MỤC LỤC
A.Lời nói đầu
B. Nội dung
I. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp nhà nước
1. Khái quát chung về vốn
2. Phân loại vốn
3. Vai trò của vốn với các doanh nghiệp nhà nước
II. Thực trạng huy động vốn và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
1. Đánh giá chung về doanh nghiệp nhà nước
2. Thực trạng huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
2.2. Tình hình sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
3. Kết quả đã đạt được và những tồn tại
3.1. Những kết quả đã đạt được
3.2. Những tồn tại
III. Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn ở các
doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
1. Những giải pháp nhằm tạo vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các
doanh nghiệp Nhà nước
C. Kết luận
B. Nội dung
I. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp Nhà nước:
1. Khái quát chung về vốn:
Từ trước đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm đều có cách tiếp cận riêng. Nhưng có thể nói với thực chất chính là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu trong các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là yếu tố không thể thiếu của hoạt động sản xuất kinh doanh, là điều kiện đầu tiên để tiến đến hoạt động kinh doanh.
2. Phân loại vốn:
Cách phân loại vốn phổ biến hiện nay là theo phương thức chu chuyển của vốn. Theo cách này người ta chia vốn thành: vốn cố định (VCĐ) và vốn lưu động (VLĐ): VCĐ là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định. Nó luân chuyển dần dần, từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. VCĐ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là với các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
VLĐ của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
3. Vai trò của vốn với các doanh nghiệp Nhà nước:
Như chúng ta đã biết bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh dù ở quy mô nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định, nó là cơ sở cho sự ra đời của các doanh nghiệp.
3.1. Về mặt pháp lý:
Pháp luật quy định: khi muốn thành lập một doanh nghiệp thì điều kiện đầu tiên và bắt buộc là doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn này được quy định tùy vào từng loại hình doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được xác lập có nghĩa là doanh nghiệp được công nhận sự tồn tại. Như vậy vốn là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự tồn tàI tư cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
3.2. Về mặt kinh tế:
Trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vốn không những dùng cho việc mua sắm máy móc, trang thiết bị công nghệ để phục vụ cho sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục. Vốn còn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp , có vốn thì các doanh nghiệp mới có thể mở rộng hoạt động sản xuất, thâm nhập thị trường mới, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Với tầm quan trọng to lớn của vốn như vậy, đến nay đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể huy động đủ nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp mình phát triển có hiệu quả.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1811 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hứng khoán. Tiến độ CPH chậm. kết quả thực hiện CPH mới đạt khoảng 80%, trong đó nhiều bộ ngành, địa phương đạt dưới 50%. Thời gian để CPH một DN trung bình mất 437 ngày, nhiều nơi là vài năm trong khi theo quy định chỉ là 9 tháng. Theo kế hoạch, cho tới cuối năm 2007, còn 1700 DN cần CPH, bằng gần 70% số đã thực hiện của cả giai đoạn 2000- 2005, đay thực sự là một bài toán cho các Bộ, ngành, và lời giải của bài toán này cũng chính là chìa khoá cho việc gia tăng hàng hoá trên thị trường chứng khoán.
Nhiều DN CPH khó có thể trở thành công ty đại chúng. Phần lớn DN được CPH là DN nhỏ (có đến 40% DN được CPH có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng). không những thế, tuy được CPH song phần vốn nắm giữ của nhà nước tại các DN này vẫn rất lớn. Kể cả với DN đang niêm yết trên TTGDCK TP HCM, tỷ lệ phần vốn nhà nước vẫn chiếm trung bình khoảng 30%. Mặt khác, có tới 38,4% số DN CPH không bán cổ phần ra bên ngoài. Cổ phần ít được chào bán ra bên ngoài là một cản trở để DN đến với TTCK
4. Thực trạng huy động từ trái phiếu
Nhiều người vẫn cho rằng, một doanh nghiệp tốt là một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ thấp. Điều này hiện không còn phù hợp nữa mà còn có thể nói là lạc hậu. Theo một số chuyên viên tài chính thì tỷ lệ nợ cao chưa hẳn là xấu mà còn thể hiện khả năng chiếm dụng vốn và nhất là uy tín của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vị thế càng cao càng dễ huy động. Việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quan trọng quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp PHTP.
Những thuận lợi
Tổng khối luợng vốn huy động góp phần đáp ứng một phần nhu cầu vốn; các đơn vị đã chủ động trong việc quyết định số lưọng, thời hạn phát hành và thời điểm phát hành; thủ tục nhanh gọn hơn so với vay ngân hàng đòi hỏi nhiều thủ tục, điều kiện và hạn chế khả năng cho vay; chi phí phát hành từ trái phiếu, cổ phiếu thấp hơn chi phí đi vay ngân hàng hay vay ECA. Các Dn có thể đưa ra những kế hoạch giải ngân, hay chủ động hơn trong phòng ngừa rủi ro vỡ nợ. Đó là những lợi cích mà khi PHTP mang lại cho DN .
Ta có thể lấy EVN là ví dụ: chi phí đợt phát hành EVNBOND0406 là 9,9%/năm lãi suất traí phiếu 9,6%/năm và chi phí phát hành là 0,3%/năm trong khi mức cho vay của các NHTMQD đối với dự án trung và dài hạn của EVN là 11,52% tiết kiệm hàng năm là 1,62%.
Trong tính toán lãi suất trái phiếu, việc sử dụng lãi suất của các ngân hàng quốc doanh làm tham chiếu vẫn đảm bảo cạnh tranh về giá và hấp dẫn nhà đầu tư, lãi suất trái phiếu EVNBOND 0406 là 9,6%/ năm bằng với mức lãi huy động cao nhất của khối ngân hàng là 9,6%/ năm do Sacombank công bố và cao hơn mức bình quân của khối ngân hàng thương mại cổ phần là 9,13%/năm.
EVN chủ động phòng ngừa rủi ro vỡ nợ cho phát hành bằng các kế hoạch sử dụng và trả nợ cụ thể. Dự án phát hành trái phiếu đưa ra kế hoạch giải ngân chi tiết phù hợp với tiến độ xây dựng công trình, tránh tình trạng thưa thiếu vốn do thiếu cân đối chi tiết.
Kế hoạch trả nợ được cân đối giữa nguyên tác tận dụng tối đa các gnuồn vốn tự do của EVN, hạn chế sử dụng các nguồn vay khác để trả nợ.
Hạn chế vẫn còn gặp phải của DN khi phát hành trái phiếu:
a/ Khả năng đáp ứng nhu cầu nguồn vốn còn chưa cao
Khối lượng vốn huy động từ phát hành trái phiếu còn nhỏ chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Riêng 2006 nguồn vốn đầu tư mà EVN chưa cân đối được là 7584 tỷ trong đó 2004 đợt phát hành trái phiếu tính đến 30/9/2006 huy động được 2006 tỷ đồng, mới đáp ứng được 34,28% giá trị vốn chưa cân đối được nguồn.
b/ Về tính chất sử dụng vốn:
Việc sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu mới chỉ bó hẹp trong phạm vi phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản mà chưa được sử dụng cho các mục đích khác như: cơ cấu khoản vay trung dài hạn, tăng quy mô vốn kinh doanh.Với EVN mới chỉ chú trọng phát hành trái phiếu có số năm huy động vốn cho các công trình xây dựng có thời gian 3-5 năm, còn đối với các công trình mà thờ gian xây lắp kéo dài > 10 năm Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Lai Châu đòi hỏi phải có sự phù hợp về thời gian vay nợ thì EVN chưa phát hành đợt trái phiếu dài hạn nào. Ngoài ra, trái phiếu của EVN trái phiếu của EVN phát hành không có khả năng chuyển đổi để đảm bảo cân đối tỷ lệ trên vốn
c/ Tính chủ động kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn chưa cao
Do nhiều DNNN vẫn tự phát hành trái phiếu nên thời gian huy động vốn tương đối lâu, tiến hành giải ngân vốn chậm. Hiện nay DN vẫn chưa có thói quen thuê tư vấn phát hành, chính vì thế việc thực hiện các thủ tục vẫn còn phức tạp, rườm rà
d/ Chi phí huy động được xây dựng chưa thật sự chính xác, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm trực quan
CPHĐ = CPPH+LSTP
Các DN tiết kiệm chi phí bằng cách giảm lãi suất trái phiếu .Nhưng hiện nay hiếm có những DN nào có một phương pháp khoa học để xác định lãi suất , ví dụ bằng các công cụ toán, bản thân lãi suất trái phiếu chưa đủ độ tin cậy để hình thành đường cong lãi suất chuẩn. Mà các DN buộc phải xác định lãi suất trái phiếu trên cơ sở lãi suất ngân hàng làm tham chiếu. Dựa trên khung lãi của ngân hàng( là đối thủ của DN trong huy động vốn từ xã hội ) để xây dựng lãi suất trái phiếu gây ra sự sai lệch và giảm tính cạnh tranh của trái phiếu, các ngân hàng có thể chấp nhận lãi ít và đột ngột thay đổi mức biên vào thời điểm phát hành thì khả năng hấp dẫn của trái phiếu chưa chắc đã còn.
Phát hành trái phiếu thông qua hình thức đấu thầu giúp hình thành lãi trái phiếu một cách khách quan . Nếu trái phiếu phát hành theo hình thức đấu giá, các DN chỉ cần xác định khung lãi suất tối đa có thể chấp nhận được, việc xác định lãi suất sẽ do nhà thầu quyết định trên cơ sở cung- cầu. Tuy nhiên phương thức lập giá này vẫn chưa được thực hiện rộng rãi.
e/ Khả năng chủ động hạn chế khả năng vỡ nợ chưa cao:
Việc lập kế hoạch sử dụng và trả nợ vẫn mang tính chủ quan, chưa hoàn toàn triệt để cần thiết phải có thong tin đánh giá khách quan của đơn vị độc lập về tình hình tài chính của các DN. Cho đến nay thì các DNNN vẫn chưa chủ động thuê tư vấn xếp hạng tín nhiệm trái phiếu. Chỉ có qua thông tin xếp hạng các DN mới thực sự có thể chủ động tiến hành các biện pháp ngăn ngừa rủi ro vỡ nợ
Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế
1/ Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất: Uy tín và quy mô của doanh nghiệp
Nhiều DN còn phát hành theo hình thức riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược
Ví dụ như EVN bán trái phiếu cho các ngân hàng quen biết, với uy tín lâu năm các tổ chức sẵn sàng mua hết số trái phiếu đã phát hành, tuy nhiên chỉ áp dụng với những đợt phát hành quy mô nhỏ, vì thế những dự án có thời gian thực hiện dài thì không đủ đáp ứng, chưa phát huy hết tên tuổi uy tín để phát hành trái phiếu rộng rãi ra công chúng
Thứ hai: Công ty tài chính chưa được hình thành
Các tập đoàn lớn thường phải hình thành những công ty tài chính làm nhiệm vụ chuyên trách huy động vốn, đó là đầu mối tập chuyên lo tạo nguồn, cân đối vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư. Nhưng hiện nay thì các doanh nghiệp vẫn chưa hình thành các công ty tài chính như thế.
Nguyên nhân là do thái độ nhận thức phát hành trái phiếu, hầu hết đều chỉ chú trọng cạnh tranh về lãi suất không chú trọng tới tính thanh khoản của trái phiếu bằng nghiệp vụ mua bán nợ có kỳ hạn trên thị trường chứng khoán (REPO), hoặc phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi, phát hành trái phiếu có khả năng thu hồi trước hạn,
Chưa nhận thức được vai trò của tổ chức trung gian tài chính làm nhiệm vụ tư vấn là các công ty chứng khoán: tổ chức này không chỉ cung cấp dịch vụ về bảo lãnh, đại lý, là nhà đầu tư mà còn là các tổ chức tư vấn hỗ trợ phát hành.
Nhiều DN còn tổ chức phát hành khép kín từ nghiên cứu thăm dò thị trường, tạo lập phương án phát hành, chuẩn bị và tổ chức phát hành nên hiệu quả còn chưa cao, thời gian phát hành còn dài, chi phí lớn, không chuyên nghiệp.
Thứ ba: Về năng lực sản xuất kinh doanh DN
Sản xuất kinh doanh có lãi là nơi hấp dẫn NĐT bỏ vốn cho vay .
Trong báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của EVN giai đoạn 03-05: là DN có tình hình tài chính lành mạnh, luôn bảo toàn và phát triển được vốn, tổng tài sản tăng bình quân 15%/ năm, doanh thu tăng bình quân 18,64%/năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) 4,1%, tỉ lệ nợ phải trả là 55% tổng tài sản được đánh giá là khá hợp lý, khả năng thanh toán nợ ngân hàng cao hơn hai lần.
Những chỉ tiêu này cho thấy EVN có thể thực hện tốt nghĩa vụ thanh toán đến khi đến hạn. Do đặc thù là sản xuất kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận của EVN trong thời gian vừa qua là chưa cao, nhưng kết quả sản xuất kinh doanh ổn định cho thấy là đầu tư vào ngành điện là đảm bảo có lãi và rủi ro thấp. Đây chính là lý do mà EVN chú trọng phát hành trái phiếu riêng lẻ cho các NĐT là các ngân hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài, có kiến thức về hoạt động sản xuất kinh doanh ngành điện.
Thứ tư: Kinh nghiệm phát hành trái phiếu
Phát hành trái phiếu trải qua nhiều giai đoạn như chuẩn bị, đăng kí, tổ chức phát hành và cuối cùng là giai đoạn tổng kết đúc rút kinh nghiệm, kinh nghiệm được tích luỹ qua nhiều lần phát hành,về cường độ phát hành, sự phức tạp trong phát hành.
Các đợt phat hành của EVN vừa qua đem lại cho EVN kinh nghiệm về phát hành riêng lẻ cho các nhà đầu tư có tổ chức, lãi suất trái phiếu thả nổi theo lãi suất thị trường. Đến nay EVN chưa có kinh nghiệm phát hành ra công chúng, chưa am hiểu về thủ tục đăng ký niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán
2/ Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất: Do hệ thống chính sách của Nhà nước
Luật pháp là môi trường kiến tạo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán đang dần được hoàn thiện. Luật chứng khoán có hiệu lực vào 1/1/07 thay cho nghị định 144, nghị định 52 thay cho nghị định 120 là một trong những bước kiện toàn như vậy.Hạn chế của nghị định 120 đã cản trở các DN nói chung và EVN nói riêng trong việc huy động vốn qua phat hành trái phiếu. Nghị định 52 ra đời khuyến khích tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phat hành trái phiếu trên cơ sở tự vay tự trả, nới lỏng sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào việc phát hành trái phiếu. Nhưng một trong những nguyên nhân khiến EVN không chủ động trong việc hạn chế rủi ro là do trong nghị định 52 chưa coi việc đánh giá xếp hạng trái phiếu là bắt buộc, chỉ mới thừa nhận việc tồn tại các tổ chức định mức tín nhiệm.
Thứ hai : Vấn dề về thị trường chứng khoán
Cho đến nay thì thị trường chứng khoán Việt nam mới chỉ được coi là đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, chưa phải là kênh huy động vốn quan trọng của DN. Nó thể hiện ở những vấn đề còn tồn tại hiện nay như quy mô nhỏ, hàng hoá còn nghèo nàn, chưa có các nhà tạo lập thị trường, cơ chế xây dựng lãi suất chưa hợp lý, chưa có hệ thống thông tin tiêu chuẩn.
Quy mô thị trường chứng khoán nhỏ chỉ chiếm khoảng 4-5%GDP trong khi đó Mỹ, Nhật Bản , EU chiếm tới 80%GDP hoặc ngay như các nước trong khu vực như Singaiore, Malaysia, Thai Lan thì thị trưòng này cũng phát triển mạnh hơn Việt Nam rất nhiều chiếm khoảng 30-40%. Hiện nay tổng mức hoạt động trên thị trường trái phiếu Việt Nam là khoảng70.000-80.000 tỷ mà trong đó chủ yếu là trái phiếu chính phủ ( 80% tổng giá trị).
Hàng hoá cung cho thị trường còn nghèo nàn. Đến nay mới chỉ có một số ít doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Vietcombank, BIDV, TCty Dầu khí ,TCty Công nghiệp tàu thuỷ, EVN TCty Sông đà…
Sự thiếu vắng những nhà tạo lập thị trường có tính chuyên nghiệp đã làm cho thị trường trở nên kém sôi động hơn. Hiện nay các nhà đầu tư mua trái phiếu với mục đích đầu tư dài hạn nên ít có nhu cầu bán lại trái phiếu, nhưng khi bán lại trái phiếu thì họ lại gặp phải khó khăn do thị trường không có nhà tạo lập thị trường sẵn sang mua lại trái phiếu với giá hợp lý.
Các nhà đầu tư lúng túng dè dặt khi quyết định đầu tư do thiếu thông tin minh bạch, chính xác về doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Một hệ thống thông tin theo kiểu chứng chỉ ISO hay chính là tổ chức định mức tín nhiệm sẽ giúp nhà đầu tư có được những quyết định đầu tư hợp lý và là một trong những tiền đề để nhà đầu tư phát hành trái phiếu trên thị trương quốc tế
Lãi suất trái phiếu tính toán dựa trên kinh nghiệm chưa có một phương pháp khoa học tính toán lãi suất bằng các công cụ toán. Ngoài nguyên tắc lãi suất thực dương thì DN còn dựa vào nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường
Một điều đáng nói nữa là thị trường trái phiếu chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn vì lãi suất chính phủ chưa hoàn toàn được hình thành trên nguyên tắc thị trường theo quan hệ cung- cầu, vì thế các thành viên trên thị trường gặp khó khăn trong nghiên cứu định giá trái phiếu
Thứ ba: thuộc về các nhà đầu tư
Phát hành theo hình thức riêng lẻ cho một số nhà đầu tư có tổ chức thì sẽ không mất nhiều thời gian, thủ tục nhu cầu vốn nhanh chóng được đáp ứng nhưng hạn chế là nguồn vốn huy động không đủ lớn.
Phát hành trái phiếu rộng rãi ra công chúng để khai thác hàng triệu nhà đầu tư nhỏ lẻ là một nguồn vốn rất tiềm năng của các DN nói chung và EVN nói riêng. Nhưng hiện nay do vấn đề thị trường còn chưa phát triển nên chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư bỏ tiền mua trái phiếu.
Thứ tư: Tổ chức trung gian tài chính
Hiện nay hệ thống công ty chứng khoán của ta còn yếu về năng lực, kinh nghiệm, quen phát hành trong nước mà không có kiến thức phát hành trên thị trường quốc tế, khả năng tài chính còn hạn chế nên năng lực bảo lãnh chỉ giới hạn, các đợt phát hành có khối lượng không lớn. Theo nghị định 144 để phát hành ra công chúng phải có bảo lãnh phát hành, nhưng với năng lực hạn chế của các công ty chứng khoán chưa cho phép EVN tiếp cận nguồn vốn từ công chúng.
Hạn chế nữa là hiện nay VN chưa có tổ chức độc lập cung cấp dịch vụ về định mức tín nhiệm. Đây là nguồn thông tin chính xác minh bạch về trái phiếu và doanh nghiệp phát hành thiếu vắng của tổ chức này khiến EVN thiếu đi một người cung cấp thông tin trung thực ra công chúng khi phát hành rộng rãi
Tình hình PHTP trong thời gian gần đây:
Năm 2006 EVN đã phát hành 6000 tỷ đ ồng tại thị trường trong nước và được giới quan sát trong và ngoài nước đánh giá rất cao về mức độ thành công. Năm 2008, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dự kiến phát hành từ 300 - 500 triệu USD trái phiếu ra thị trường quốc tế.Riêng đợt phát hành 1000 tỷ đồng gần đây nhất EVN đã chọn ABB làm đơn vị phát hành chính thức,ABB có trách nhiệm cao trong việc khai thác, tiếp cận thu hút vốn cho EVN, EVN đánh giá rất cao khả năng tư vấn khai thác nguồn vốn của ABB đặc biệt là nguồn vốn nước ngoài.Trái phiếu phát hành lần này được uư tiên chon nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, mặc dù TP được phát hành bằng đồng nội tệ.Ngay sau khi thong báo phát hành, nhà đầu tư đã đăng ký hết, số lượng đăng ký thậm chí còn cao gấp đôi so EVN đề ra.
Thực tế cho thấy rằng so với những lần phát hành đầu thì giờ đây EVN đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu, làm cho trái phiếu đã trở thành một kênh huy động hữu hiệu của DNNN.
II. Thực trạng sử dụng vốn đẩu tư của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
1. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư trong các DNNN Việt Nam hiện nay
Thực trạng sử dụng vốn đầu tư ở các DNNN hiện nay còn nhiều điều đáng nói. Có nhiều DNNN làm ăn có lãi nhưng đa phần các DNNN đang ở trong tình trạng làm ăn thua lỗ do việc tiến hành các hoạt động đầu tư không chú trọng.
1.1.Đầu tư cho xây dựng cơ bản
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng trong DN, hoạt động này tạo ra cơ sở vật chất hạ tầng cho DN, tạo tiền đề cho hoạt động của DN.
Trong số hơn 4000 DNNN năm 2005, số DN có qui mô nhỏ và vừa chiếm một tỷ trọng lón ( vốn dưới 5 tỷ, và dưới 300 lao động). DN có vốn từ 1-5 tỷ đồng chiêm 37,01%, DN có vốn từ 5- 10 tỷ chiếm 8, 18 %. Chính vì có qui mô nhỏ nên hoạt động xây dựng cơ bản không được chú trọng. Mức độ trang bị cho tài sản cố định thấp, số DN có mức trang bị cho TSCĐ dưới 5tỷ chiếm 86%.
Máy móc thiết bị rất lạc hậu, có DNNN máy móc thiết bị lạc hậu đến hàng chục năm. Thực tế này có thể thấy được ở rất nhiều DN. Mặc dù lạc hậu và nghèo nàn như vậy nhưng việc đầu tư cho xây dựng cơ bản trong các DN không được quan tâm.
VD: Năm 2005 trong ngành dệt mức trang bị cho tài sản cố định là 153 triệu đồng/LĐ , ngành thuỷ sản là 80 triệu đồng/LĐ… con số này là quá thấp.
Cũng do qui mô các DN quá nhỏ nên hoạt động đầu tư cho xây dựng cơ bản không được tiến hành vì không đủ vốn. Đây là một thực trạng cần giải quyết cấp bách.
Tuy nhiên, không phải tất cả các DNNN đêu có họat động đầu tư xây dựng cơ bản ì ạch như vậy. Lấy ví dụ là Tổng công ty sữa Việt Nam ( VINAMILK) từ khi thành lập năm 1976 đến nay, Vinamilk đã tiến hành xây dựng nhiều nhà máy ở khắp 3 miền của đất nước. Các chi nhánh hoạt động cũng được Vinamilk đầu tư xây dựng tích cực.
VINAMILK không chỉ đầu tư xây dựng theo qui mô mở rộng ( theo chiều rộng) mà máy móc thiết bị cũng được đầu tư đổi mới hiện đại. Như vậy Vinamilk đã tiến hành đầu tư theo cả chiều rộng và chiều sâu.
1.2.Đầu tư bổ sung hang dự trữ
Đây là hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động của DN diễn ra liên tục. Tuy nhiên trong các DNNN sản xuất hiện nay hoạt động này cũng chưa được tiến hành một cách có hiệu quả. Tình trạng thiếu nguyên vật liệu vẫn thường xuyên xảy ra. Nghành dệt may của VN cần phải nhập tới 80% nguyên vật liệu từ nước ngoài. Nghành điện tử nội địa chỉ đáp ứng được trên dưới 20% linh kiện, ngành lắp ráp ô tô là 96,5%...... điều này cho thâý DNVN phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nước ngoài. Khi có những biến động xảy ra trên thế giới thì các DN dễ rơi vào tình trạng đình trệ sản xuất vì thiều nguyên nhiên vật liệu.
Các DNNN vẫn chưa thể chủ động và nắm đằng chuôi trong hoạt động sản xuất của mình.
1.3.Đầu tư cho hoạt động nghiên cứu triển khai ( R& D) công nghệ kỹ thuật.
Khi nói đến hoạt động này thì DNNN Việt Nam đang có rất nhiều yếu kém.
Hoạt động đầu tư này sẽ giúp cho DN nâng cao năng suất lao động, tìm ra công nghệ sản xuất mới, hạ giá thành tăng tính cạnh tranh. Tuy nhiên , thực trạng đáng buồn trong các DNNN hiện nay là hoạt động này vẫn chưa được chú trọng và được tiến hành một cách mạnh mẽ. Bởi lẽ, các DNNN Việt Nam đa phần đều có tình trạng sản xuất manh mún, không có những hoạt động để cải tiến sản xuất. Với một thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản như trên thì tất yếu hoạt động nghiên cứu triển khai không được xúc tiến. Hơn nữa, đội ngũ nhân lực trong các DNNN cũng không đủ trình độ để nghiên cứu. Trong khi các DN nước ngoài liên tiếp đưa ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng cao thì DNNNVN vẫn dậm chân tại chỗ với những sản phẩm lâu năm không được cải tiến.
Lấy ví dụ về hang may mặc Việt Nam khi so sánh với hang may mặc của Trung Quốc: sản phẩm may mặc của TQ rẻ và mẫu mã thay đổi thường xuyên chính vì vậy VN có hang dệt may XK nhưng người dân trong nước vẫn dung nhiều hang TQ.
Trong khi nước bạn liên tục tung ra thị trường những sản phẩm mời thu hút khách hàng thì các DNNN Việt Nam không tự sản xuẩt ra nhiều sản phẩm mới.
1.4.Đầu tư cho hoạt động Marketing, quảng cáo
Hoạt động này sẽ giúp cho sản phẩm của DN đến được với khách hàng. Trong DN phấn trăm chi cho hoạt động này chiếm đến 5% doanh thu.
Tuy vậy, các hoạt động quảng cáo tiếp thị sản phẩm của các DNNN dường như khôg có gì. Có thể quan sát trên các phương tiện thông tín để thây được hoạt động quảng cáo tiếp thị của DNNN dường như quá trầm. Trong những năm gần đây các DNNN cũng đã quan tâm nhiều hơn đến quảng cáo tiếp thị tuy nhiên chất lượng chưa cao chưa thu hút được khách hàng. Các quảng cáo của các DN nước ngoài vẫn được chú ý nhiều hơn.
1.5.Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực(NNL)
Có thể thấy được rằng cả đội ngũ cán bộ quản lí và công nhân ở các DNNN chất lượng không cao. Theo điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân lao động trong cả nước có trình độ tiểu học chiếm 3,7%, THCS là 14,7%, THPT là 76,6%, THCN và cao đẳng là 13,8%, đại học là 13,24%. Đứng trước thực tế như vậy cho thấy việc đầu tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực ở các DN chưa được chú trọng và quan tâm nhiều. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến năng suất lao động thấp ở các DN. Mặt khác khi nói đến hệ thống quản lí của các DNNN này thì còn mang nặng tư tưởng cổ hủ, không những năng lực điều hành kém, thiếu tính sáng tạo mà còn chủ quan, duy ý chí. Chính vì năng lực lãnh đạo yếu kém đã làm cho sản xuất kinh doanh ở các DNNN không có hiệu quả. Điều này dẫn đến việc Nhà nước đã có chủ trương cho DNNN thuê Tổng Giám đốc. 5 DNNN áp dụng thí điểm mô hình thuê Tổng Giám đốc trong đợt đầu tiên gồm các Tổng Công ty: Công nghiệp Ôtô Việt Nam, Thủy tinh và Gốm xây dựng, Thiết bi kỹ thuật Điện, Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam và Tổng Công ty Xây dựng Sông Hồng. Trong cuộc chạy đua thu hút nguồn nhân lực thì DNNN luôn bị thua các DN nước ngoài do có những qui định về lương thưởng chặt chẽ. Có DN đã phải trả 1000$/ ngày cho chuyên gia nước ngoài để hướng dẫn kỹ thuật. Nhưng khi công nhân đã đạt được trình độ mới thì lương không thay đổi. Chính vì vậy tồn tại việc di chuyển lao động từ DNNN sang các DN khác.
1.6.Các hoạt động đầu tư khác
Đầu ra ngoài DN, đầu tư tài chính thì hiện nay cũng được các DNNN quan tâm nhiều hơn, tuy nhiêu cũng chưa mang lại hiệu quả. Đặc biệt là hình thức đầu tư tài chính là hoạt động mang lại một lượng thu nhập lớn nhưng vẫn chưa được các DNNN khai thác.
2. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DNNN hiện nay.
Trước thực trạng hoạt động đầu tư trong các DNNN như trên thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của các DN này như thế nào. Các kết quả điểu tra cho thấy bên cạnh những DN làm ăn có lãi thì phần lớn các DNNN đều thua lỗ. Nếu tính riêng 8 tháng đầu năm 2006 thì Tổng công ty dệt may Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá: giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16.4%, doanh thu tăng 18.9%. Tuy nhiên, theo báo cáo của kiểm toán nhà nước về kết quả hoạt động kinh doanh thì Tổng công ty dệt may Vịêt Nam lại là công ty có số lỗ luỹ kế tính đến năm 2004 là lớn nhất 328 tỷ đồng (đây là lỗ luỹ kế). có nghĩa là xét hiệu quả trong một thời gian dài khi vẫn còn xét đến phấn lỗ của Dệt Nam Định, Dệt 8-3, Dệt kim Hoàng Thị Loan.
Trong nghành thuỷ hải sản thì có thể nói đến sự thua lỗ của Seaprodex.
Trên đây là một số DN cụ thể còn xét toàn bộ hệ thống DNNN nói chung thì sao:
Báo cáo kiểm toán cũng khẳng định hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 (21%) đơn vị được kiểm toán, năm 2004 kinh doanh thua lỗ tới 124 tỷ đồng, 11/19 (58%) đơn vị có lỗ luỹ kế đến 31/12/2004 lên tới 1.058 tỷ đồng.
Xếp ngôi vô địch lỗ là Tổng công ty Dệt may Việt Nam 328 tỷ đồng, kế đến là Tổng công ty Giấy gần 200 tỷ đồng, Tổng công ty lương thực miền Nam 183 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp có số nợ phải thu khó đòi rất lớn mà cho đến nay vẫn chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả như Tổng công ty Lương thực miền Nam hơn 156 tỷ đồng, Tổng công ty Chăn nuôi 101 tỷ đồng, Tổng công ty Xây dựng công nghiệp 46,7 tỷ đồng...
Để thấy rõ hơn v ề hiệu quả sử dụng vốn của DN đánh giá qua các chỉ tiêu:
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
- Doanh thu thuần trên vốn
Phản ánh qua bảng số liệu sau:
Bảng tình hình hoạt động kinh doanh của hệ thống DNNN
Đơn vị
Năm 2002
Năm 2003
Doanh nghiệp Nhà nước
a
Số lượng doanh nghiệp:
DN
5,175
4,800
- Doanh nghiệp có lãi
%
78.5
77.2
+ DNTW
%
80.7
80.4
+ DN ĐP
%
75.8
75.2
- Doanh nghiệp lỗ
%
15.8
13.5
+ DNTW
%
11.8
10.9
+ DN ĐP
%
18.8
15.2
b
Vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
tỷ đồng
173,000
189,293
+ DNTW
tỷ đồng
129,750
144,179
+ DN ĐP
tỷ đồng
43,250
45,114
c
Doanh thu
tỷ đồng
422,004
464,204
d
Lợi nhuận
tỷ đồng
18,860
20,428
e
Lỗ luỹ kế
tỷ đồng
997
1,077
f
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
%
10.9%
10.8%
g
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
%
4.5%
4.4%
h
Tổng số nợ phải thu
tỷ đồng
97,977
96,775
i
Tổng số nợ phải trả
tỷ đồng
188,898
207,788
k
Tổng nộp ngân sách
tỷ đồng
78,868
86,754
Qua bảng trên có thể thấy được DNNN hoạt động chưa tương xứng với khả năng vốn. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn của các DNNN còn nhiều bất cập khác:
Những vụ tiêu cực, thất thoát tài sản, tiền của lớn được dư luận xã hội và báo chí tốn nhiều giấy mực nhất thì thường xảy ra ở các Tổng Công ty nhà nước.
Tuy chưa có số liệu phân tích cụ thể, nhưng theo một bài báo dẫn lời một cán bộ Thanh tra Chính phủ thì sai phạm về kinh tế tại các Tổng Công ty 90, 91 chiếm phần lớn trong các sai phạm mà toàn ngành Thanh tra đã phát hiện. Xét về doanh số, giá trị sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế thì Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng Công ty 91 mạnh nhất nước. Tuy nhiên, đây lại là Tổng Công ty dẫn đầu về số bị can (18 người và vẫn tiếp tục thêm) trong một đường dây tham ô đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ qua việc thực hiện 2 dự án thuộc loại nhỏ và trung bình, 8 bị can, trong đó có một nguyên Phó Tổng Giám đốc đã làm thất thoát và chiếm đoạt 54,7 tỷ đồng. Trước đó, tại Tổng Công ty lớn thứ hai cả nước - Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT) – cũng đã xảy ra hàng loạt sai phạm, trong đó có những sai phạm diễn ra tại một số đơn vị thành viên lớn như Bưu điện Hà Nội. Trong số hàng chục bị can của vụ án, có hai vị Giám đốc bưu điện tỉnh đã bị bắt.
Đến lúc này, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) - Tổng Công ty lớn thứ 3 – đang được đánh giá là còn trong sạch hơn. Nhưng vụ nhập và lắp đồng hồ đo điện tử cũng làm dư luận đặc biệt quan tâm. Hiện tại, Giám đốc và một Phó Giám đốc Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh bị đình chỉ công tác.
Dẫu vậy, tham ô, lãng phí, thất thoát trong dự án đầu tư, cải tạo lưới điện Hà Nội, Hải phòng... cũng không nhỏ. Có người cho rằng, chỉ có qua thanh tra mới có thể khẳng định được EVN có sai phạm, tham nhũng hay không, vì số dự án của Ngành này được thanh tra trong thời gian qua là ít. Nhiều người còn nhớ, trong vụ mua bán lòng vòng 4.000 tấn thép đường dây 500 kV trước đây, lúc đó Bộ trưởng Năng lượng cùng 1 Thứ trưởng, 2 Phó Tổng Giám đốc đã bị hầu tòa.
Còn lại Tổng Công ty Hàng không Việt Nam, số tiền tham ô của một thành viên chủ chốt tại Tổng Công ty này có khả năng đạt mức kỷ lục trong các vụ án tham ô đang được điều tra. Đó là chưa kể đến những khuất tất khác về đầu tư, tài chính ở Tổng Công ty này sẽ được cơ quan thanh tra tiếp tục làm rõ. Có cả lãnh đạo một cụm cảng tự tử và nhiều người khác bị kỷ luật...
Trước đây, những Tổng công ty lớn như Seaprodex, Dâu tằm Tơ, Cà phê, Xi măng, Hàng hải... cũng đều dã “có chuyện” khi cơ quan thanh tra hoặc cơ quan điều tra “viếng thăm”.
Kết quả thanh tra cho thấy, tham nhũng không chừa bất cứ nơi nào, từ các đơn vị rất mạnh, rất giàu, đang “phất” hay thuộc loại “từ từ mà tiến”, cho tới những đơn vị đang đi đến phá sản. Sự việc đang diễn ra ở Tổng Công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD), ở đơn vị thành viên của Vinaconex, ở Seaprodex... là những ví dụ sinh động.
Như vậỵ việc sử dụng vốn trong các DNNN còn tồn tại nhiều bất cập. Trước thực trạng trên cần có những giải pháp tích cực để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các DNNN
Phần III. Một số giải pháp nhằm tăng cường việc huy động vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN hiện nay
I. Giải pháp huy động vốn đầu tư cho DNNN
1. Tạo lập vốn chủ sở hữu
Muốn tạo lập được vốn chủ sở hữu đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải có lãi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hằng năm phải luôn đảm bảo được mức lợi nhuận hợp lý.Với mỗi mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được sau khi nộp nghĩa vụ nhà nước( 28%) doanh nghiệp sẽ trích % lợi nhuận còn lại vào quỹ đầu tư phát triển. Nguồn vốn chủ sở hữu này chính là cơ sở để doanh nghiệp gọi vốn đầu tư. Sở dĩ như vậy là vì mỗi dựa án muốn gọi được vốn đầu tư thì bản than chủ dự án phải có từ 15% đến 30% vốn. Nếu không đạt được tỷ lệ này thì không ai dám cho doanh nghiệp vay vốn.
Để có thể thu được lợi nhuận cao tức là doanh thu phải lớn và chi phí bỏ ra nhỏ nhất có thể. Để thu hút đầu tư, DNNN phải nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường và uy tín của doanh nghiệp.
Ưu tiên sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu.Giữ vững thị trường trong nước và có phát triển thêm thị trường ngoài nước, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
Các ngành hoạt động về lĩnh vực máy móc thiết bị chuyển mạnh sang nhận thầu và cung cấp thiết bị toàn bộ, tổ chức thực hiện tốt các hợp đồng EPC
Thực hiện đúng tiến độ các công trình, đầu tư có hiệu quả và có những thiết bị mang tính vượt trội trên cơ sở hợp tác sâu rộng trong và ngoài nước
Tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có chuyên môn và tay nghề cao
Làm tốt công tác tài chính kinh doanh để tái sản xuất mở rộng Tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên
Các nguồn vốn có khả năng huy động hiện nay chủ yếu là nguồn vốn tự có ( vốn khấu hao cơ bản, vốn bán cổ phiếu, quỹ đầu tư phát triển và lợi nhuận). Tăng cường các chính sách huy động mọi nguồn lực trong nước.
2. Tăng cường áp dụng các hình thức huy động mơí
2.1. Huy động từ trái phiếu
Việc vay vốn từ các kênh huy động truyền thống không đáp ứng được nhu cầu vốn phát triển quá nhanh cuả doanh nghiệp, hình thức huy động vốn trong công chúng thông qua trái phiếu sẽ mang laị nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp
“Không vay không phải là doanh nghiệp thực thụ”, có doanh nhân đã ví von như thế khi nói về chuyện đi vay của doanh nghiệp.Có nhiều hình thức để huy động vốn như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu vay từ các tổ chức tín dụng, các cá nhân trong doanh nghiệp … Ngoại trừ hình thức vay từ các tổ chức tín dụng hoặc các cá nhân thì phát hành cổ phiếu và trái phiếu còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nhất là việc phát hành trái phiếu .Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19-5-2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp được chính phủ ban hành đã tạo ra cho doanh nghiệp thêm một công cụ để trực tiếp huy động vốn từ công chúng phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển
Trái phiếu DN có 2 hình thức chủ yếu được sử dụng nhiều trên thị trường tài chính thế giới là trái phiếu phổ thông và trái phiếu có thể chuyển đổi. Điểm khác biệt giữa 2 loại trái phiếu này là khi đến hạn thanh toán thì trái phiếu thông thường sẽ nhận được gốc và lãi bằng tiền. Trong khi đối với trái phiếu có thể chuyển đổi thì trái chủ còn có thêm quyền lựa chọn đổi trái phiếu đó thành cổ phiếu doanh nghiệp.
Nếu như với trái phiếu thông thường, ngoài khoản lãi và gốc phải trả là một áp lực lớn đối với doanh nghiệp thì trái phiếu chuyển đổi cho doanh nghiệp quyền lựa chọn không phải trả phần nợ gốc và lãi khi đáo hạn. Đồng thời doanh nghiệp vẫn giữ được phần vốn huy động bằng cách chuyển đổi trái phiếu thành cổ phần mà không mất thêm thời gian để tái huy động vốn khi tái tạo
Tuỳ theo tình hình nhu cầu vốn và khả năng trả nợ, DN có thể chọn nhiều hình thức khác nhau để huy động vốn. Nếu như đối với hình thức vay truyền thống từ các tổ chức tín dụng thì khả năng huy động vốn phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh gía chủ quan của tổ chức cho vay. Hình thức này khá thụ động và thông thường mức vốn huy động thường thấp hơn so với nhu cầu thực sự của doanh nghiệp.Nhưng với trái phiếu DN có thể huy động nhiều nguồn lực hơn với mục đích lớn hơn, nhất là với doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có thương hiệu trên thị trường .Hình thức này cho phép doanh nghiệp chủ động hơn trong việc vay vốn, có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau. Tuy mức lãi suất DN huy động thường phải cao hơn mức huy động từ lãi suất ngân hàng để thu hút công chúng nhưng thực sự chi phí vốn vay bằng hình thức này thấp hơn do không phải trả phần chênh lệch huy động của ngân hàng. Hơn nữa, mức huy động vốn thường lớn hơn nhiều và thời hạn vay cũng dài hơn nhiều. Trong tương lai đây là một kênh huy động vốn trong công chúng thông qua trái phiếu sẽ chiếm ưu thế
Nhiều người cho rằng một doanh nghiệp tốt là một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ ít. Điều này đã không còn phù hợp nữa mà còn có thể nói là lạc hậu. Theo chuyên viên tài chính thì tỷ lệ nợ càng cao chưa hẳn là xấu mà còn thể hiện được khả năng chiếm dụng vốn mà nhất là uy tín của doanh nghiệp. Vì thế việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng góp phần quảng bá hình ảnh DN và nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp phát hành trái phiếu
VD: Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kyc thuật tp HCM( CII). Sau khi công ty này công bố việc phát hành 131.500 trái phiếu chuyển đổi với mệnh giá 1.000.000 đồng với kỳ hạn 3 năm và mức lãi suất hàng năm cố định là 8%.Tỷ lệ chuyển đổi là 1:76 nghĩa là một trái phiếu có thể chuyển đổi 76 cổ phiếu khi đến hạn. Điều này lập tức tăng mệnh giá của cổ phiếu trên thị trường
Một minh chứng hung hồn nữa là việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế. Với hơn 225 nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu chính phủ Việt Nam, đây là con số dao động kỷ lục từ trước tới nay và gần 4.5 tỷ USD được huy động chỉ trong một tuần. Một con số không hề dễ dàng huy động qua các kênh thông thường. Sự thành công nay tạo tiền đề cho một loạt các doanh nghiệp chuẩn bị huy động vốn trên thị trường quốc tế với mức lãi suất thấp hơn lãi suất trong nước như trái phiếu BIDB và tới đây sẽ là Vietcombank …
2.2. Huy động từ cổ phiếu
Thị trường chứng khoán luôn là nơi huy động vốn hiệu quả nhất trong các phương thức huy động vốn. Tại đây, mục tiêu của đại đa số các công ty là huy động vốn dài hạn, phục vụ các kế hoạch đầu tư lâu dài. Tính toán huy động vốn cách nào là việc giải bài toán vốn gọi được nhiều nhưng chỉ chia quyền quản trị ít.Đây là một kênh huy động mới rất hiệu quả đang được nhiều doanh nghiệp xem trọng và thực hiện. Để huy động vốn, công ty sẽ bán cổ phiếu cho cổ đông tùy theo số tiền cần có. Nếu định bán cho công chúng, trước khi bán công ty phải đăng ký cổ phiếu với Sở giao dịch chứng khoán, được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán; lúc đó cổ phiếu có thêm một tên mới là chứng khoán. Nếu chỉ bán cho vài người thì không phải đăng ký cổ phiếu. Tùy theo tình hình tài chính của công ty, nếu làm ăn khấm khá, công ty sẽ mua lại số cổ phiếu đặc ưu đem về cất giữ, gọi là treasury stock. Số còn lại nằm trong tay cổ đông sẽ gọi là outstanding share. Sau khi gọi vốn lần đầu, những lần sau, muốn tăng vốn, công ty bán nốt số cổ phiếu hãy còn giữ lại lúc đầu, hay phát hành một đợt cổ phiếu mới, gọi là phát hành mới. Loại nào, bao nhiêu thì do hội đồng quản trị công ty quyết định. nếu đã bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán rồi, mỗi lần phát hành mới, công ty đặt ra ba cách “dụ dỗ” cổ đông hiện có hay để thưởng cho nhân viên cao cấp của mình.
Nếu đã bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán rồi, mỗi lần phát hành mới, công ty đặt ra ba cách “dụ dỗ” cổ đông hiện có hay để thưởng cho nhân viên cao cấp của mình.
Cách thứ nhất là phát hành cổ phiếu lựa chọn (stock option) cho nhân viên. Khi cầm nó nhân viên được quyền mua hay bán một số chứng khoán của công ty theo một giá đã định trước khi hết hạn vào một ngày nào đó. Cổ phiếu lựa chọn có thể là một Call option cho họ quyền mua hay một Put option cho họ quyền bán. Với giá đã định, người nắm Call option có lợi khi giá chứng khoán của công ty tăng trên thị trường chứng khoán vào lúc đến hạn mua, thì được mua với giá cũ. Nếu giá chứng khoán xuống thì người có Put option có lợi vì được bán cho công ty với giá đã định cao hơn giá hiện thời. Phần thưởng cho họ nằm ở sự chênh lệch giá.
Cách thứ hai là ấn định quyền (rights) cho người nắm cổ phiếu thông thường. Có rights họ được quyền mua một số cổ phiếu thông thường mới phát hành với một giá đã ấn định, nếu mua trước một ngày nào đó thường là một năm. Đến ngày hết hạn mà giá chứng khoán của công ty lên thì họ có lời vì được mua với giá cũ
Cách thứ ba là Cổ phiếu bảo đảm (stock warrant) dành cho những ai có cổ phần ưu đãi hay có trái phiếu. Ai có nó sẽ được mua chứng khoán của công ty với giá đã định trước một ngày hết hạn nào đó. Khi ấy nếu giá lên thì họ có lời.
Với những quy định về huy động vốn như vậy, các công ty sẽ luôn hoạt động rất nhộn nhịp kể cả trong những thời điểm giá chứng khoán tụt dốc. Đồng thời với đó, các công ty thường xuyên có được những nguồn vốn cần thiết phục vụ hoạt động kinh doanh của mình trên thương trường.
Hơn nữa vốn huy động từ phát hành cổ phiếu là không kỳ hạn, tránh được sức ép trả ngân hàng trả vốn và lãi khi đáo hạn , đó là chưa kể việc phát hành tạo thêm thanh khoản cho cổ phiếu, thu hút thêm nhà đầu tư. Ngoài ra trong trường hợp có dự án khả thi trong tương lai,doanh gnhiệp có thể phát hành thêm cổ phiếu ngay do đã có kinh nghiệm từ đợt phát hành sắp tới.Và chỉ còn lại vấn đề là việc sử dụng đồng tiền thu từ phát hành thêm cổ phiếu sao cho có hiệu quả nhất.
2.3. Một số nguyên tắc khi huy động vốn
Để tối ưu hoá hoạt động huy động vốn, các công ty cần đề ra cho mình những nguyên tắc nhất định, “đánh bóng” chính bản thân công ty, từ đó tạo ra sự tin cậy trong con mắt các nhà tài trợ vốn.
Tạo dựng độ tin cậy của công ty
Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà tài trợ thường căn cứ vào độ tin cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn sớm nhận được quyết định tài trợ vốn, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các nhà tài trợ sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy của công ty.Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty.
Tạo dựng hình ảnh về năng lực của công ty
Nếu công ty bạn chứng minh được với các nhà tài trợ vốn về khả năng quản lý, kỹ năng hoạt động, năng lực tài chính cũng như sự nhạy bén trong kinh doanh, thì bạn sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn, bởi năng lực công ty là một trong những yếu tố tiên quyết mà các nhà tài trợ vốn xem xét và cân nhắc trước khi đưa ra quyết định tài trợ vốn.Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh doanh, bạn còn phải thể hiện cam kết tài chính của công ty đối với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số chuẩn mực về tài chính. Bạn nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM…)..., bởi chúng là những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng của công ty trong con mắt các nhà tài trợ. Báo cáo tài chính sẽ “tiết lộ” hoạt động của công ty bạn, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ,… về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Hạn chế rủi ro đối với nhà tài trợ vốn
Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà tài trợ là những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường, như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi mã,… Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro xấu nhất có thể xảy ra.Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bạn bấy nhiêu.
DN chỉ nên cân nhắc tới một khoản huy động vốn, khi DN tin tưởng và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh được đầu tư từ khoản vốn huy động đó sẽ cao hơn các chi phí huy động vốn. Và DN tuyệt đối không nên huy động vốn để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh hiện tại, bởi việc này có thể kéo bạn lún sâu vào “vũng lầy” với tình trạng khó khăn hơn về tài chính . Thay vào đó,DN có thể cắt giảm các loại chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh sao cho tốt hơn và hiệu quả hơn.DN chỉ nên tập trung vào các hoạt động kinh doanh nào chắc chắn mang lại lợi nhuận. Nếu ngay cả biện pháp này cũng không giúp gì cho bạn, thì bạn nên suy nghĩ tới việc chuyển hướng hoạt động kinh doanh của mình.
II. Giải pháp sử dụng vốn hiệu quả cho các DNNN
1. Giải pháp thúc đẩy nhanh CPH DNNN
DNNN chiếm tỷ trọng ít về số lượng nhưng lại nắm một phần rất lớn về vốn. lượng vốn nằm trong các DNNN không được sử dụng có hiệu quả, sự thất thoát vốn không phải là nhỏ. Nhiều DN tuy đã chuyển sang cty cổ phần với mục đích đa dạng sở hữu về vốn, nhưng nhà nước vẫn nắm phần lớn cổ phần. Điều này đã hạn chế sự tham gia tiến trình CPH của các nhà đầu tư chiến lược. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN trước hết cần đẩy nhanh cuộc cải cách DNNN. Trọng tâm của cải cách DNNN phải nhằm vào công tác CPH. Việc nhà nước nắm cổ phần chi phối tại rất nhiều công ty cổ phần đã làm hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược và các cty nước ngoài. Đại bộ phận DNNN phải là DN đa sở hữu, trong đó nhà nước nắm không phải là trên 50% vốn điều lệ như hiện nay ở trong một số ngành then chốt mà chỉ vào khoảng 30-35%. Cần thiết phải có quy định thời hạn tối đa cho phép kéo dài từ khi đấu giá bán cổ phần đến khi tổ chức đại hội cổ đông thành lập công ty cổ phần.
Lộ trình hội nhập đang tạo áp lực lớn cho quá trình CPH DNNN. những DN quy mô nhỏ hầu như đã được cổ phần hoá, nhưng mới chỉ cổ phần được 10% tổng vốn nhà nước tại các DN. Nghĩa là số DN còn lại có quy mô lớn về vốn và là các DN nằm ở những ngành những lĩnh vực được coi là quan trọng. đó có thể được coi là những “lô cốt” trong cải cách DNNN.
Không nên coi việc chuyển đổi DNNN thành cty TNHH nhà nước một thành viên là một cách để duy trì sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. việc chuyển đổi DNNN thành cty TNHH một thành viên không thể khắc phục được tính chất một chủ (hờ) của DNNN, không góp phần đổi mới phong cách quản lý, không làm giảm được sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đó là do sau khi chuyển thành cty TNHH, các DN này vẫn do nhà nước nắm thông qua các cơ quan và cấp hành chính chủ quản.
Thực tế trong rất nhiều tổng công ty, kể cả các tổng cty đã chuyển sang hoạt động theo mô hình cty mẹ-cty con và các tổng cty được thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế, có rất nhiều DN mà nhà nước giữ 100% vốn điều lệ dưới dạng cty TNHH một thành viên. Thí dụ trong tập đoàn Than và Khoáng sản có 16 cty mà nhà nước nắm 100% vốn điều lệ, tâp đoàn Dệt may Việt Nam có 9 cty, Tổng cty Thuốc lá có 10 cty TNHH một thành viên. Tại các DN này, số lượng các DN mà nhà nước nắm 51% vốn điều lệ cũng rất lớn, tương ứng là 25 đơn vị ở tập đoàn Than-Khoáng sản, 24 đơn vị ở Dệt May, 7 đơn vị ở Tổng cty Thuốc lá. rất nhiều DN trong số này nhà nước không cần thiết phải nắm 100% vốn điều lệ hay trên 50% vốn điều lệ. Do đó cần phải thu hẹp diện các DN 100% vốn nhà nước, tức là hạn chế tới mức lớn nhất việc chuyển DNNN thành cty TNHH một thành viên.
Cần thiết phải từ bỏ quan niệm tổng công ty và tập đoàn kinh tế phải do nhà nước nắm 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ cổ phần chi phối. Cho đến nay chưa có tổng cty nào tiến hành đại hội cổ đông để thành lập tổng cty cổ phần mặc dù từ tháng 5/2004, Thủ tướng chính phủ đã quyết định cho 03 tổng cty thí điểm CPH. Về thực chất, việc nhà nước nắm cổ phần chi phối trong các cty cổ phần là một sự níu kéo cái “mũ bảo hộ” cho các DN, không tạo điều kiện để các DN được chơi trên một “sân chơi” chung, một mặt bằng bình đẳng trước pháp luật.
Trong 15 năm qua chúng ta mới chỉ sắp xếp được1/2 số DNNN. Số còn lại phải làm trong 4 năm. Nếu không làm được thì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước khó được đảm bảo. Muốn làm được điều đó phải đổi mới tư duy, vượt qua chính mình, phải có cách nhìn mới, quan niệm mới về kinh tế nhà nước, về vai trò chủ đạo của nó, về CPH và cải cách DNNN. Phải dám từ bỏ (tuy rất nuối tiếc) lợi ích cục bộ để đảm bảo lợi ích của toàn cục, từ bỏ chiếc “mũ bảo hộ” của nhà nước để tự vượt lên chính mình. Đó chính là chiếc chìa khoá dẫn đến thành công trong cải cách DNNN.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng về vốn
Cùng với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là khâu quan trọng. Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%. Trong lộ trình cổ phần hóa DN hiện nay, bên cạnh những doanh nghiệp đã được tiến hành sắp xếp, chuyển đổi hình thức sở hữu thì cũng còn những doanh nghiệp Nhà nước hiện nay hoạt động kém hiệu quả, không bảo toàn được vốn, còn tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự chi viện của Nhà nước.
Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ lũy kế và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
Về cơ cấu vốn trong doanh nghiệp bao gồm nhiều nguồn như nguồn vốn chủ sở hữu, vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm, các quỹ của xí nghiệp, vốn đi vay của các tổ chức tín dụng; vốn đi chiếm dụng của khách hàng. Mỗi loại vốn phản ánh tính chất và nguồn hình thành khác nhau. Thực tế hiện nay cần đi sâu xem xét công tác quản lý vốn của DN chủ yếu là các loại vốn trong thanh toán như công nợ phải thu; các khoản nợ phải trả trong đó có nợ vay ngân hàng. Bởi lẽ những khoản nợ này chiếm tỷ trọng lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu công tác quản lý tốt thì khả năng phát sinh những khoản nợ này chỉ tồn tại trong thời gian nhất định và ngược lại nếu công tác quản lý yếu kém (nợ từ các năm trước chuyển sang) thì công nợ sẽ tăng lên. Vấn đề đặt ra là không cho phép DN để khách hàng chiếm dụng vốn lâu ngày, chỉ được phép chiếm dụng trong thời hạn cho phép khoảng trong vòng 1 tháng (khoảng 30 ngày).
Mô hình của các DN khi đã được sắp xếp lại và tiến hành cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền phê duyệt là hai hướng đi lâu dài trong tương lai của mỗi DN. Để triển khai mô hình này đạt hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi phải có nhiều yếu tố, chính sách tác động, trong đó đổi mới phương thức quản lý và điều hành của Giám đốc DN giữ vai trò quyết định. Vốn là một trong những yếu tố không thể thiếu được trong giai đoạn ban đầu khi tiến hành cổ phần hóa, xác định giá trị DN.
Như vậy cái gốc của vấn đề vẫn là bắt nguồn từ sản xuất kinh doanh. Nếu sản xuất kinh doanh khá, sản phẩm cạnh tranh được với thị trường thì không những có lợi nhuận mà vốn cũng được quay vòng nhanh, ngược lại nếu sản xuất kinh doanh kém hiệu quả thì vốn sẽ bị ứ đọng. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN cần tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DN, kinh nghiệm cho thấy chỉ có cổ phần hóa thì vốn mới được quản lý chặt chẽ hơn.
Trước hết, đối với DNNN, kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Từ thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục.
Thứ hai là, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung.
Thứ ba là, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ tư, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ.
Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động.
Thứ sáu là phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta.
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập, cải cách toàn diện nền kinh tế, khối DNNN đã kịp thời nắm bắt vận hội mới, phát huy đựơc vị thế, vai trò chủ đạo định hướng cho các DN khác. Nhưng bên cạnh việc huy động với nhiều hình thức mới đa dạng hiệu quả,cùng với tình hình sử dụng vốn khả quan hơn so với trước thì trong DNNN vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như: vẫn còn tồn tại sự bảo hộ của Nhà Nước,khả năng quản lý và tổ chức chưa chuyên nghiệp, chưa quảng bá được uy tín của doanh nghiệp, không tạo được độ tin cậy cho nhà đầu tư.
Qua đây chúng ta hiểu rõ hơn về thực trạng của DNNN hiện nay từ đó rút ra những lợi thế của DNNN cũng như những mặt hạn chế để khắc phục và sửa chữa . Góp phần phát triển DNNN, tạo cho DNNN có chỗ đứng trên thương trường.
Tuy còn nhiều thiếu sót và hạn chế trong nhận thức mong thầy cùng các bạn đóng góp ý kiến để đề tài hoàn thiện hơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế đầu tư
2. Giáo trình tài chính doanh nghiệp
3.Giáo trình tài chính tiền tệ
4.Tạp chí ngân hàng
5.T/c Nghiên cứu kinh tế
6.T/c Tài chính
7.T/c Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
8. www.vnn.vn
9. www.kiemtoan.com.vn
10. www.vneconomy.com
11. www.mpi.gov.vn
12. www.moi.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom13_banchinh.docx