đó.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm toán việc sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài. Các cơ quan thanh tra kiểm tra tài chính và kiểm toán nhà nước cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đói chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự án lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm hình sự đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận khối lượng thanh toán không trung thực, không đúng quy định; khắc phục những vi phạm trong công tác xác nhận khối lượng thanh toán để làm căn cứ kiểm soát chi và giải ngân vốn ODA, vốn đối ứng cho dự án ODA.
Mặt khác, Chính phủ cùng với các cơ quan chức năng cũng như tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế, sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sự dụng ODA, bao gồm cả tiêu chuản định tính và định lượng. Đây là cơ sở cần thiết để tăng cường kiểm tra giám sát tiến trình thực hiện dự án ODA và là căn cứ để xem xét quyết định cho phép thực hiện dự án đầu tư. Từ đó, Chính phủ có thể từ chối những dự án đề xuất từ phía nhà tài trợ nếu xét thấy dự án không hiệu quả và thiếu tính bền vững.
( Nguồn: Trang 53-55- Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế xã hội-9-2007)
KẾT HỢP ODA VÀ FDI:
ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quý giá đối với các nước đang phát triển. Nhưng hiệu qủa sử dụng hai nguồn tài lực này phụ thuộc nhiều vào việc gắn kết chúng với nhau. Trong thời gian qua, công tác gắn kết hai nguồn lực này của Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện cụ thể là Nhà nước thiếu định hướng kết hợp trong chính sách huy động chúng, công tác sử dụng còn thiếu đồng bộ, và đặc biệt tính hiệu qủa của việc vay và trả nợ vốn ODA chưa được đề cao. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng hai nguồn vốn này, nhà nước cần có chính sách kết hợp sử dụng hài hòa hai nguồn vốn này, để chúng bổ sung cho nhau, và cộng hưởng với nhau thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm và đang phát triển. Tuy nhiên, không có nghĩa là nhịp độ phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn tỷ lệ thuận với khối lượng ODA và FDI mà quốc gia đó thu hút được. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ chúng được sử dụng như thế nào. Lý thuyết cũng như thực tiễn chứng minh rằng vốn ODA và FDI sẽ phát huy tối đa sức mạnh nếu như chúng được sử dụng kết hợp và bổ trợ lẫn nhau. Bỡi lẽ, các dự án FDI chỉ có thể được triển khai hiệu qủa trên cơ sở có môi trường cần thiết cho việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, như cơ sở pháp lý, mặt bằng sản xuất, mạng lưới giao thông... Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng cần phải có những yếu tố làm “đầu vào” và các yếu tố đảm bảo “đầu ra” cho quá tình sản xuất, như năng lượng, nước, dịch vụ về tín dụng, thanh toán... Nhà đầu tư nước ngoài hầu như không tự mang đến hoặc nhập khẩu được mà chủ yếu nhờ vào sự cung ứng của nước nhận vốn. Bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là muốn thu hút được nhiều vón FDI cần phải đáp ứng được những yếu tố tối cần thiết như trên trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém và nguồn nội lực đầu tư để cải thiện và xây dựng mới rất khan hiếm. Vấn đề chỉ có lời giải khi các quốc gia đang phát triển biết cách khai thác các nguồn lực tài chính bên ngoài, trong đó có vốn ODA. Vốn ODA, với đặc tính là khoản tài trợ có thời gian vay dài, lãi suất thấp hơn nhiều so với vốn vay thương mại, sẽ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn để tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn của các nước đang phát triển. Ngược lại, các dự án FDI hoạt động có hiệu quả, hoạt động xuất khẩu được thúc đẩy, sẽ là nguồn cung ngoại tệ chủ yếu trang trải những khoản ODA đến hạn. Chính vì thế, việc kết hợp sử dụng hai nguồn tài lực này cần thiết được đặt ra, và là yêu cầu đối với các nước đang phát triển.
Việt Nam thực hiện mở cửa kêu gọi các nhà đầu tư quốc tế dưới hình thức FDI kể từ năm 1987, và nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF, ADB...) cũng như với các nước phát triển nhằm kêu gọi vốn ODA từ năm 1993. Kể từ đó đến nay, chúng ta đã thu hút được hơn 45 tỷ USD vốn FDI cam kết và 26 tỷ vốn ODA. Hai nguồn lực này trong thời gian qua đã giữ một vị trí không nhỏ và đang ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong nền kinh tế quóc dân, đóng góp một cách toàn diện vào làm tăng trưởgn GDP, tăng nhanh xuất khẩu, tăng thu ngân sách nhà nước, và cải thiện đời sống của nhân dân. Thậm chí, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã được chính thức thừa nhận là một thành phần kinh tế kể từ năm 2001. Đạt được những thành tựu đó, một phần là do hai nguồn vốn này đã được sử dụng kết hợp tương đối hài hòa với nhau. Cụ thể biểu hiện trên một số giác độ sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, một tỷ trọng lớn vốn ODA (khoang rhơn 50%) đã được ưu tiên đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (xem bảng 1). Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước.. nhờ vốn ODA đã phục hồi, mở rộng và nâng cấp, tạo một bước mới về chất. Từ đó, chúng không những góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội Việt Nam phát triển mà còn trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút nguồn vốn FDI.
Thứ hai, khu vực kinh tế FDI có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu, khu vực kinh tế này chủ yếu thực hiện chiến lược “thay thế nhập khẩu” với các sản phẩm sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường nội địa. Nhưng những năm gần đây, có sự chuyển hướng khá tốt sang xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị tài sản tăng nhanh, đến nay đã chiếm gần 54% (Xem bảng 2). Đồng thời các doanh nghiệp FDI góp phần tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của cả nước. Đây là dấu hiệu tốt, đúng hướng của khu vực kinht ế FDI, cũng là nguồn đảm bảo cho việc thanh toán và trả các khoản nợ nước ngoài của quốc gia khi đáo hạn, trong đó có vốn ODA.
Bảng 1: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký
Đơn vị: Triệu USD
Ngành
Tỷ lệ (%)
1. Năng lượng điện
27,2
2. Giao thông vận tải
26,8
3. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu
14,2
4. Nông gnhiệp
10,2
5. Cấp thoát nước
7,1
6. Lĩnh vực xã hội
6,8
7. Các ngành khác
7,8
Tổng cộng
100
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính
Thứ ba, ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vốn ODA cũng được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế... Các dự án sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực này góp phần đào tạo đội ngũ lao động trong tương lai có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững và là một yếu tố vô cùng quan trọng cho khu vực kinh tế FDI với các dự án đòi hỏi lao động có trình độ cao. Đây cũng là kinh nghiệm sử dụng hiệu quả vốn ODA mà một số nước đã làm.
Thứ tư, cộng đồng quốc tế đã có nhiều đánh giá khá tích cực về công tác quản lý và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam. Triển vọng vay ODA của Việt Nam trong thời gian tới là khá thuận lợi. Điều này cũng đã tạo dựng được lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế về khả năng phát triển của kinht ế Việt Nam, giúp các nhà đầu tư vững tâm hơn khi xác định mục tiêu kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác sử dụng kết hợp hai nguồn ngoại lực này trong thực tiễn triển khai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau.
Một là, thiếu định hướng rõ ràng trong việc kết hợp hai nguồn vốn. Sự kết hợp hai nguồn vốn trên chủ yếu vẫn mang tính tự phát, chưa trở thành nhận thức nhất quán của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng và các cán bộ chuyên trách, để từ đó đề ra chủ trương và chính sách hợp lý nhất trong thu hút và sử dụng chúng. Bằng chứng là, hiện nay chưa hề có văn bản pháp luật nào đề cập đến sự cần thiết phải kết hợp hai nguồn vốn này. Đồng thời các bộ phận quản lý ODA và FDI còn hoạt động khá độc lập với nhau. Có nghĩa là, công tác vận động ODA được tiến hành độc lập với thu hút và sử dụng vốn FDI.
Hai là, nhiều địa phương không thu hút hoặc thu hút được ít vốn FDI do cơ sở hạ tầng, yếu kém. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là hạn chế sự phát triển mất cân đối giữa các vùng, miền. Chính vì thế, trong công tác thu hút vốn FDI, Chính phủ đã có chủ trương hướng các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vào các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi của Chính phủ chưa phát huy được tính năng tác dụng như mong muốn. Vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ bé, chưa đầy 8% tổng vốn FDI. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thu hút được ít dự án FDI, thậm chí một số tỉnh miền núi hiện nay chưa có dự án đầu tư nước ngoài triển khai. Thực tế này tồn tại, theo các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn quá khó khăn, không đảm bảo cho các nhà đầu tư tạo lợi nhuận. Hơn bao giờ hết, vốn ODA cần được ưu tiên để cải thiện môi trường kinh tế xã hội của các vùng, miền này. Các công trình xây dựng bằng vốn ODA sẽ là chất “xúc tác” vừa có tác dụng trước mắt, vừa tạo sơ sở lâu dài để thu hút các nhà đầu tư quốc tế nhằm khai thác tiềm năng sẵn có của các địa phương này, vì mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, cơ cấu sử dụng vốn ODA mặc dù đã dành nhiều cho giáo dục, đào tạo nhưng vẫn chưa đủ, hiệu qủa sử dụng chưa cao. Kết quả là chúng ta vẫn thiếu nhiều lao động có trình độ.
Bảng 2: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng kim ngạch cả nước
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1995 – 2000
2001
2002
2003
2004
Cả nước
57.161
15.027
16.500
19.980
26.003
DN FDI
10743
3.560
4.500
10.000
14.267
Tỷ lệ %
18,8
23,7
27,3
50,0
54,8
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Thương mại
Bốn là, chúng ta đã thực hiện vay vốn ODA của các tổ chức tài chính quốc tế hơn một thập kỷ qua, lượng vốn vay cam kết đã lên đến con số 25 tỷ USD nhưng công tác đánh giá, đúc rút kinh nghiệm sử dụng vốn ODA vẫn chưa được tiến hành một cách tổng thể. Việc đo lường hiệu qủa sử dụng vốn ODA và xác định nguồn trả nợ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này thực đáng lo ngại đối với Việt Nam khi mà thời gian trả nợ ODA đã bắt đầu.
Nguyên nhân của những bất cập trên đây có nhiều, cả về phía chủ quan và phía khách quan. Để tháo gỡ vấn đề, theo chúng tôi nên triển khai một số công tác sau:
Thứ nhất, cần sớm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước dài hạn.
Việc thiếu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đất nước một cách đồng bộ và dài hạn (khoảng 50 năm) trong thời gian gần đây đã được cấp, các ngành tổng kết báo cáo là một trong những nguyên nhân rất lớn gây khó khăn, cản trở trong phát triển nói chung, tạo ra những lãng phí trong sử dụng các nguồn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và FDI. Nhiều công trình sử dụng vốn ODA dỡ bỏ hoặc chậm trễ thi công vì nhiều nguyên nhân, nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phát huy hiệu quả thấp vì đồng bộ do chưa có quy hoạch...
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội còn ở tầm ngắn và trung hạn (dài nhất mới chỉ là 20 năm), các quy hoạch còn thếu đồng bộ. Theo chúng tôi, cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác xây dựng quy hoạch theo hướng tổng thể (trên phạm vi toàn quốc gia) và dài hạn. Sau khi bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tổng thể và dài hạn hoàn thành, Quốc hội nên công bố chúng bằng một đạo luật. Quy hoạch tổng thể sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn FDI.
Thứ hai, cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợplý, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Các chiến lược phát triển cụ thể là các bước đi cần thiết để đạt được mục tiêu tổng thể mà kế hoạch dài hạn đã vạch ra. Chiến lược phát triển có thể được thiết kế trong khoảng thời gian 5, 10 hay 20 năm phù hợp với từng ngành, vùng. Trong đó, chiến lược thu hút và sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI nên theo hướng: i) Nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước; ii) Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế với các khối lượng cần thiết, cụ thể; iii) Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế, trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược; iv) Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên và khuyến khích thu hút và sử dụng vốn tương đối ổn định trên nhiều giác độ như miễn giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất...; v) Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, tiếp tục ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo và y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Thứ tư, cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư.
Thứ năm, cần có biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam. Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo và kém phát triển, vốn ODA đa phương do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ sẽ giảm đi nhanh chóng. Do đó, cần có định hướng vận động ODA song phương ngay từ bây giờ, và nên hướng vào các nước có nhiều dự án FDI hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Cần có những giải pháp ưu đãi cho các dự án FDI của các nước tài trợ nhiều vốn ODA cho Việt Nam. Các chính sách này phải được sử dụng thật khéo léo, không để xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư quốc tế so bì về tính không công bằng trong chính sách đối Chính phủ Việt Nam.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 110, tháng 8/2006)
KẾT LUẬN
Ở Việt Nam hiện nay việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang được thực hiện dưới bốn hình thức cơ bản là viện trợ ODA, tín dụng thương mại, vốn đầu tư trực tiếp FDI, tín phiếu, trái phiếu, cổ phần, cổ phiếu trong đó FDI và ODA là hai nguồn quan trọng nhất . Đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đang là một bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và giúp đỡ các nước nghèo phát huy được những lợi thế cạnh tranh của mình để rút ngắn được thời gian phát triển hơn nữa. Trong điều kiện quốc tế hóa, toàn cầu hóa như hiện nay nhu cầu đầu tư đang trở nên vô cùng cần thiết trước cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng gia tăng. Nhất là đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang là một nhân tố quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển và tăng trưởng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giúp các nước nghèo có khả năng tập trung vào phát huy được các ngành thế mạnh của mình và kế thừa được thành tựu khoa học công nghệ của các nước đi trước. Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài cũng là một trong các chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng phát triển của một quốc gia cũng như tiềm năng của quốc gia đó trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả.
Đất nước ta tiến hành công cuộc CNH-HDH, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý kém, đất nước nghèo nàn lạc hậuĐảng và nhà nước ta đã đề ra được mục tiêu tổng quát là phải thoát ra được nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ổn định tình hình kinh tế xã hội, chính trị, phấn đấu đưa đất nước vượt qua được tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh Tất cả những mục tiêu trên nhằm tạo điều kiện cho đất nước phát triển hơn vào đầu thế kỷ IXX. Tuy nhiên để đạt được những mục tiêu trên không phải dễ dàng, nó đòi hỏi phải có nhiều biện pháp kết hợp để có thể nâng cao sức hấp dẫn và năng lực quản lý thực hiện dự án đầu tư từ đó đẩy mạnh khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đang đẩy mạnh khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và Việt Nam đang là một trong số đó. Cuộc vận động thu hút đầu tư nước ngoài đang là hoạt động mới tại Việt Nam và nó đang được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh rất gay gắt từ các nước khác trên thế giới do nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, nó vượt xa dòng vốn đầu tư hiện có.
Đầu tư nước ngoài không phải là nhân tố duy nhất quyết định đến công cuộc CNH- HDH của đất nước. Nó cần phải kết hợp với rất nhiều các yếu tố khác để phát triển được các nguồn lực của đất nước. Môi trường đầu tư, đó là tổng thể các yếu tố liên quan đến điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luậttạo nên những điều kiện thuận lợi và ưu thế cho các quốc gia thu hút một cách tốt nhất nguồn vốn bên ngoài.Tất cả các biện pháp hiện nay đang được nước ta thực hiện nhằm thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài như là luật đầu tư nước ngoài thông thoáng cởi mở, luật xuất nhập cảnh tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư đi lại, cư trú hành nghề và các chính sách ưu đãi khácQuốc gia nào có môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn, đặc biệt là khả năng sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả để đạt được các mục tiêu tăng trưởng sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn rất nhiều trong con mắt của các nhà đầu tư.
Tuy nhiên không phải có nhiều vốn đầu tư nước ngoài thì nước đó sẽ phát triển nhanh và tăng trưởng mạnh. Chỉ khi nào nguồn vốn được sử dụng và phát huy hết hiệu quả của nó thì nó mới có ý nghĩa thiết thực trong việc hỗ trợ phát triển của một đất nước. Vì vậy chúng ta cần phải nâng cao được năng lực quản lý dự án đầu tư cũng như hiệu quả sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất để có thể thu hút được nhiều hơn nữa vốn đầu tư để từ đó tập trung phát huy được tối đa sức mạnh của đất nước. Chúng ta phải triển khai nhiều hơn nữa các biện pháp nhằm nâng cao khả năng của đất nước trong cạnh tranh cũng như sử dụng nguồn vốn, đây cũng là một vấn đề được các cấp lãnh đạo quan tâm đến hiện nay.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, em rất mong được sự giúp đỡ của cô để có thể hoàn thành tiểu luận của em một cách hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô trong thời gian qua đã đóng góp cho em nhiều ý kiến bổ ích để em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luân của em.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7360.doc