MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BẰNG CÔNG CỤ KINH TẾ
1.1. Quản lý nhà nước và quản lý môi trường 10
1.1.1. Quản lý nhà nước 10
1.1.2. Quản lý môi trường 12
1.1.2.1. Khái niệm quản lý môi trường 12
1.1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý môi trường 13
1.1.2.3. Phân loại các công cụ quản lý môi trường 15
1.2. Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế 17
1.2.1 Khái niệm công cụ kinh tế 18
1.2.2. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường 18
1.2.2.1. Thuế tài nguyên 18
1.2.2.2. Thuế môi trường 20
1.2.2.3. Phí và lệ phí 21
1.2.2.4. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường 22
1.2.2.5. Ký quỹ môi trường 24
1.2.2.6. Trợ cấp môi trường 25
1.2.2.7. Quỹ môi trường 26
1.2.3. Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
1.2.3.1. Kinh nghiệm các nước phát triển 27
1.2.3.2. Kinh nghiệm các nước đang phát triển 30
1.2.4. Kinh nghiệm áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam 32
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về thành phố Hà Nội 35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 35
2.1.2. Dân cư và lao động 37
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế 37
2.1.3.1. Tăng trưởng kinh tế 37
2.1.3.2. Cơ cấu kinh tế 38
2.1.4. Hiện trạng môi trường 40
2.2. Thực trạng áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trườngtrên địa bàn thành phố Hà Nội 42
2.2.1. Thuế môi trường 42
2.2.2. Các loại phí 42
2.2.1.1. Phí xăng dầu 43
2.2.1.2. Phí bảo vệ môi trường đối với rác thải 44
2.2.1.3. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải 47
2.2.2. Quỹ môi trường Hà Nội 50
2.3. Đánh giá việc áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường
tại thành phố Hà Nội 52
2.3.1. Thuận lợi 52
2.3.2. Khó khăn 53CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Giải pháp về thể chế chính sách 55
3.1.1. Các giải pháp chung 55
3.1.2. Các biện pháp cụ thể 56
3.2. Giải pháp giáo dục và truyền thông 57
3.3. Một số kiến nghị 57
KẾT LUẬN 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
64 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2806 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng. Hệ thống này còn đang trong giai đoạn đề xuất thực hiện.
Đối với các doanh nghiệp, tùy từng loại hình kinh doanh sản xuất khác nhau mà có các loại thuế khác nhau.
1.2.3.2. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển
Hệ thống quản lý môi trường ở các nước đang phát triển chủ yếu dựa vào công cụ mệnh lệnh - kiểm soát, tuy nhiên trong giai đoạn gần đây nhờ sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước OECD, một số nước ở châu Á ( các nước NICs, Trung Quốc, Malayxia,…) đã bắt đầu chú ý tới các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường. Sau đây là kinh nghiệm của một số nước vào việc áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường:
Quỹ môi trường ở Thái Lan
Quỹ môi trường của Thái Lan được thành lập với số vốn ban đầu 200 triệu USD do Chính phủ Thái Lan cấp. Mục tiêu của Quỹ là giúp cho các cơ quan Chính phủ và chính quyền địa phương trong việc đầu tư và điều hành nhà máy xử lý chất thải, thông qua việc cấp tín dụng, thông tin về hệ thống kiểm soát ô nhiễm không khí, các công cụ xử lý chất thải,…
Quy định viện trợ cho các chính quyền địa phương không lớn hơn 10% tổng kinh phí đầu tư. Viện trợ cho các tổ chức phi chính phủ tối đa là 200.000 USD với tiêu chuẩn là dự án phải hỗ trợ việc quản lý môi trường địa phương, có 30% vốn đối ứng khi nhận viện trợ. Các khoản vay dành cho các doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện cho vay là lãi suất cố định 8%/năm, ân hạn nhỏ hơn 2 năm, thời hạn vay nhỏ hơn 7 năm, và là các dự án đầu tư vào xử lý rác, chưa được vay ưu đãi từ nguồn khác, có sự bảo lãnh của Bộ Tài chính hoặc các ngân hàng thương mại.
Quỹ môi trường của Thái Lan đã dùng kinh phí cho các hoạt động như: đầu tư cho việc kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường và bảo tồn ở Pattagya, Phukhet khoảng 2,1567 tỷ bạt; đầu tư cho các dự án kiểm soát ô nhiễm trên 2,2 tỷ bạt; tổng vốn đầu tư hiện nay của Quỹ là 5,27835 tỷ bạt.
Phí môi trường ở Hàn Quốc
Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm được Hàn Quốc áp dụng từ năm 1983 đối với chất thải khí và nước thải. Ban đầu thu phí được áp dụng dưới dạng phạt do không thực hiện cam kết. Cơ quan môi trường (hiện nay là Bộ môi trường) của Hàn Quốc được quyền phạt tiền các cơ sở gây ô nhiễm nếu như vi phạm tiêu chuẩn môi trường và sau khi có yêu cầu phải có biện pháp xử lý khi vẫn tiếp tục thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Từ năm 1986, biện pháp này được thay thế bằng thu phí đối với phần thải vượt tiêu chuẩn. Mức phí được xác định trên cơ sở nồng độ chất gây ô nhiễm, vị trí thải ô nhiễm, thời gian vượt tiêu chuẩn cho phép và tùy thuộc vào số lần vi phạm tiêu chuẩn. Đến năm 1990, xuất phí này được điều chỉnh để cao hơn chi phí vận hành hệ thống xử lý ô nhiễm để có tác dụng khuyến khích giảm ô nhiễm.
Phí ô nhiễm ở Singapore
Singapore có biểu giá phí ô nhiễm đánh vào nhu cầu ôxy hóa ( BOD ) và tổng chất rắn lơ lửng ( TSS ) áp dụng với tất cả các cơ sở công nghiệp. Mức phí được xác định tùy theo lượng nước thải và nồng độ các chất gây ô nhiễm. Lượng BOD và TSS cho phép được thải vào hệ thống công cộng là 400 mg/lít. Nếu cơ sở có nồng độ BOD từ 401-600 mg/lít thì phải trả xuất phí là 0,12$ Singapore/m3. Nếu nồng độ BOD từ 1601-1800 mg/lít thì phí sẽ tăng lên là 0,84$ Singapore/m3. Nếu nồng độ chất gây ô nhiễm nằm trong khoảng 601-1600 mg/lít thì xuất phí sẽ tăng lên một cấp cho mỗi 200 mg/lít.
Hạn chế của chương trình này là phí được áp dụng như nhau đối với mọi cơ sở công nghiệp, không phân biệt quy mô, cơ sở mới hay cũ.
1.2.4. Kinh nghiệm áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Việt Nam
Quỹ Môi trường Việt Nam
Quỹ Môi trường Việt Nam được thành lập từ tháng 6/2002 theo Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ cho các dự án, chương trình môi trường về nguồn vốn, tài chính, đồng thời tiếp nhận nguồn hỗ trợ từ các cá nhân, tổ chức.
Quỹ bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2003 và đến tháng 12/2004 nguồn vốn của quỹ đã lên đến 200 tỷ đồng với trên 50 đơn vị đề nghị vay vốn và tư vấn xây dựng hồ sơ vay vốn.
Trong năm 2005, Quỹ Môi trường đã cho các dự án vay vốn với mức lãi suất ưu đãi và tài trợ không hoàn lại 21 tỷ đồng. Đồng thời, quỹ cũng giành 650 triệu đồng để khắc phục ô nhiễm môi trường do hậu quả của cơn bão số 7 và số 8 tại 9 địa phương ở miền Bắc, miền Trung và Nam Trung Bộ. Hoạt động cho vay với lãi suất thấp 5,4%/năm trong thời hạn 5 năm với những dự án đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất để phục vụ công tác quản lý môi trường như xây dựng trạm xử lý nước thải ở các khu công nghiệp và nhà máy, cấp vốn tín dụng cho Công ty Môi trường đô thị Xuân Mai đầu tư hệ thống thiết bị xử lý và thu gom rác,…
Bên cạnh đó, quỹ cũng tích cực mở rộng quy mô và đa dạng hóa nguồn vốn bằng cách hợp tác cùng các tổ chức môi trường quốc tế: tổ chức phát triển quốc tế của Đan Mạch (DANIDA), chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc UNDP, UNIDO, Ngân hàng thế giới WB, …
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động quỹ gặp phải những khó khăn từ quá trình thẩm định và đánh giá công nghệ của dự án vay vốn. Nhiều dự án có công nghệ phức tạp đòi hỏi cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Có những dự án không đủ năng lực đáp ứng yêu cầu về thiết bị xử lý hay không chứng minh được tính khả thi của nguồn vốn vay.
Một số trường hợp về đền bù thiệt hại môi trường:
Đền bù thiệt hại môi trường không được coi là một công cụ trong quản lý môi trường, tuy nhiên tại điều 7 trong Luật bảo vệ môi trường năm 2005 có quy định: “… tổ chức, cá nhân gây tổn hại đến môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Và Nghị định số 26/CP của Chính phủ cũng quy định xử phạt hành chính các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Dưới đây là một số ví dụ về đền bù thiệt hại môi trường ở nước ta trong giai đoạn gần đây:
Bồi thường thiệt hại ô nhiễm môi trường do sản xuất gạch: xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có gần 100 lò gạch công suất từ 3 vạn đến 5 vạn ở khu vực bãi bồi sông Cầu, khói từ các lò gạch làm ảnh hưởng đến gần 100 mẫu ruộng của thôn Trung Đông dẫn đến giảm sản lượng lúa. Sau khi tiến hành điều tra UBND tỉnh đã quyết định chủ các lò gạch phải đền bù cho người dân là chủ các ruộng bị thiệt hại lúa là khoảng 1,6 tỷ đồng.
Công ty VEDAN đền bù thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải: công ty bột ngọt VEDAN do nước ngoài đầu tư xây dựng từ năm 1995. Công ty có xây dựng hệ thống xử lý nước thải, tuy nhiên trong quá trình sản xuất hệ thống này không hoạt động, toàn bộ nước thải được đổ trực tiếp ra sông Thị Vải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến người dân. Sau khi điều tra và giám định chất lượng nước thải Bộ Tài nguyên Môi trường đã xử phạt công ty số tiền phạt là 126 tỷ đồng. Tuy nhiên công ty mới chỉ đền bù khoảng 90 tỷ đồng.
Khai thác than gây bồi lấp các hồ chứa nước: ở Quảng Ninh, Tổng công ty Than Việt Nam tiến hành khai thác than ở hai mỏ Tùng Bạch và Mạo Khê làm trôi đất đá gây bồi lấp lòng hồ, giảm dung tích chứa nước từ 10 – 20%. Đồng thời, nước hồ cũng bị axit hóa không đảm bảo chất lượng để tưới tiêu cho nông nghiệp và sử dụng của người dân. UBND tỉnh Quảng Ninh đã buộc Tổng công ty Than ngừng khai thác và đền bù thiệt hại, khắc phục môi trường khu vực 3 xã thiệt hại số tiền là 4,35 tỷ đồng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG VIỆC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Hà Nội nằm trong vùng trung tâm của Đồng bằng châu thổ sông Hồng, phạm vi từ 20o53’ đến 21o23’ vĩ độ Bắc và từ 105o44’ đến 106o02’ kinh độ Đông. Hà Nội tiếp giáp với các tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên và Bắc Giang ở phía Đông; Hà Nam, Hòa Bình ở phía Nam; Hòa Bình và Phú Thọ ở phía Tây.
Thành phố Hà Nội bao gồm 9 quận nội thành: Hoàn Kiếm,Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên và 5 huyện ngoại thành: Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm với tổng diện tích là 921,8km2.
Hình 1: Bản đồ hành chính khu vực nội thành Hà Nội
(Nguồn: hanoimap.com)
Điều kiện địa hình
Hà Nội có cấu trúc địa chất không phức tạp, địa hình chủ yếu là đồng bằng, thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 15 đến 20 mét so với mực nước biển. Vùng đồng bằng có địa hình bằng phẳng, được bồi đắp phù sa từ lâu đời với độ dày là 90-120m. Phía Bắc Hà Nội là vùng đồi thấp và trung bình, dãy Sóc Sơn với đỉnh cao nhất là Chân Chim có độ cao 462m. Phía Tây là dãy núi Ba Vì độ cao 1270m.
Đặc điểm khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc trưng của khí hậu gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Nằm trong vùng nhiệt đới, thành phố quanh năm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn, trung bình 114 ngày/năm.
Chế độ thủy văn
Mạng lưới sông ngòi dày đặc, khoảng 0,5 km/km2, thuộc 2 hệ thống sông chính là sông Hồng và sông Thái Bình. Độ dốc của sông nhỏ, các dòng sông uốn khúc quanh co. Hệ thống sông Hồng ở địa phận Hà Nội bao gồm một số sông nhánh: sông Nhuệ, sông Cà Lồ, sông Cà Lài, sông Cầu. Ngoài ra còn có các hệ thống sông Tô Lich, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét.
Hà Nội cũng là thành phố có nhiều đầm hồ tự nhiên tạo môi trường cảnh quan sinh thái cho thành phố. Tổng diện tích ao, hồ, đầm của Hà Nội hiện còn khoảng 3600ha. Khu vực nội thành tập trung khá nhiều hồ, có tới 27 hồ, đầm; trong đó, Hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500ha, đóng vai trò quan trọng việc điều hòa sinh thái cho thành phố. Ngoài ra, còn có nhiều hồ lớn khác như Trúc Bạch, Bảy Mẫu, Hoàn Kiếm, Thiền Quang, Thủ Lệ, …
2.1.2. Dân cư và lao động
Dân số của Hà Nội tính đến ngày 31/12/2006 là 3,2836 triệu người, trong đó 9 quận nội thành là 2,0512 triệu người và 5 huyện ngoại thành là 1,2324 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,224% Mật độ dân số trunh bình của toàn thành phố là 3618 người/km2.
Về chất lượng nguồn nhân lực, thành phố Hà Nội có số người được đào tạo cao nhất trong cả nước. Số người có bằng từ sơ cấp trở lên chiếm trên 32% (cả nước là 13,3%). Số lao động có chứng chỉ ngoại ngữ là 9,66% và 8,97% số người biết vi tính.
Lao động có trình độ công nhân kỹ thuật có bằng là 10,1%, thành thị là 12,5% và nông thôn là 3,4%. Lao động có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 11% so với nguồn lao động trong đó khu vực thành thị là 17,1% và khu vực nông thôn là 2,1%. Như vậy, nguồn lao động có trình độ chuyên môn tập trung ở thành thị là chủ yếu, khu vực nông thôn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Do đó biện pháp cần đưa ra là phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, có trình độ cao và ưu tiên với các khu vực nông thôn vùng sâu vùng xa để phát huy tốt nhất các tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
2.1.3. Tình hình phát triển kinh tế thành phố Hà Nội
2.1.3.1. Tăng trưởng kinh tế
Hà Nội là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả nước, giá trị đóng góp của thành phố vào sự tăng trưởng kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước là rất lớn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thủ đô gấp 1,5 lần cả nước, đóng góp 9% vào GDP, 10,1% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; 14,5% thu ngân sách quốc gia và 9,4% tổng mức bán lẻ hàng hóa cả nước.
Trong giai đoạn 2002-2006, GDP của thành phố tăng từ 41,944 tỷ đồng năm 2002 lên 90,933 tỷ đồng năm 2006, mức tăng trưởng GDP bình quân là 10,73%/năm (so với cả nước là 6,7%).
Bảng 3: giá trị GDP của thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2002-2006
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
Giá trị GDP (tỷ đồng)
41.944
49.090
59.210
76.006
90.933
(Tổng hợp Niên giám thống kê năm 2006)
Hình 2: Biểu đồ thể hiện giá trị GDP
của thành phố Hà Nội qua các năm
2.1.3.2. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế thành phố chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP ngày càng tăng trong khi tỷ trọng các ngành nông nghiệp và dịch vụ lại giảm.
Bảng 3: giá trị và tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế của thành phố Hà Nội giai đoạn 2002-2006
Năm
Công nghiệp-xây dựng
Nông nghiệp
Dịch vụ
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
2002
15.854
37,8
1.058
2,5
25.032
59,7
2003
19.901
40,5
1.104
2,3
28.085
57,2
2004
24.013
40,6
1.116
1,9
34.081
57,5
2005
30.977
40,8
1.232
1,6
43.797
57,6
2006
37.055
40,8
1.355
1,5
52.523
57,7
(Tổng hợp Niêm giám thống kê 2006)
Hoạt động sản xuất công nghiệp
Cơ cấu ngành công nghiệp hình thành 4 nhóm ngành then chốt là cơ khí (20-23%), dệt - da - may(22-25%), lương thực - thực phẩm(16-18%), đồ điện - điện tử(5-8%). Các sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, kiểu dáng, mẫu mã được thị trường chấp nhận. Một số doanh nghiệp đã chú ý đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm nên phát triển ổn định và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.
Hà Nội có ưu thế thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, năm 2006 số vốn đầu tư xây dựng của Ngân sách Nhà nước là 6402 tỷ đồng, vốn FDI là 5800 tỷ đồng, vốn ODA là 336 tỷ đồng. Tuy nhiên, quá trình dải ngân vốn còn chậm do đó hiệu quả kinh tế chưa cao.
Nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp và nông thôn chuyển dịch theo hướng phát triển mạnh kinh tế ngoài quốc doanh, nâng cao dần tỷ trọng ngành chăn nuôi và các loại nông sản thực phẩm có chất lượng cao. Cơ sở hạ tầng nông thôn được tập trung đầu tư, nâng cấp, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn chỉ còn 3,2%, không còn hộ đói. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của nông thôn ngoại thành Hà Nội đều đạt cao hơn bình quân vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Năm 2008, giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản tăng 6,68% so với năm 2007, trong đó trồng trọt tăng 3,48%, chăn nuôi tăng 13,85%, dịch vụ nông nghiệp giảm 2,84%, lâm nghiệp giảm 5,04%.
Giá trị đóng góp vào GDP thành phố của ngành nông nghiệp tăng nhưng tỷ trọng lại giảm. Do nhu cầu phát triển kinh tế thủ đô, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, do đó cần nâng cao chất lượng sản phẩm, sử dụng các nguồn giống có năng suất cao, áp dụng khoa học kỹ thuật mới trong chăn nuôi và trồng trọt, mở rộng các ngành dịch vụ nông nghiệp, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất sản phẩm đồng thời phát triển các làng nghề truyền thống.
Dịch vụ
Hoạt động thương mại - du lịch - dịch vụ của thủ đô phát triển với tốc độ nhanh chóng. Từ năm 2001 đến 2005 tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ là 12%, giá trị đóng góp vào GDP thành phố năm 2006 là 52.523 tỷ đồng, chiếm 57,7%.
Hoạt động du lịch phát triển mạnh ở cả khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, doanh thu từ du lịch năm 2006 tăng khoảng 28% so với năm 2005, số lượng khách du lịch quốc tế vào khoảng 12 triệu người, khách nội địa khoảng 6,5 triệu khách.
Thương mại được mở rộng và nâng cao chất lượng, khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 25,8%, khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng 10,3% và doanh thu vận chuyển hàng hóa tăng 36,4%.
2.1.4. Hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội
Môi trường đất
Hiện nay môi trường đất của thành phố Hà Nội có tình trạng ô nhiễm kim loại nặng do các nguồn thải từ hoạt động công nghiệp, hàm lượng các chất độc hại, kim loại nặng nhiều. Nước thải được thải trực tiếp ra các sông từ đó gây ô nhiễm đất. Ngoài ra, ô nhiễm đất còn do các chất thải nông nghiệp, nhất là việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, do khai thác nước ngầm thiếu quy hoạch, không kiểm soát chặt chẽ.
Môi trường nước
Môi trường nước mặt: hiện nay do áp lực của việc gia tăng dân số, công nghiệp hóa, đô thị hóa dẫn tới tình trạng các sông hồ của Hà Nội bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, nước thải bệnh viện được đổ thẳng ra các sông, hồ mà không qua hệ thống xử lý, trong đó 90% nước thải công nghiệp có hàm lượng độc hại đổ trực tiếp mà không qua xử lý.
Môi trường nước ngầm: do 40% nguồn nước ngầm là từ các sông, hồ nên tình trạng nguồn nước ngầm của thành phố cũng rơi vào tình trạng ô nhiễm, hàm lượng amoni , nitrat, nitrit, độ oxy hóa… đã vượt nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Tầng nước ngầm dưới (cách mặt đất từ 45 m đến 60 m) là nguồn cung cấp cho các nhà máy cũng bị nhiễm bẩn. Hiện các nhà máy nước Hạ Đình, Tương Mai, Pháp Vân, Linh Đàm đã bị nhiễm amoni và có hàm lượng sắt cao 1,2-19,5 mg/l.
Môi trường không khí
Ô nhiễm không khí của thành phố Hà Nội thực sự nghiêm trọng, ô nhiễm bụi có nguyên nhân từ khí thải các phương tiện giao thông, các công trình xây dựng. Theo kết quả quan trắc của Sở Tài nguyên và Môi trường thì nồng độ bụi trung bình 1 giờ tại nhiều tuyến đường khoảng 0,5mg/m3, trong đó khoảng 60% số kết quả vượt quá tiêu chuẩn Việt Nam và 25% vượt quá tiêu chuẩn Việt Nam trên 2 lần. Hoạt động sản xuất công nghiệp cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm không khí, nhất là phát thải khí SO2. Khí thải ô nhiễm phát sinh từ các nhà máy, xí nghiệp chủ yếu do quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch như than, dầu.
Thực trạng áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Thuế môi trường
Điều 112 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định các đối tượng chịu thuế môi trường là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế môi trường.
Thuế môi trường đã được quy định trong Luật bảo vệ môi trường, tuy nhiên cho đến nay thì vẫn chưa được thực hiện trong thực tế. Hiện tại, Chính phủ vẫn đang nghiên cứu để hoàn thiện danh mục tính thuế môi trường và mức thuế suất phù hợp.
Việc thu phí, lệ phí như hiện nay không hiệu quả và không có tác dụng lớn trong công tác bảo vệ môi trường. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải cũng mới chỉ được áp dụng ở một số tỉnh, thành phố mà chưa triển khai trên phạm vi cả nước. Việc thực thi không đồng bộ làm giảm ý thức của người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc xây dựng hệ thống Luật thuế môi trường thì về cơ bản Luật dựa trên các sắc thuế về năng lượng để giảm bớt khí thải nhà kính và các khí độc hại với môi trường. Theo đó, việc sử dụng các chất hóa học gây ô nhiễm nguồn nước, thoái hóa đất đều phải đóng thuế, và việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu cũng bị đóng thuế.
Các loại phí
Ở nước ta, cơ sở pháp lý cho việc áp dụng công cụ phí và lệ phí môi trường được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường thông qua ngày 27/12/1993 và được sửa đồi năm 2005, Pháp lệnh về Phí và Lệ phí ban hành tháng 8/2001. Trong 72 loại phí thì có khoảng 16 loại phí liên quan đến công tác bảo vệ môi trường, trong số 42 loại lệ phí có khoảng 10 lệ phí liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường. Cho đến nay mới chỉ có một số phí và lệ phí là được áp dụng trong thực tế. Cụ thể, trên địa bàn Hà Nội có phí xăng dầu, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, phí thu gom rác thải.
2.2.2.1. Phí xăng dầu
Ngày 16/12/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2000/NĐ-CP về phí xăng dầu, hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Đây là một trong những loại phí có nguồn thu lớn, thay thế cho chế độ thu lệ phí giao thông thu qua giá xăng dầu trước đây nhằm hạn chế tiêu dùng các chất gây ô nhiễm môi trường.
Theo quy định thì đối tượng chịu phí là xăng, dầu, mỡ nhờn xuất, bán tại Việt Nam. Đối tượng nộp phí là các tổ chức, cá nhân nhập khẩu (kể cả lượng xăng dầu ủy thác), sản xuất, chế biến (bao gồm cả xuất để tiêu dùng nội bộ, xuất để trao đổi sản phẩm hàng hóa khác, xuất trả hàng nhập ủy thác, bán cho tổ chức, cá nhân khác).
Mức thu phí được thực hiện như sau:
+ Xăng các loại, bao gồm xăng ô tô, xăng máy bay, xăng công nghiệp và các loại xăng khác: 500 đồng/lít.
+ Dầu Diezel: 300 đồng/lít.
Số tiền phí thu được nộp vào Kho bạc nhà nước được điều tiết 100% về Ngân sách trung ương.
Theo số liệu của Công ty xăng dầu khu vực I thì sản lượng xăng dầu xuất bán trên địa bàn thành phố Hà Nội là:
Bảng 4: Sản lượng xăng dầu xuất bán trên địa bàn Hà Nội
Năm
Tổng số (m3)
Xăng (m3)
Dầu (m3)
2000
268.035
74.338
99.190
2002
361.005
128.030
95.060
2004
441.225
191.458
138.128
Tính phí theo công thức:
Số phí thu = Lượng xuất bán x Mức phí
(nghìn đồng) (m3) (nghìn đồng/m3)
Bảng5: Tổng số phí xăng dầu thu được
Năm
2000
2002
2004
Mức phí thu được
(tỷ đồng)
71,896
85,954
126,501
(Tác giả tính toán)
Với nhu cầu sử dụng nhiên liệu ngày càng tăng như hiện nay thì số tiền thu được từ phí xăng dầu là không nhỏ. Tuy nhiên, suất phí thu theo mỗi đơn vị xăng dầu thấp như vậy thì không tạo được hiệu quả về môi trường, lượng nhiên liệu tiêu thụ không giảm bớt, lượng khí thải tạo ra rất lớn và mục tiêu giảm bớt khí thải không đạt được.
2.2.1.2. Phí bảo vệ môi trường đối với rác thải
Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 27/11/2007 của Chính phủ quy định về mức phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn. Trong đó quy định mức phí phải nộp với từng nhóm đối tượng. Đơn vị thu phí là các công ty môi trường đô thị của thành phố, các đơn vị này thực hiện công tác thu gom và xử rác thải đồng thời đảm nhiệm việc thu phí từ các đối tượng tạo chất thải.
Trên địa bàn thành phố Hà Nội khối lượng rác thải phát sinh hàng ngày rất lớn. Theo số liệu của Công ty Môi trường đô thị Hà Nội (URENCO) thì chỉ tính riêng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình, khối lượng thu gom lên tới hơn 2500 tấn/ngày đêm.
Bảng 6: khối lượng rác thải phát sinh năm 2006
Nguồn phát sinh
Khối lượng (tấn/ngày)
Khối lượng (tấn/năm)
Tỷ lệ
(%)
Chất thải sinh hoạt
2350
803.000
58,43
Chất thải công nghiệp
350
128.000
8,7
Chất thải xây dựng
950
347.000
23,62
Chất thải y tế nguy hại
2
720
0,05
Phân bùn bể phốt
370
135.000
9,2
(Nguồn: URENCO)
Đối với rác thải sinh hoạt:
Công ty Môi trường đô thị trực tiếp đến các hộ dân để thu phí thu gom rác thải hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm.
Mức phí thu gom được tính theo số nhân khẩu.
Với các hộ dân ở mặt đường mức phí là 3000 đồng/tháng
Với các hộ dân ở trong ngõ mức phí là 2000 đồng/tháng
Tổng số phí thu được = Số nhân khẩu x Số hộ x Mức phí
(đồng) (người) (hộ) (đồng/tháng)
Ở khu vực nội thành thì tỉ lệ thu phí đạt 90%, còn các huyện ngoại thành thì tỷ lệ này thấp hơn nhiều chỉ khoảng 60%.
Bảng 7: Doanh thu từ phí thu gom rác thải sinh hoạt
Công ty
Doanh thu từ phí
(triệu đồng)
URENCO
3985
Công ty cổ phần Thăng Long
1625
Công ty cổ phần Tây Đô
738,81
Phí thu gom rác thải hiện nay được triển khai theo hình thức bao cấp trong quản lý, mỗi hộ gia đình chỉ phải đóng 10.000 - 15.000 đồng/tháng rồi có thể đổ thải thoải mái với đủ các loại chất thải sinh hoạt, chất thải nguy hại, túi ni lông mà không cần phân loại. Cách tính phí như vậy không hiệu quả cả về mặt kinh tế cũng như mục tiêu giảm chất thải bảo vệ môi trường.
Đối với các công ty môi trường đô thị thì số tiền phí thu được từ các hộ gia đình quá thấp không đủ để chi phục vụ cho công tác thu gom, xử lý chất thải.
Đối với các chất thải xây dựng, chất thải công nghiệp, chất thải y tế thì mức phí thu gom thường được thỏa thuận giữa một bên là các đơn vị thu gom và các bên tạo nguồn thải. Mức phí thỏa thuận giữa hai bên thường thấp hơn mức phí quy định chung, tuy nhiên nếu hai bên không đưa ra được mức phí thỏa thuận thì sẽ áp dụng mức phí theo quy định.
Thành phố Hà Nội đã thực hiện thông thư từ Bộ Tài Nguyên và Môi trường, chủ trương thắt chặt dần công tác quản lý chất thải rắn nguy hại từ chủ nguồn thải cho đến các đơn vị hành nghề vận chuyển, xử lý, tiêu thụ chất thải nguy hại. Tuy nhiên, cho đến nay việc quản lý vẫn chưa hiệu quả và chỉ có khoảng 80 doanh nghiệp chịu đứng ra đăng ký là chủ nguồn thải, chủ yếu là các doanh nghiệp lớn. Chi phí xử lý chất thải nguy hại là 6 triệu đồng/tấn, một mức giá khá cao nên các doanh nghiệp thường chốn tránh và tìm đến các cơ sở xử lý nhỏ không đủ năng lực xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Các chất thải xây dựng, chất thải công nghiệp và chất thải y tế có mức phí tương đối cao nên một bộ phận những tổ chức, cá nhân thiếu ý thức đổ trộm rác ra lòng đường, vỉa hè, nơi công cộng, với những đối tượng như vậy thì không thể thu phí thu gom. Đồng thời, các công ty, xí nghiệp môi trường đô thị thiếu về thiết bị, phương tiện thu gom và tải trọng nhỏ, cũ, hỏng,… nên mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu thực tế.
2.2.1.3. Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Ngày 13/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và ngày 18/12/2003 Bộ Tài chính và Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã có Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP, theo đó Nghị định có hiệu lực từ ngày 01/01/2004.
Theo Nghị định số 67 thì đối tượng áp dụng tính phí là nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp. Theo đó, các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất phải đóng một khoản phí trả cho việc xả nước thải ra môi trường.
Đối với nước thải sinh hoạt:
Do đặc thù nước thải sinh hoạt là tương đối giống nhau ở các hộ gia
đình, công sở, nên mức phí được tính theo tỷ lệ % giá bán với 1m3 nước cấp (tối đa là 10%) mà các hộ gia đình, công sở đó sử dụng.
Như vậy, với 1m3 nước có giá 3000 đồng thì người sử dụng phải đóng thêm khoản phí bảo vệ môi trường tối đa là 300 đồng.
Số phí thu = Khối lượng nước sử dụng x Mức phí x 10%
(đồng) (m3) (đồng/m3)
Số tiền phí thu được của công ty cấp nước được giữ lại tối đa là 10% số phí để phục vụ cho công tác thu phí. Còn lại 90% số phí sẽ được nộp vào Kho bạc nhà nước, trong đó 50% nộp vào Ngân sách trung ương để hình thành Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, 50% còn lại được UBNDTP giữ lại để phục vụ cho hoạt động bảo vệ môi trường của thành phố.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 18 nhà máy cung cấp nước sạch với tổng lượng nước cung cung cấp là 550.000 m3/ngày đêm. Tuy nhiên, do hệ thống cấp nước quá cũ và lạc hậu nên tỷ lệ hao hụt nước lên tới gần 50%.
Đối với nước thải công nghiệp
Do mỗi loại có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau nên không thể tính đồng đều nước thải công nghiệp như nước thải sinh hoạt mà tính theo khối lượng các chất gây ô nhiễm. Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải được tính theo bảng sau:
Bảng 8: Mức phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
STT
Chất gây ô nhiễm có trong nước thải
Ký hiệu
Mức thu (đồng/kg chất gây ô nhiếm có trong nước thải)
Tối thiểu
Tối đa
1
Nhu cầu ôxi sinh hóa
BOD
100
300
2
Nhu cầu ôxi hóa học
COD
100
300
3
Chất rắn lơ lửng
TSS
200
400
4
Thủy ngân
Hg
10.000.000
20.000.000
5
Chì
PB
300.000
500.000
6
Arsenic
As
600.000
1.000.000
7
Cadmiun
Cd
600.000
1.000.000
(Nguồn: Nghị định 67/2003/NĐ-CP)
Số phí thu = Tổng lượng nước thải x Hàm lượng chất gây ô nhiễm x Mức phí
Số phí thu được sẽ trích 20% cho đơn vị tổ chức thu phí là Sở Tài Nguyên Môi trường, trong đó:
5% tổng số tiền phí được sử dụng cho công tác quản lý và trang trải chi phí cho việc thu phí.
15% còn lại được sử dụng để trang trải cho việc đánh giá, lẫy mẫu phân tích nước thải phục vụ cho việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất với nước thải công nghiệp từ lần thứ 2 trở đi.
Các đối tượng chịu phí nước thải gồm:
Cơ sở sản xuất công nghiệp
Cơ sở chế biến nông sản
Các khu công nghiệp
Cơ sở sản xuất làng nghề
Cơ sở chăn nuôi công nghiệp tập trung
Cơ sở sửa chữa ô tô xe máy tập trung
Bệnh viện
Thành phố Hà Nội có khoảng 3000 đơn vị thuộc đối tượng nộp phí nước thải với tổng lượng nước thải là 120.000 m3/ngày đêm, trong đó chỉ có 20% lượng nước thải được qua hệ thống xử lý, còn lại được đổ thẳng ra hệ thống sông hồ của thành phố.
Với trên 20000 cơ sở đăng ký sản xuất kinh doanh có 3000 doanh nghiệp trong danh sách nộp phí nhưng chỉ có 200 cơ sở tự nguyện đăng ký nộp phí với tổng mức phí thu được là 700 triệu đồng. So với mức phí thu được của thành phố Hồ Chí Minh (2,3 tỷ đồng), Cần Thơ (8 tỷ đồng), Quang Ninh (4 tỷ đồng) thì số tiền phí thu được của thành phố Hà Nội là rất thấp. Tỷ lệ thu phí đạt thấp (6,6%) do một số nguyên nhân như sau:
Số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô vừa và nhỏ của thành phố rất lớn (chiếm 90%), với các cơ sở hoạt động như vậy thì việc thống kê, đo đạc và kiểm tra chất lượng nước thải là rất khó thực hiện. Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp này thường trốn tráng không kê khai nộp phí nước thải để giảm chi phí đầu vào.
Với khoảng 80 doang nghiệp lớn thì mức phí do các doanh nghiệp tự kê khai cũng nhỏ hơn nhiều so với số thuế thực phải nộp.
Nước thải của các cơ sở sản xuất bao gồm cả nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, do đó để có thể bóc tách riêng nước thải công nghiệp để xác định mức thu phí là rất khó khăn.
Công tác quản lý chưa chặt chẽ, thiếu sự giám sát đối với các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đồng thời, do hạn chế về thiết bị, đội ngũ cán bộ tiến hành quan trắc thẩm định chất lượng nước thải nên không thể tiến hành đo đạc ngay tại cơ sở , quá trình kiểm định diễn ra chậm chạp.
Thiếu chế tài xử phạt, đối với những cơ sở không nộp phí thì các cơ quan hữu quan không có chế tài để xử phạt theo quy định pháp luật.
Quỹ môi trường Hà Nội
Quỹ môi trường thành phố Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 48/2000/QĐ-UB ngày 15/2/2000 của UBNDTP Hà Nội. Ban đầu quỹ môi trường được thành lập với mục đích hỗ trợ tài chính để đầu tư công nghệ xử lý chất thải, đổi mới thiết bị máy móc để cải thiện chất lượng môi trường ở khu công nghiệp Thượng Đình và các vùng lân cận. Chính phủ Thụy Sĩ và Cơ quan phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đã hỗ trợ dự án thành lập Quỹ môi trường Hà Nội, nằm trong dự án quốc gia VIE/007.
Giai đoạn đầu hoạt động của quỹ gặp nhiều khó khăn do thiếu khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách cũng như chưa có kinh nghiệm điều hành và sự phối hợp giữa các cơ quan và tổ chức liên quan. Tuy nhiên, với số vốn hỗ trợ 100.000 USD thì Quỹ môi trường Hà Nội sau 2 năm cũng đã đạt được một số kết quả như sau:
Về hoạt động hỗ trợ không hoàn lại:
Cấp kinh phí 20 triệu đồng cho Dự án Nạo hút bể phốt cho 5 khu nhà thuộc khu tập thể nhà máy thuốc lá Thăng Long, phường Thượng Đình.
Cấp kinh phí 23 triệu đồng cho Dự án Trang bị thùng rác có nắp đậy thuộc cụm 1 và cụm 11 phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân.
Cấp kinh phí 60 triệu đồng cho Dự án Cải tạo ao tù làm vườn hoa, sân chơi do UBND Phường Khương Đình làm chủ đầu tư.
Hoạt động cho vay với lãi xuất ưu đãi:
Cho Công ty Thủy tinh Hà Nội vay 400 triệu đồng để đầu tư dây chuyến thiết bị hiện đại của Cộng hòa Séc trong dự án Đầu tư bổ sung thiết bị tại phân xưởng mài hoa va đánh bóng thủy tinh. Dự án thực hiện nhằm làm giảm tiếng ồn xuống dưới tiêu chuẩn cho phép.
Cho Công ty Giày Thượng Đình vay 400 triệu đồng trong dự án Đầu tư nhằm giảm thiểu ô nhiễm cài thiện chất lượng môi trường và nâng cao sức khỏe cho người lao động. Nhiều hạng mục đầu tư đã làm cho chất lượng môi trường của công ty được cải thiện rõ rệt, sức khỏe công nhân và hiệu quả sản xuất cũng được nâng cao.
Cho Công ty dệt 19/5 vay 400 triệu đồng trong thời hạn 3 năm để triển khai dự án Đầu tư bổ sung thiết bị môi trường trong đầu tư mở rộng thiết bị nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất. Với một phần kinh phí vay của Quỹ, Công ty đã đầu tư một dây chuyền sản xuất, trong đó có hệ thống hút bụi phân xưởng dệt sợi, đặc biệt hữu ích với môi trường và sức khỏe người lao động.
Các hoạt động khác:
Tổ chức hội nghị tuyên truyền, giới thiệu về Quy chế quản lý và hoạt động của Quỹ với sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp, UBND các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, các cơ quan phát thanh và truyền hình…
Tham gia trưng bày các kết quả hoạt động của Quỹ tại các hội nghị về môi trường và phát triển bền vững.
Tham gia hội nghị tổng kết Dự án Những vấn đề môi trường, với tư cách là Quỹ môi trường địa phương giai đoạn thử nghiêm.
Tham dự nhiều cuộc hội thảo như: Hội thảo bàn về Phí và Quỹ bảo vệ Môi trường quốc gia, Hội thảo quy hoạch phát triển cho các đô thị và các hoạt động xã hội hóa môi trường…
Ngoài ra Quỹ còn tích cực tham dự các lớp tập huấn về sản xuất sạch hơn, về ISO 14000, tham gia dự án triển khai hoạt động quản lý ô nhiễm tại Hà Nội do Dự án VCEP tổ chức…
Sau 2 năm hoạt động, Quỹ Môi trường Hà Nội đã thực hiện tốt chức năng hỗ trợ về mặt tài chính cho các dự án nhằm cải thiện chất lượng môi trường. Các mục tiêu cơ bản đã đạt được, hỗ trợ cho hoạt động cải thiện môi trường, tuyên truyền về hoạt động của quỹ, giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động của quỹ cũng còn những tồn tại nhất định do:
Thủ tục cho vay đòi hỏi dự án phải đảm bảo tiền vay như trong quy định vay vốn của các tổ chức tín dụng. Trong thực tế, có nhiều dự án không đáp ứng được yêu cầu của quỹ nên không thể vay vốn đầu tư dự án.
Nguồn vốn hoạt động của quỹ không lớn do đó với mỗi dự án chỉ có thể hỗ trợ tối đa không quá 10% số dư của quỹ tại thời điểm hỗ trợ và tổng giá trị hỗ trợ không quá 20%. Như vậy, nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án thường nhỏ, hầu hết chỉ dừng lại ở các dự án cải tạo hệ thống cơ sở thiết bị, chất lượng môi trường.
2.3. Đánh giá việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.3.1. Thuận lợi
Có cơ sở pháp lý cụ thể: việc áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường có căn cứ pháp lý và được quy định trong các văn bản pháp quy của quốc gia.
Những căn cứ pháp lý cơ bản của việc áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường bao gồm Luật bảo vệ môi trường 2005, Nghị định 175/CP hướng dẫn thực thi Luật bảo vệ môi trường, Pháp lệnh phí và lệ phí của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 38/2001/PL-UBTVQH ngày 28/8/2001 và Nghị định số 57/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/06/2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí.
Học tập và tiếp thu kinh nghiệm từ các nước phát triển trên thế giới: quản lý môi trường bằng các công cụ kinh tế đã được áp dụng ở các nước phát triển từ rất lâu, đặc biệt là nhóm nước thuộc OECD đã áp dụng từ những năm 1970. Các công cụ thuế và phí được thực thi rộng rãi ở hầu hết các nước trong một thời gian dài và đã thu được những kết quả đáng kể. Công cụ kinh tế thực sự phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, tính mềm dẻo và linh hoạt kích thích nhà sản xuất đầu tư công nghệ mới thân thiện với môi trường giảm các chất thải gây ô nhiễm.
Chi phí ban đầu thấp: công cụ kinh tế dựa trên nguyên tắc của cơ chế thị trường nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường với chi phí thấp hơn. Đối với các cơ sở sản xuất tạo chất thải, khi áp dụng công cụ kinh tế sẽ tính toán được chi phí kiểm soát ô nhiễm từ các loại chất thải khác nhau.
Thực hiện dễ dàng và đạt được kết quả nhanh chóng: so với các công cụ pháp lý thì việc sử dụng công cụ kinh tế mang lại kết quả nhanh hơn và hiệu quả cao hơn. Đồng thời các doanh nghiệp và cộng đồng dễ dàng chấp nhận hơn do quá trình tiến hành đơn giản, thuận tiện, chi phí không cao phù hợp với khả năng của đối tượng thực hiện. Các thủ tục hành chính đơn giản, tiện lợi và tạo được sự chủ động cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất.
Hệ thống cơ sở vật chất đô thị tương đối thuận lợi: hệ thống giao thông thuận tiện và các phương tiện vận chuyển, thu gom rác đáp ứng được đa số nhu cầu của người dân. Hệ thống đường ống cung cấp nước được mở rộng hàng năm để cung cấp nước cho dân cư thành phố một cách tốt nhất.
Ý thức, trình độ dân trí của người dân khá cao, họ có ý thức bảo vệ môi trường. Phỏng vấn điều tra một số hộ dân thì họ sẵn sàng đóng phí để được cung cấp các dịch vụ môi trường.
2.3.2. Khó khăn
Công cụ phí và lệ phí bước đầu được áp dụng đã mang lại hiệu quả nhất định nhưng chưa thực sự cao. Các mức phí đưa ra còn thấp chưa tạo được động lực để người dân và doanh nghiệp giảm thải xuống mức tối thiểu, họ sẵn sàng trả tiền phí để thải ra môi trường mà không quan tâm tới việc gây tổn hại chất lượng môi trường.
Các quy định pháp luật và công tác quản lý còn thiếu tính chặt chẽ dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp lợi dụng sơ hở trong các luật định để thải các chất độc hại ra môi trường mà không chịu bất kỳ phí tổn nào.
Đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát có trình độ chuyên môn thiếu nhiều nên không thể theo dõi thường xuyên việc xả thải của các cơ sở sản xuất; các thiết bị và công nghệ phục vụ cho việc xác định nồng độ ô nhiễm thiếu, cũ và lạc hậu nên không đáp ứng được yêu cầu thực tế. Việc phân tích mẫu không đủ điều kiện để thực hiện hết nên chủ yếu dựa vào tinh thần tự nguyện của các doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp tìm cách để giảm mức phí phải nộp xuống mức thấp nhất.
Thiếu thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước nên hoạt động được bao cấp, chậm đổi mới và thiếu tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh nên hiệu quả.
Quyền sở hữu không được phân định rõ ràng, ở nước ta các tài nguyên và dịch vụ môi trường được coi như tài sản chung ai cũng có quyền sử dụng và không phải trả tiền. Điều này đã dẫn đến tình trạng cộng đồng không có ý thức trong việc sử dụng tài nguyên và chi trả cho các dịch vụ làm sạch môi trường.
Ý thức của một bộ phận dân cư còn thấp, hiện trạng đổ thải bừa bãi chất thải xây dựng và chất thải nguy hại mà không thể xác định đối tượng nên không thể tiến hành xử phạt hay thu phí.
Chất lượng dịch vụ chưa cao, khả năng tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp hạn chế, thiếu kinh phí để đổi mới thiết bị công nghệ, phương tiện nên hiệu quả hoạt động kinh doanh đạt thấp; đồng thời nguồn quỹ môi trường còn ít chỉ đáp ứng được một nhu cầu nhỏ so với thực tế.
CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Giải pháp về thể chế chính sách
3.1.1. Các giải pháp chung
Hoàn thiện hệ thống các quy định của Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp quy có liên quan, tiến hành sửa đổi, bổ sung vào hệ thống luật định để xây dựng các quy định mang tính chặt chẽ và toàn diện.
Tăng cường năng lực thể chế, đảm bảo sự thi hành các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Giải quyết việc chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Phân định, phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn giữa cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý địa phương.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường phù hợp đề làm cơ sở cho việc thực hiện và đánh giá tình hình thực hiện.
Đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của Quỹ bảo vệ môi trường, xây dựng Quỹ môi trường ngành và quỹ bảo vệ môi trường địa phương, hoàn thiện các quy định về thu phí như trong Nghị định 175 của Chính phủ.
Tăng cường năng lực thể chế, cơ chế khuyến khích, kiểm tra, giám sát sự tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Hoàn thiện các quy định về thanh tra, tiếp tục đào tạo nâng cao và chuẩn hóa các thanh tra viên.
Hoàn thiện chính sách quản lý tài nguyên thiên nhiên đối với các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình. Xác lập quyền sử dụng tài nguyên và xác lập các quyền lợi cũng như nghĩa vụ trong sử dụng tài nguyên và các dịch vụ môi trường.
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền và giáo dục môi trường nhằm nâng cao ý thức tự giác của người dân.
3.1.2. Các biện pháp cụ thể
Thắt chặt công tác quản lý môi trường, kiên quyết xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm đổ rác thải, nước thải gây ô nhiễm môi trường, thực thi nghiêm chỉnh theo đúng quy định của pháp luật.
Tổ chức đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ chuyên trách về môi trường; tăng cường đầu tư đổi mới hệ thống thiết bị quan trắc đo đạc kiểm soát ô nhiễm.
Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào lĩnh vực cung cấp dịch vụ môi trường.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư thay thế thiết bị công nghệ kiểm soát ô nhiễm bằng cách thực hiện chế độ ưu đãi. Đối với các doanh nghiệp đầu tư công nghệ xử lý ô nhiễm sẽ được ưởng mức phí thấp hơn so với các doanh nghiệp không đầu tư công nghệ xử lý.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ môi trường tự chủ về mặt tài chính, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Thay thế cách tính phí cũ bằng mức phí mới có tính đến chi phí bảo vệ môi trường và xử lý ô nhiễm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, đồng thời xây dựng lộ trình tăng phí cụ thể, rõ ràng.
Lồng ghép vai trò của cộng đồng vào các chính sách, quy định của Thành phố, đưa họ trở thành những nhà quản lý, tạo điều kiện để người dân giám sát hoạt động của các cơ sở tạo chất thải từ đó có phát hiện kịp thời những trường hợp cố tình thải ra môi trường các chất thải gây hại.
Tăng cường các biện pháp truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức và tinh thần tự nguyện của người dân trong công tác giữ gìn vệ sinh môi trường.
3.2. Giải pháp về giáo dục và truyền thông
Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và hoạch định chính sách các cấp, các ngành.
Thông báo thường xuyên liên tục trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, tivi,…) về tác dụng của việc sử dụng tiết kiệm tài nguyên và ý thực bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền về mức độ nguy hiểm của các chất thải nguy hại có thể gây ra đối với sức khỏe con người.
Đưa các kiến thức về bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên vào trong giáo dục ở tất cả các cấp học từ mẫu giáo đến đại học, tổ chức nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ, giáo viên.
Đối với các doanh nghiệp cần tuyên truyền về bảo vệ môi trường, cho họ nhận thức được trách nhiệm với cộng đồng, đặc biệt là quán triệt cho họ nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền và người sử dụng phải trả tiền.
3.3. Giải pháp khác
Mặc dù khuôn khổ thể chế và chính sách về môi trường nước ta chưa hoàn thiện, nhưng những điều kiện ban đầu cho việc áp dụng các công cụ kinh tế đã được thiết lập. Hệ thống quản lý đã được thiết lập từ trung ương đến địa phương, hệ thống quan trắc đang được xây dựng và mở rộng theo hướng ngày càng hoàn thiện. Các văn bản luật được bổ sung và xây dựng chặt chẽ hơn. Do đó trong thời gian tới có thể mở rộng việc áp dụng các công cụ kinh tế sau:
Tính phí theo sản phẩm:
Đây là những khoản phí được đưa vào giá bán các sản phẩm có khả năng gâu ô nhiễm môi trường trong quá trình sử dụng (có thể áp dụng phụ thu), khoản phụ thu này ràng buộc trách nhiệm với các doanh nghiệp có các sản phẩm như vậy phải có biện pháp phòng tránh, xử lý ô nhiễm (như thu hồi bao bì, dầu thải từ động cơ…). Theo đó, các cơ sở sản xuất phải cam kết thu hồi phế thải và xử lý sau khi sản phẩm hết thời hạn sử dụng. Đối với các doanh nghiệp này Nhà nước có thể giảm mức thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Thu phí du lịch:
Hiện nay, với mức lệ phí trung bình tham quan du lịch trên địa bàn thành phố là 2000 đồng/người/lần thì không hề có hiệu quả bảo vệ môi trường. Với mức phí thu như vậy thì chưa tính tới các chi phí về bảo vệ môi trường, vì vậy không tạo được ý thức bảo vệ và giữ gìn môi trường của khách tham quan, những tác động tới môi trường từ hoạt động du lịch là không nhỏ. Xây dựng một biểu phí thích hợp bao gồm cả chi phí sửa chữa, bảo tồn tôn tạo cảnh quan môi trường là rất cần thiết vừa tạo ý thức bảo vệ môi trường cho cộng đồng, khách tham quan đồng thời tạo nguồn thu cho Chính Phủ. Kết hợp với biện pháp kêu gọi sự đóng góp từ phía các công ty du lịch sẽ đạt hiệu quả cả về kinh tế và môi trường.
Phí khí thải:
Theo ước tính của Bộ Giao thông Vận tải thì mỗi ngày Thành phố Hà Nội thiệt hại 1 tỷ đồng do tình trạng ùn tắc giao thông. Hiện nay, tình trạng các phương tiện giao thông ngày càng tăng lên với tốc độ nhanh chóng (18% đối với xe máy và 12% đối với ô tô) thì mức độ ô nhiễm môi trường do khí thải thực sự báo động. Hơn nữa, các cơ sở sản xuất công nghiệp cũng là nguồn thải quan trọng gây ô nhiễm môi trường. Các khí thải từ các lò sản xuất chứa rất nhiều chất độc hại làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người dân. Do đó, việc tính phí khí thải là biện pháp cần sớm thực hiện.
Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, mức phí có thể được tính theo lượng khí phát thải và nồng độ các chất có trong 1 m3 khí thải. Đối với các phương tiện giao thông có thể tính phí dựa trên việc tiêu hao nhiên liệu của động cơ. Thực tế cho thấy các động cơ càng cũ, tuổi thọ càng cao thì lượng phát thải càng lớn. Do đó có thể kết hợp việc thu phí khí thải với việc khuyến khích người sử dụng thay thế các phương tiện đã cũ bằng các phương tiện mới thân thiện với môi trường.
Chương trình thương mại - môi trường, tạo thị trường mua bán quyền xả thải ô nhiễm
Công cụ này áp dụng đối với nước thải và khí thải. Theo đó, Nhà nước sẽ ban hành một loại giấy phép gọi là giấy phép xả thải, giấy phép này có thể được trao đổi mua bán giữa các đơn vị tạo nguồn thải. Trong hệ thống giấy phép, cơ quan hữu trách quyết định mức xả thải tối đa để đạt tới mục tiêu về chất lượng môi trường. Mức chất lượng môi trường được thể hiện thành tổng lượng xả thải cho phép, sau đó được phân bổ quyền xả thải cho các đơn vị sản xuất dưới hình thức các giấy phép. Các giấy phép sau đó được phân phối cho các cơ sở sản xuất có tiềm năng tạo ra chất thải. Mỗi giấy phép cho phép chủ sở hữu được xả thải một lượng ô nhiễm quy định. Giấy phép xả thải có thể được chuyển giao từ nguồn này sang nguồn khác. Nhu cầu được cấp giấy phép bắt nguồn từ các chi phí xử lý ô nhiễm của người xả thải, và người xả thải còn xử lý chất thải đến khi nào chi phí xử lý ô nhiễm còn nhỏ hơn hoặc bằng chi phí mua giấy phép.
Có hai cách cơ bản để thực hiện hệ thống giấy phép xả thải là bán đấu giá giấy phép, hoặc phân phối các giấy phép mà không thu tiền, sau đó sẽ xác định giá trị thông qua việc mua bán giữa những người xả thải.
Các hệ thống giấy phép có thể mua bán được có ưu điểm hơn so với hệ thống phí ô nhiễm vì chúng đảm bảo được chất lượng môi trường ở một mức độ nhất định. Một ưu điểm quan trọng khác là hệ thống này tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong các khu vực bị ô nhiễm mà không làm tăng thêm mức độ ô nhiễm.
Cơ chế thưởng phạt khuyến khích cơ sở sản xuất giảm lượng phát thải
Dựa trên cơ sở mức phát thải tối đa theo quy định của Nhà nước thì cơ sở nào giảm được lượng phát thải xuống dưới mức tiêu chuẩn cho phép sẽ được hưởng ưu đãi (thưởng) vềt tài chính, hoặc có thể giảm mức phí ô nhiễm mà đơn vị phải đóng góp. Đối với các cơ sở xả thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép sẽ bị phạt một khoản phí nhất định. Cơ chế này tạo điều kiện khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư công nghệ mới thân thiện với môi trường.
Tạo thị trường nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là danh hiệu của nhà nước dành cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm, quá trình sử dụng các sản phẩm đó có tác dụng thúc đẩy các hoạt động hướng tới việc bảo vệ môi trường.
Nhãn sinh thái đánh vào nhà sản xuất thông qua người tiêu dùng và hệ thống tiêu thụ bằng giá của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ. Mục đích của việc sử dụng nhãn sinh thái là đẩy mạnh việc tiêu dùng và sản xuất nhiều sản phẩm phù hợp về mặt môi trường hơn, thông qua việc cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin về ảnh hưởng của các sản phẩm tới sức khỏe của họ.
Trên thế giới có nhãn xanh của Singapore, nhãn thiên thần xanh của Đức, ecomark của Nhật Bản.
Nhãn sinh thái có tác động tích cực tới việc tiêu thụ sản phẩm, tâm lý khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, sự phong phú về chủng loại hàng hóa và tốc độ sản xuất hàng hóa cao thì việc tiêu thụ hàng hóa là cơ hội lớn nhất để tạo ra hiệu quả kinh tế đối với nhà sản xuất.
KẾT LUẬN
Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã được áp dụng một thời gian dài ở trên thế giới. Ở Việt Nam một số công cụ cũng được áp dụng và thu được những kết quả quan trọng.
Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường được áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội bao gồm phí thu gom rác thải, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và phí xăng dầu, quỹ môi trường, đây là những công cụ kinh tế cơ bản được sử dụng. Việc áp dụng các công cụ vừa thực hiện được mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, vừa tạo được nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đặc biệt là nó được sự đồng tình chấp nhận của cộng đồng dân cư và doanh nghiệp. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong công tác tổ chức, trình độ quản lý và trình độ chuyên môn, hệ thống thiết bị còn thiếu và lạc hậu,… nên hiệu quả đạt được thấp hơn yêu cầu đặt ra.
Trong giai đoạn hiện tại thì các công cụ quản lý môi trường đang dần được hoàn thiện và mang lại hiệu quả cao. Một số công cụ kinh tế được xây dựng và mở rộng phạm vi áp dụng trong thời gian tới.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường được đưa ra bao gồm cả công cụ chính sách vá các biện pháp về giáo dục tuyên truyền. Các công cụ trong hệ thống quản lý môi trường hỗ trợ, bổ sung cho nhau để đạt được kết quả tốt nhất.
Đề tài nghiên cứu một cách khái quát về thực trạng thực thi công tác phí và lệ phí trong quản lý môi trường, kết quả hoạt động của Quỹ Môi trường Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song đề tài nghiên cứu còn nhiều thiếu sót do hạn chế về thời gian, năng lực và kinh nghiệm nên rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện đề tài nghiên cứu
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội thời kỳ 2001-2010, Hà Nội 2001
2. Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, NXB Chính trị quốc gia 2004
3. Đổi mới quản lý kinh tế và môi trường sinh thái, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, NXB Chính trị quốc gia 1997
4. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2008
5. Nguyễn Thế Chinh, Áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường ở Hà Nội, NXB Lao động 1997
6. Nguyễn Thế Chinh, Giáo trình Kinh tế và quản lý môi trường, NXB Thống kê 2003
7. Niêm giám thống kê Hà Nội năm 2006, Hà Nội 2007
8. Trần Thanh Lâm, Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, NXB Lao động 2006
9. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật: Thực trạng áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường Việt Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện, Số 1 2006
10. Phạm Ngọc Đăng, Quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp, NXB Xây dựng Hà Nội 2008
11. Các trang web:
www.moitruong.xaydung.gov.vn
www.chatthainguyhai.net
www.dost.hanoi.gov.vn
www.vietnamnet.vn
www.nea.gov.vn
www.tcvn.gov.vn
www.oecd.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10605.doc