Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. Nhu cầu đầu tư càng trở nên bức thiết trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế hiện nay. Sẽ không có sự phát triển hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bản và công nghệ giữa các nước và khu vực trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt nam thì đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Việt nam tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế trong tình trạng lạc hậu, trình độ kỹ thuật, kết cấu hại tầng chưa phát triển, năng suất lao động thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể, thu nhập quốc dân theo đầu người vào loại thấp nhất trên thế giới. Xét về mặt tiềm năng, nước ta với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, đội ngũ lao động dồi dào, có vị trí địa lý thuận lợi trong khu vực, song tất cả vẫn đang ở trong dạng tiềm năng chưa được khai thác có hiệu quả vì chúng ta còn thiêú vốn, kỹ thuật công nghệ và quản lý tiên tiến. Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế.
29 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ói trên của mình.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập “ đóng cửa” là không thể tồn tại vì chính sách đó chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới do những thành tựu của khoa học và kĩ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới những tác động quốc tế khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài.
1.2 Các hình thức của xuất khẩu tư bản :
Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức.
Nếu xét cách thức đầu tư, có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
_ Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư , biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà toàn bộ số vốn là của một công ty nước ngoài.
_ Đầu tư gián tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay lãi. Thông qua các ngân hàng tư nhân hoặc các trung tâm tín dụng quốc gia và quốc tế, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay vốn theo những hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay các hình thức này còn được thực hiện bằng việc mua bán trái phiếu hay cổ phiếu ở các công ty nhập khẩu tư bản.
Nếu xét theo chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
_ Xuất khẩu tư bản Nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào các nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu và kinh tế, chính trị và quân sự.
Về kinh tế, xuất khẩu tư bản Nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân.
Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ lâu dài.
Về quân sự, viện trợ của Nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu lập căn cứ trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần là để bán vũ khí.
_Xuất khẩu tư bản tư nhân, là hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân thực hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỉ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.
Nếu xét về cách thức hoạt động, có các chi nhánh của các công ty độc quyền xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ. Trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao công nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thường sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tế, là sự bành trướng thế lực của tư bản tài chính nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, làm cho các nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột gia trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm cho mâu thuẫn kinh tế – xã hội tăng lên.
1.3. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay :
Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn.
Thứ nhất là, hưóng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển ( chiếm tỉ trọng trên 70% ). Nhưng những thập kỷ gần đây, đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua chảy lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữa ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản của các nước đang phát triển giảm mạnh, thậm chí chỉ còn 16,8% ( 1996) và hiện nay khoảng 30%ấ (Con số và sự kiện số19).
Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản không còn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có lợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm.
Như đã biết, cuộc Cách mạng khoa học – công nghệ đã tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn như : ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương … Những ngành này có thiết bị và quy trình đánh máy hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế của các nước tư bản phát triển dã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, không phù hợp, tình hình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước. Còn với những nước đang phát triển nhưng đã trở thành NIEs thì tỉ trọng của nguồn tư bản xuất khẩu vẫn lớn : chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của các nước đang phát triển. Mặt khác, thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng là sự hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng nề của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.
Sự biến đổi về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi, mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học - công nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là không tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của những thiết bị và quy trình công nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và công nghệ lạc hậu ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp ( do bị hao mòn hữu hình và vô hình ). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đoàn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa Đế quốc còn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ đầu tư dài hơn ở quy mô thế giới cho thấy : xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngoài. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu á, Phi và Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.
Thứ hai là, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI. Chẳng hạn vào những năm 90, các công ty xuyên quốc gia đã chiếm tới 90% luồng vốn FDI. Mặt khác đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển đặc biệt là các NIEs châu á
Thứ ba là, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT …sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừng tăng lên.
Thứ tư là, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.
Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh phân công lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước. Đó là một trong những nhân tố cực kì quan trọng tác động từ bên ngoài vào làm cho quá trình công nghiệp hoá và tái công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu phát triển nhanh chóng. Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với những nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như : nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chống chất do bị bóc lột quá nặng nề. Tuy nhiên, điều này còn tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lí của Nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản, nhiều nước đã ở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá ở nước mình. Vấn đề đặt ra là cần phải biết vận dụng mềm dẻo, linh hoạt theo nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực để khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả và kinh tế nhất.
Chương II
thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay
2.1.Những thành tựu đạt được trong quá trình thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam :
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong thời gian qua đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần tạo điều kiện và động lực cho việc điều chỉnh chính sách kinh tế. Đây cũng là một trong những chủ trương vô cùng đúng đắn của Đảng : “ FDI là nguồn vốn quan trọng, bổ sung đầu tư phát triển, là một trong những điều khiện tiên quyết để thực hiện chiến lược CNH – HĐH đất nước”.
Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam cho đến nay, bình quân mỗi năm FDI thực hiện là 1.12 triệu USD, chiếm khoảng 26.5 % tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản của xã hội. FDI là nguồn vốn quan trọng giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế cân đối, bền vững theo hướng CNH – HĐH góp phần tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,5 % trong giai đoạn 1991 – 1997 và khoảng 6% trong giai đoạn 1997 – 2000, là động lực cho việc khai thác và phát huy có hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực trong nước ( Tạp chí ngoại thương 26).
FDI góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới, làm cho nước ta từng bước chuyển biến theo kinh tế thị trường hiện đại góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Các thành phần kinh tế của đất nước đã xây dựng những khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các ngành kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước ( năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực FDI là 114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%, số liệu tương ứng 1996 là 119,42% / 109,34, năm 1997 là 120,75% /108,15%, năm 1998 là 116,88%/ 105,8%). ( Con số và sự kiện 9/2002)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với những thế mạnh về vốn, công nghệ đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhiều ngành nghề mới đã xuất hiện như : lắp ráp ô tô, xe máy, tivi, máy giặt, điều hoà nghiệt độ, tổng đài điện thoại … trong ngành công nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, đưa ra những mô hình quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại và là động lực quan trọng buộc các nhà đầu tư trong nước phải đôỉ mới công nghệ, nâng cao chất lượng, hình thức … của sản phẩm để cạnh tranh và tồn tại trong cơ chế thị trường.
Đầu tư nước ngoài cũng góp phần mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện tăng cường, củng cố và tạo ra những thế lực mới cho nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Xem xét kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo ngành kinh tế từ năm 1998 đến hết quý I/2001, không kể 33 dự án đã hết hạn với số vốn đầu tư 316,4 triệu USD và 68 dự án giải thể trước thời hạn với số vốn đầu tư đăng ký 8.329,4 triệu USD, tại Việt Nam hiện có 2725 dự án còn hiệu lực với số vốn đầu tư đăng ký là 36,565 tỷ USD.( Con số và sự kiện 9/2002)
Vốn FDI chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 1712 dự án ( chiếm 63% tổng số dự án ) tổng vốn đầu tư 20.267,7 triệu USD ( chiếm 55,4% tổng số vốn FDI ). Đứng thứ hai là lĩnh vực dịch vụ có 663 dự án ( chiếm 23,2% số dự án) với vốn đầu tư 14.037 triệu USD ( chiếm 38,4% tổng số vốn đầu tư). Lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp có số dự án và vốn đầu tư nhỏ nhất với 380 dự án( chiếm 13,8% số dự án ), vốn đầu tư đăng ký đạt 2.260,359 triệu USD ( chiếm 6,2%).( Con số và sự kiện 9/2002)
Thực tế hoạt động FDI cho thấy dòng vốn đầu tư vào Việt Nam những năm qua chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn nhanh, có thị trường trong nước lớn và những ngành trong nước có tiềm năng nhưng chưa được khai thác như các ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành may mặc, giầy dép, lắp ráp ô tô, xe máy, hàng điện tử dân dụng, sắt thép xi măng, khách sạn văn phòng cho thuê … còn đầu tư vào các ngành công nghệ cao thì chưa nhiều, nhất là đầu tư chiều sâu và chuyển giao công nghệ gốc.
FDI đã đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP, tạo nguồn thu ngân sách. Các doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP ở mức 2% năm 1992, 7,7% 1996 và 9% năm 1998. Các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý kinh doanh mới, tạo điều kiện cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn thiện năng lực sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với thu nhập bình quân 70 USD / người / tháng, ngoài ra còn tạo ra hàng vạn lao động gián tiếp. Như vậy số lao động làm việc cho các doanh nghiệp FDI và các bộ phận khác liên quan bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước. Trong số lao động này có khoảng 6000 cán bộ quản lý và 2500 cán bộ kỹ thuật.(trích Con số và sự kiện 9/2002)
ĐTNN đã góp phần thay đổi bộ mặt của đất nước ( đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM ) nâng cấp được nhiều cơ sở hạ tầng trong cả nước. Nhờ đó các hoạt động trao đổi kinh tế được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
ĐTNN đã cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiêù kinh nghiệm, tạo nên nguồn động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. Sản xuất trong các doanh nghiệp đã mang tính chuyên môn hoá, tập trung hoá. Các doanh nghiệp làm quen với thị trường thế giới và kinh nghiệm của các doanh nghiệp và các nền kinh tế trên thế giới.
Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tạo môi trường đầu tư để môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư đã không ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hội nhập.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, chúng ta đã tranh thủ FDI để phát triển đất nước và đã đạt được những thành công nhất định. Bên cạnh đó, còn rất nhiều bất cập, hạn chế đòi hỏi chúng ta phải xem xét toàn diện, cụ thể để tìm ra những bài giải cũng hết sức cụ thể.
2.2.Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại :
2.2.1.Những khó khăn, hạn chế trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam :
Trong suốt hơn 15 năm hội nhập và khuyến khích đầu tư nước ngoài FDI, bên cạnh những đóng góp to lớn vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế.
Nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây giảm mạnh nhưng cũng đang có xu hướng phục hồi. Điều này đỏi hỏi chúng ta phải xem xét cụ thể để có đủ sức mạnh vượt qua nhiều thử thách còn trước mắt.
Cơ cấu đầu tư tuy có nhiều cải biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý. Vốn đầu tư vẫn chủ yếu tập trung vào các vùng trọng điểm như Hà Nội, TP HCM và các thành phố lớn khác, điều này đã tạo ra sự chênh lệch ngày càng lớn giữa các vùng. Về đối tác nước ngoài, 70% vốn đầu tư từ nước ngoài là các Châu á, Châu âu và Mỹ vẫn còn rất dè dặt khi đầu tư. Về hình thức đầu tư thì đang có sự chuyển mạnh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn so với điều kiện thực tế. Tính trong khoảng thời gian 1988 – 2000, vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài đã đạt 17,7 tỷ USD doanh thu đạt 21,6 tỷ USD, đây là một con số rất ý nghĩa với nền kinh tế Việt Nam, song còn nhỏ bé trong quá trình hội nhập và phát triển. Tuy nhiên trong các năm trở lại đây, đầu tư tư nước ngoài đã giảm cả về chất lượng và số lượng. Trong cơ cấu vốn nói chung của cả nước, vốn đầu tư nước ngoài giảm liên tiếp từ 24,9% năm 98 xuống 18,2% năm 99 và 16,8% trong năm 2000. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn ở mức cao so với mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước, song vẫn tiếp tục suy giảm từ 23,3% năm 1998 xuống 20% năm 1999 và 18,6% năm 2000. Đã có 7.014 dự án bị giải thể, thu hồi giấy phép ( 1998-2000 ) do không thực hiện góp vốn như đã cam kết và phần lớn hoạt động không có hiệu quả. Bên cạnh đó còn không ít các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đạc biệt là các liên doanh của đối tác Việt Nam, đã rơi vào tình trạng thua lỗ trong nhiều năm liền. Phía nước ngoài thường đặt vấn đề : chịu lỗ và mua lại phần vốn của Việt Nam hoặc nhượng cả phần vốn của họ cho phía Việt Nam. Trong phần lớn các trượng hợp, Nhà nước cho phía nước ngoài được mua phần chuyển nhượng của đối tác Việt Nam với một số điều kiện nhất định để trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và điển hình là công ty COCACOLA Việt Nam tại Hà Nội.
Bảng 1:Tổng hợp thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài ( tính đến 31-12-2000)
Đơn vị : Triệu USD
STT
Chỉ tiêu
1988-
2000
1988-
1995
1996-2000
1996
1997
1998
1999
2000
I
Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn
1
Vốn đăng ký
38.553
7.826
8.640
4.649
3.897
1.568
1.973
2
Tăng vốn
6.032
2.132,3
788
1.173
884
628
426
3
Giải thể
7.952
1.548
1.141
544
2.428
624
1.666
4
Hết hạn
291
98,9
146,1
24,4
19,1
1,1
1,9
5
Còn hiệu lực
1.556
26.453
31.705
34.040
35.612
36.342
II
Vốn thực hiện
19.984
7.153
2.923
3.137
2.364
2.179
2.228
Nguồn : Bộ kế hoạch và Đầu tư
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực chuyền giao công nghệ cũng tồn tại nhiều hạn chế : có những công nghệ được chuyển giao đã quá cũ kĩ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả, công nghệ được chuyển giao không đồng bộ và định giá khó khăn chính xác …Từ đó, sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và còn gây ra ô nhiếm môi trường.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng gây ra nhiều hạn chế về chính trị- văn hoá - xã hội …
2.2.2.Nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Nguyên nhân chính làm giảm lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là do sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, các nhà ĐTNN đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam đang mất dần tính cạnh tranh và hấp dẫn so các nước trong khu vực, cụ thể là :
-Thủ tục hành chính rườm rà, mất quá nhiều thời gian : Thủ tục cấp phép đã cải tiến nhưng lại dẫn đến tình trạng một cửa nhiều khoá, phối hợp giữa các ngành còn chưa kịp thời, địa phương cần xin ý kiến của trung ương cần mất nhiều thời gian, thủ tục sửa giấy phép đầu tư thường quá rườm rà, tỉ mỉ làm hạn chế đầu tư thêm. Có thể đơn cử một ví dụ : ở Hà Nội, để được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của UBND thành phố, nhà đầu tư nước ngoài phải gửi nhiều bộ hồ sơ của dự án với đầy đủ 11 loại giấy tờ hợp lệ ( nếu là đầu tư 100% vốn nước ngoài ) đến Sở Kế hoạch và đầu tư hoặc ban quả lí khu công nghiệp. Sau khi các cơ quan này lấy ý kiến thẩm định của các bộ, sở ngành có liên quan bằng văn bản, rồi được sự chấp nhận của Hội đồng tư vấn thành phố và được UBND thành phố cấp giấy phép đầu tư thì tất cả thời hạn là 30 ngày. Đối với dự án không thuộc thẩm quyền của UBND thành phố thì thêm khâu gửi đến cấp trên ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ …) để cấp giấy phép đầu tư, thời gian kể từ khi nộp hồ sơ đầy đủ và hợp lệ đến khi được cấp giấy phép đầu tư trước đây là 60 ngày, nay còn 45 ngày. Trong quá trình thực thi của các ngành thời gian còn bị kéo dài hơn. Các thủ tục khác cũng vậy, rất phức tạp và nhiều vướng mắc như : Thủ tục hải quan ( danh mục tính thuế đất, xuất nhập khẩu, thời gian giải quyết thủ tục …) không rõ ràng ; thủ tục đất đai ( giá thuê đất, chính sách giải toả đền bù, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất ở các khu công nghiệp và khu chế xuất ) không đồng nhất, phức tạp, còn nhiều vướng mắc ; thủ tục xây dựng ( cấp chứng chỉ quy hoạch, giấy phép xây dựng ) còn nhiều phiền hà ; thủ tục cấp VISA cũng rất phức tạp, mất thời gian và chi phí cao ; việc tuyển dụng lao động phải qua trung tâm dịch vụ gây mất nhiều thời gian, chi phí cao nhưng chất lượng lại thấp ; phương thức nộp thuế, thủ tục, thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lí ngoại hối …cũng nhiều hạn chế, phức tạp.Chính những thủ tục hành chính này đã gây cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục ( hiện tượng sách nhiễu, phiền hà, làm biến dạng chính sách, việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế…) đã làm gia tăng những ảnh hưởng không tốt đến những nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chân chính, nghiêm túc.
-Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình thực hiện nên thiếu tính đồng bộ và không hoàn chỉnh, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự báo được trước. Tính ổn định của pháp luật chính sách chưa cao, chính sách liên quan đến FDI thay đổi nhiều, một số trường hợp chưa tính kĩ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành địa phương có xu hướng xiết lại, “đẻ” thêm qui định, dẫn đến tình trạng trên thoáng dưới chặt, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Danh mục lĩnh vực không cấp phép và cấp giấy phép đầu tư có điều kiện của ta còn chung chung, ít hình thức đầu tư.
_ Chi phí kinh doanh cao, khả năng sinh lời thấp. Theo các nhà đầu tư ĐTNN, chi phí đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cao hơn so với một số nước trong khu vực do vậy nếu xét trong giác độ này, Việt Nam không phải là nơi lý tưởng cho các nhà đầu tư. Căn cứ và kết quả điều tra Jetro ( Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản ) tại 24 thành phố lớn thuộc 14 nước Châu á, lương công nhân tại Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakarta, giá điện gấp 2 lần Thượng Hải và Băngkok ; cước phí vận chuyển congtainer cao gấp đôi các nước khác. Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam là cao nhất trong khu vực Châu á. Mức thúe thu nhập tối đa của người Việt Nam làm tại các công ty liên doanh là 50%-60%, nhưng thực tế là 72% do cách tính luỹ tiến. Trong khi đó, thuế thu nhập cá nhân tại Hongkong chỉ là 15%, Phi-lip-pin là 33%, Tháilan là 37%. Như vậy, chi phí lương trả cho một nhân viên Việt Nam gần như tăng gấp đôi, nhưng lương thực tế chỉ xấp xỉ một nửa mức chi phí lương của “ ông chủ”. Chính điều này đã hạn chế rất nhiều lợi thế về nhân công, hạn chế những vị trí cao cho người Việt Nam trong doanh nghiệp ĐTNN. Chi phí ngoài hàng rào về hạ tầng chưa được giải quyết kịp thời, thoả đáng ( chưa có nguồn kinh phí để xây hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào ở khu công nghiệp các khu chế xuất ). Các khoản chi phí ngoài luật ( chi phí tư vấn, chạy thủ tục ) tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ, chi phí vô hình về việc chờ đợi vì tệ quan liêu, giải phóng mặt bằng quá chậm, hạ tầng yếu kém, chất lượng lao động trình độ quản lý thấp … đã làm tăng chi phí cho nhà đầu tư ở Việt Nam.
_ Hình thức thu hút vốn FDI chưa phong phú. Hơn 10 năm qua, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu chỉ thực hiện theo 3 hình thức là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh ( trong đó các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn ). Việt Nam chưa chú trọng đến các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài khác như thành lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, cho phép mua bán, sát nhập doanh nghiệp trong nước với công ty nước ngoài theo trào lưu hiện nay … Do đó trong nhiều năm qua Việt Nam chưa mở được các kênh mới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài của thế giới.
_ Việc thực thi của các cấp dưới chưa nghiêm, nhưng việc kiểm tra xử lý của cấp trên lại chưa chặt chẽ, kịp thời gây nhiều trở ngại phiền hà, làm mất lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài. Đơn cử như Quyết định 53/1999/QQ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài rất hoan nghênh, nhưng trong quá trình thực hiện còn một số ngành, số bộ, địa phương, tổng công ty chưa nghiêm túc thực hiện như : việc áp dụng thống nhất một giá dịch vụ, lệ phí tham quan, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, việc chuyển đổi các hình thức đầu tư vẫn gặp nhiều khó khăn. Một số chính sách của chính phủ còn chậm đưa vào cuộc sống mà các cơ quan cấp dưới lại không chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin cộng đồng đầu tư nước ngoài đối với các quyết định của Chính Phủ, như việc thanh toán chậm tiền đầu tư công trình hạ tầng ngoài hàng rào doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đã ứng trước để xây dựng, giảm lệ phí tham quan …
_ Môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiều hạn chế yếu kém, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nói riêng. Hiện nay, tuy thị trường hàng hoá dịch vụ phát triển mạnh, nhưng chưa quản lý tốt nên xảy ra tình trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, sản xuất hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại còn phổ biến làm ảnh hưởng tới các nhà sản xuất. Thị trường công nghệ và các dịch vụ thông tin, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, kiểm toán chưa phát triển kịp thời với yêu cầu của lĩnh vực hợp tác đầu tư. Thị trường vốn, thị trường chứng khoán chậm phát triển đã hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu vốn vay của các thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
_ Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội còn nhiều hạn chế : giao thông vận tải, điện nước, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho đối tượng nước ngoài … còn nhiều bất cập.
_ Việc cung cấp nguyên liệu, phụ tùng tại chỗ cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn và không ổn định, ảnh hưởng đến kế hoạnh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và làm tăng giá thành sản phẩm. Theo điều tra của Jetro, Việt Nam hầu như không có phụ tùng có thể sử dụng được, 3/4 doanh nghiệp chỉ tự cung cấp nguyên liệu phụ tùng tại chỗ dưới 20%.
_ Chất lượng của lao động Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài về lao động kỹ thuật có tay nghề cao, kỷ luật lao động còn kém, năng suất lao động còn thấp, do đó thế mạnh của lao động Việt Nam đang giảm dần.
Chương III
Giải pháp về vấn đề đầu tư nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay :
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển kinh tế đối ngoại tháng 5 năm 2001 – 2005 “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại … Tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương và đa phương ”. Để thực hiện định hướng đó và các chỉ tiêu được đặt ra về kinh tế đối ngoại, cần thực hiện được một số giải pháp cả ở tầng vĩ mô và vi mô, từ chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư của Nhà nước đến chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp.
3.1. Giải pháp hoàn thiện cơ cấu đầu tư nước ngoài :
Từ lí luận về xuất khẩu tư bản ta thấy mục tiêu hàng đầu của nhà đầu tư là lợi nhuận, do vậy, họ chỉ nhằm vào lĩnh vực nhanh chóng thu lợi nhuận, những địa phương có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi. Tất nhiên cũng có những nhà đầu tư lớn, với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường trong nước, từ đó thâm nhập vào các thị trường xung quanh nên giai đoạn đầu họ có thể chấp nhận thua lỗ để có thể chở thành nhà cung cấp chính một loại hàng nào đó trong tương lai. Bởi vậy chúng ta cần kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của nhà đầu tư trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Trước mắt cần thực hiện một số giải pháp sau đây :
3.1.1. Thực hiện chiến luợc thu hút khoa học công nghệ :
Một trong những vai trò quan trọng của FDI là chuyển giao công nghệ. Chuyển giao công nghệ mang một hàm ý rộng, bao gồm không chỉ từ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà còn vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững các nguyên lý, mô phỏng và phát triển của nó. Thông qua các hình thức đầu tư, giữa các nước đã có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Đối với các nước đang phát triển, trình độ công nghệ lạc hậu thấp kém, thì FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để nhập khẩu công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài. Thông qua FDI, các nước phát triển có điều kiện xuất khẩu công nghệ trung gian và truyền thông hoặc chuyển giao công nghệ đã có phần lạc hậu ở trong nước. Các hình thức chuyển giao công nghệ thường có lợi cho cả hai bên. Phần lớn các nước đang phát triển như Việt Nam có nhu cầu đổi mới về công nghệ và do đó có những biện pháp và chính sách mở cửa nhằm đẩy mạnh FDI và muốn nhập những ngành công nghệ mới, tiên tiến. Một vấn đề quan trọng khác là FDI dẫn đến thay đổi về cơ cấu ngành trong nội bộ đất nước. Tại Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành đến nay, đã xuất hiện một số ngành hoàn toàn mới như sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy , điện tử…Đây là những ngành có khả năng thu lãi lớn, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.
3.1.2. Khuyến khích đầu tư của các công ty xuyên quốc gia :
Trong số hơn 10 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam thì 5 nước đứng đầu là các nước Châu á, trong đó Singapore chiếm vị trí số một. Vốn giải ngân từ các nước này, dẫn đến tình trạng phụ thộc vào sự phát triển của các nước trong khu vực mà thể hiện rõ nhất trong khủng khoảng 1997. Vốn giải ngân 1998 giảm 32% so với năm 1997, năm 1999 gảim 20% so với năm 1998. Trong các nhà đầu tư Châu á thì Nhật Bản đứng đầu là quốc gia đứng đầu về vốn thực hiện với 2,4 tỷ USD, chiếm 15,6% tổng số vốn thực hiện và tỷ lệ thực hiện đạt 60% vốn dăng ký. các công ty đa quốc gia từ các nước Châu á đã giảm một phần đầu tư ra nước ngoài, giảm việc mua lại các công ty nước ngoài mà thậm chí còn bỏ qua một số tài sản ở nước ngoài. Hệ quả là nguồn vốn đầu tư nước ngoài và Việt Nam trong những năm qua giảm liên tục, hàng loạt các dự án phải hoãn tiến độ thực hiện hoặc xin tạm dừng triển khai lên tới 3 tỷ USD, chủ yếu là các dự án trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê. Việc các đối tác chủ yếu là khu vực Châu á cũng gây ra những bất lợi trong việc tiếp thu công nghệ hiện đại từ các nước phát triển. Cơ cấu thu hút đầu tư quá cao từ các nước phát triển không còn phù hợp ở chính quốc và luôn luôn là nước đi sau về công nghệ. Do đó đòi hỏi phải có một chính sách khuyến khích các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam để góp phần chuyển dịch nhanh cơ cấu theo hướng CNH – HĐH, nhất là chính sách thu hút nguồn vốn và khoa học công nghệ của các công ty đa quốc gia của Mỹ và Tây Âu.
3.1.3. Xử lý linh hoạt hình thức đầu tư :
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (1988-2000)
(Tính đến ngày 31/12/2000-Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị : Triệu USD
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tổng số vốn
đăng ký
Vốn pháp định
Đầu tư thực hiện
BOT
4
415
140
37
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
134
3.932
3.331
3.214
100%vốn nước ngoài
1.434
10.554
4.637
4.789
Liên doanh
1.047
21.503
8.311
9.636
Tổng số
2.691
36.404
16.419
17.676
Nguồn :Bộ kế hoach và Đầu tư
Trong hoàn cảnh nước ta, đặc biệt là các vùng kinh tế – xã hội còn nhiều khó khăn, nguồn lực chưa được khai thác, các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế năng lực tài chính, công nghệ, trình độ quản lý và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, cần xử lý linh hoạt vấn dề hình thức đầu tư theo hướng :
Khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, các dự án có quy mô đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao, tỷ lệ lợi nhuận thấp.
Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tất nhiên việc chuyển đổi phải đảm bảo điều kiện ổn định việc làm cho người lao động, bảo toàn được vốn góp của doanh nghiệp Việt Nam.
3.1.4. Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư trên cơ sở kêu gọi vào những ngành, lĩnh vực góp phần hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế :
Công tác vận động xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và phương thức chủ động, có hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư, cũng như xúc tiến thương mại là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các bộ, ngành và địa phương, tại các cơ quan đại diện nước ta tại một số địa bàn quan trọng ở nước ngoài để chủ động vận động thu hút FDI.
Trên cơ sở quy hoạch ngành kinh tế và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được phê duyệt, cần có kế hoạch chủ động vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty nhà thầu đầu tư có tiềm năng.
Các cơ quan nhà nước có liên quan cần tổ chức, phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn đa quốc gia để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp ; đồng thời nghiên cứu luật pháp, chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp trong môi trường cạnh tranh.
Một vấn đề cũng hết sức quan trọng là các cơ quan quản lý Nhà nước cần phối hợp, tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư đang có dự án hoạt động hiện nay, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng tại Việt Nam.
Thực tiễn hơn 12 năm qua, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội, vào thắng lưọi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển của nước ta, góp phần phát huy nội lực và lợi thế so sánh, góp phần hoàn thiện cơ cấu ngành kinh tế nói chung và tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cuả nền kinh tế. Vì vậy, việc đưa ra các định hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành kinh tế tại Việt Nam phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
3.2. Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài :
3.2.1. Kiến nghị, giải pháp trước mắt :
- Đẩy nhanh, mạnh mẽ cải cách hành chính ( thể chế, bộ máy, cán bộ. tài chính công ) sao cho đơn giản, gọn nhẹ, thông thoáng theo công luật quốc tế.
Triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công kha các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lí các thủ tục hành chính như việc tuyển dụng lao động, thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh theo thông lệ quốc tế.
Quy định rút ngắn thời hạn cụ thể cho từng khâu : cấp giấy phép đầu tư, ký hợp đồng thuê đất, cấp giấy phép xây dựng, xuất nhập khẩu …
Tiến tới xây dựng cơ chế “ một cửa một dấu ” do trung tâm hoặc họi đòng tư vấn đầu tư nước ngoài gồm đại diện các Bộ, ngành chủ chốt liên quan tập trung giải quyết tại một đầu mối tất cả các thủ tục về đầu tư nước ngoài như các nước trong khu vực đang thực hiện.
- Chấn chỉnh mạnh mẽ việc thực thi pháp luật không sai biệt với quy định của pháp luật, đặc biệt là các chính sách đầu tư mới được sửa đổi, bổ sung. Tạo mọi thuận lợi và thường xuyên quan tâm giải quyết các khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Vấn đề then chốt có tính quyết định là chỉ đạo điều hành tập trung thống nhất và kiên quyết của chính phủ, việc nghiêm túc thực hiện các Bộ, Ngành, địa phương. Do vậy, cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp, bộ quản lý chuyên ngành, UBND các tỉnh, quận, huyện.
Quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài ( cấp trên đối với cấp dưới, ngành với ngành, giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ).
Tiêu chuẩn hoá cán bộ, quy định cụ thể trách nhiệm của người viên chức, thanh lọc các cán bộ biến chất, kịp thời phát hiện và l\kiên quyết xử lý các án bộ công chức Nhà nước ở bất kỳ cương vị công tác nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài dưới bất cứ mức độ và hình thức nào ( như nghị quyết TƯ VIII đã đề ra ). Phụ cấp khen thưởng cho những người có nhiều thành tích trong công tác đầu tư nước ngoài. Biểu dương các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả và có nhiều đóng góp cho Việt Nam, từ đó lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
3.2.2. Kiến nghị, giải pháp lâu dài :
_ Sửa đổi một số chính sách để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài như : tài chính ngân hàng, đất đai, lao động, thuế, xuất nhập khẩu … Ví dụ:
+ Đất đai : soát xét lại giá cho thuê đất trong một vài năm đầu ở các vùng kinh tế trọng điểm. Có chính sách đặc biệt ưu đãi vào các khu công nghiệp như : giảm giá thuê đất, giá kinh doanh hạ tầng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp được thuận lợi, nhanh chóng. Giải quyết dứt vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Chính sách đền bù ổn định, nhất quán và kiên quyết. Cần sớm chấm dứt việc các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất.
+ Tài chính, ngân hàng : tiếp tục giảm dần tỉ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện ; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với giao dịch vãng lai.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng ( cả trung hạn và dài hạn ) tại các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể đảm bảo bằng tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài ; được phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong nước và nước ngoài để thu hút vốn đầu tư. Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn ( trái phiếu, cổ phiếu ). Tiến tới việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ; ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thống kê quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp ; đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
_ Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư : Quyết định 53/1999/ QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng tiến tới áp dụng mặt bằng giá thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết cần tiếp tục giảm giá điện, cước viễn thông, cước vận tải biển … Còn một số giá, phí khác như giá vé máy bay nội địa … có thể thực hiện theo lộ trình dài hơn căn cứ vào tình hình kinh tế chung và tình hình kinh doanh cụ thể của các doanh nghiệp liên quan.
_ Bổ sung các chính sách ưu đãi có tính hấp dẫn cao đối với các lĩnh vực, địa bàn và dự án mà Việt Nam cần thu hút đầu tư nước ngoài như : công nghệ cao, xuất khẩu lớn, đầu tư và nông thôn, nông lâm thuỷ sản và các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN, KCX.
_ Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, phát triển các KCN, KCX : mở rộng danh mục dự án để lựa chọn hình thức đầu tư, chuyển đổi hình thức đầu tư. Cho chuyển nhượng, chuyển đổi mục tiêu đầu tư của các dự án không hiệu quả một cách thuận lợi, mở rộng áp dụng hình thức BOT.
_ Đổi mới và đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư : Chuẩn bị tốt các điều kiện thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ khi được quốc hội hai nước thông qua. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống, nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các ngành, địa phương chủ chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài với từng dự án, tập đoàn, nhà đầu tư có tiềm năng trên cơ sở quy hoạch và danh mục đã được phê duyệt. Nhanh chóng triển khai và thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, tập đoàn đa quốc gia, nghiên cứu pháp luật, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
Cần tập trung chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời các nàh đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.
Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh tuyên truyền hình ảnh của mình ra nước ngoài. Phỉa tăng cường xây dựng mạng lưới xúc tiến trong nước và nước ngoài. Ví dụ : Hội thảo “ Hướng tới thành công ” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tổ chức tại Singapore trong tháng 3 vừa qua ( có thể coi là hoạt động xúc tiến đầu tư lớn nhất từ trước đến nay của Việt Nam ở nước ngoài ). Qua những cuộc hội thảo như thế này, Việt Nam sẽ đưa ra được danh mục gồm nhiều dự án đầu tư nước ngoài, từ đó giúp các nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện thu hút được thêm các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài cũng cần phải dựa vào những tổ chức độc lập nước ngoài chuyên làm công tác xúc tiến đầu tư thì kết quả thu được sẽ càng cao.
_ Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài :Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp lí chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, sớm ban hành các Bộ luật về kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh và chống độc quyền …
Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chú trọng công tác đào tạo, nâng cao chất lượng, trình độ cán bộ quản lí và chuyên môn chủ chốt. Xây dựng chính sách khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá ; hoàn chỉnh hệ hống pháp luật chính sách về thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng đối với doanh nghiệp FDI …
Đảm bảo sự định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện triệt để nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của hội đồng nhà đầu tư nước ngoài
Chủ động xử lí các vấn đề về pháp lí liên quan đến việc thực hiện các cam kết của ta trong lộ trình hội nhập kinh tế.
Tiếp tục thực hiện chủ trương mở rộng phạm vi phân cấp quản lí về đầu tư nước ngoài ( bao gồm cấp giấy phép đầu tư và các phần việc liên quan đến triển khai dự án ) cho các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở làm tố công tác quy hoạch, cung cấp thông tin và kiểm tra việc thực hiện chủ trương này.
Tóm lại, trong bối cảnh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm sút, nhất là trong tình hình cạnh tranh thu hút vốn FDI quốc tế và khu vực diễn ra gay gắt, nếu chúng ta không đẩy mạnh cải cách đầu tư toàn diện và mạnh mẽ với sự nhất trí và quyết tâm chính trị cao thì khó có thể xoay chuyển được tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài chỉ là bước đầu, tiếp theo chúng ta phải thực hiện được môi trường đầu tư tại Việt Nam, tạo ra sức hấp dẫn mới đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài không ngừng đầu tư vào thị trường Việt Nam.
3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài :
Để nâng cao hiệu quả sư dụng vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta nhất thiết phải tăng khả năng tiếp nhận đầu tư nước ngoài.Khả năng tiếp nhận đầu tư nước ngoài của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghệp là một nhân tố quyết định hiệu quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ chỉ phát huy hiệu quả khi chúng ta có khả năng tiếp nhận tốt và ngược lại chúng ta có thể bị “ bội thực ” hoặc phụ thuộc vào bên ngoài nếu như chúng ta ít có khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tiếp nhận một cách có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài, đòi hỏi phải có một tỉ lệ hợp lý vốn đối ứng ở trong nước. Tỷ lệ này khác nhau tuỳ theo ngành, mức độ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào trong từng giai đoạn cụ thể.
Trong thực tế, năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự yếu kém về mọi mặt của bên đối tác Việt Nam trước các đối tác nước ngoài hùng mạnh là một bất lợi lớn của chúng ta. Những khoản mất mát, thua thiệt không thể coi là “ học phí ” được nữa mà nó là những cái giá phải trả cho sự non yếu của chúng ta. Trong các doanh nghiệp liên doanh, phần góp vốn của bên Việt Nam còn thấp, trung bình chỉ khoảng 25%. Phần góp vốn ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh doanh thuộc về chủ đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các công ty nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư các bên đối tác đầu tư Việt Nam cần tăng tỉ lệ góp vốn trong các liên doanh với nước ngoài, về lâu dài có thể mua lại cổ phần của bên nước ngoài.
Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, ngoài sự lỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, cần thiết phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính chiến lược, nó phục vụ cho lợi ích mang tính lâu dài của chúng ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, cũng như trong quá trình phát triển nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, tế bào ấy có khoẻ thì cơ thể kinh tế mới khoẻ mạnh được.
Kết luận
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới, là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. Nhu cầu đầu tư càng trở nên bức thiết trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế hiện nay. Sẽ không có sự phát triển hoàn chỉnh nếu không có sự đầu tư tư bản và công nghệ giữa các nước và khu vực trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt nam thì đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Việt nam tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế trong tình trạng lạc hậu, trình độ kỹ thuật, kết cấu hại tầng chưa phát triển, năng suất lao động thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế không đáng kể, thu nhập quốc dân theo đầu người vào loại thấp nhất trên thế giới. Xét về mặt tiềm năng, nước ta với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, đội ngũ lao động dồi dào, có vị trí địa lý thuận lợi trong khu vực, song tất cả vẫn đang ở trong dạng tiềm năng chưa được khai thác có hiệu quả vì chúng ta còn thiêú vốn, kỹ thuật công nghệ và quản lý tiên tiến. Do đó việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình thực hiện thu hút ĐTNN, bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn khó khăn, việc này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những biện pháp hết sức cụ thể để đưa con tàu Việt nam đi đúng hướng, đưa nước ta bắt kịp với sự phát triển chung của toàn thế giới.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin tập I
2.Tạp chí ngoại thương số 27, 28, 29, 30.
3.Giáo trình Luật Kinh Tế - Đại học Luật Hà nội
4.Giáo trình luật kinh tế - Đại học kinh tế quốc dân
5.Tạp chí kinh tế phát triển 11/2001, 28/2002
6.Lý luận chính trị số 5 –2001
7.thời báo kinh tế việt nam 18,19,31/2002
8.con số và sự kiện19/2002
9.Văn kiện đại hội đảng vii, viii. Ix
10.Ngân hàng thế giới – báo cáo về tình hình phát triển việt nam 1999.2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0158.doc