Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, đã từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, quá trình xuất khẩu này vẫn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra thì ngoài sự trợ giúp của Nhà nước, các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường của EU, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt may Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước, để con đường gia nhập vào WTO mở rộng hơn với Việt Nam.
49 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường eu trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dệt kim - cat.83) 6 cat đạt hơn 80% (gồm sợi tổng hợp - cat.41, áo len - nỉ - cat.5, quần - cat.6, áo khoác nữ - cat.14, ga trải giường - cat.20, quần áo bảo hộ lao động - cat.76) 5 cat thực hiện trên 70%( gồm cat.4,13,29,39,76).
Chủng loại hàng may mặc được tập trung xuất khẩu
Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mặc mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ dàng, các mã hàng nóng như: áo jacket, áo sơ mi, áo váy ... cụ thể tỷ trọng xuất khẩu sang EU là; áo jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%) áo len và áo dệt kim (3,9%) T- shirt và polo - shirt (3,4%) quần dệt kim (2,7%), bộ quần áo bảo hộ lao động (2,1%) áo khoác nam (1,8%) và áo sơ mi nữ (1,4%) ( nguồn Bộ thương mại )
Trong đó loại được đặc biệt xuất khẩu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU là mặt hàng áo jacket 2 hoặc 3 lớp.
Hình thức xuất khẩu chủ yếu
Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu vào EU chủ yếu theo hình thức gia công vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang EU thông qua các thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường nhập khẩu hoặc thuê VN gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này tạo nên sự bất cập đối với công ty VN, bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt đống sản xuất của mình về mẫu mã, chủng loại. Đặc biệt là giá cả được trả rất thấp, điều đó làm cho lợi nhuận không cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có nên chất lượng thấp, khả năng sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy tạo nên một vòng luẩn quẩn cho các doanh nghiệp VN.
Cạnh tranh với một số nước trên thị trường EU
Với tư cách là nhà xuất khẩu mới còn non trẻ, hơn nữa lại chưa phải là thành viên của WTO nên bị hạn chế hạn ngạch theo các Hiệp định song phương, chịu mức thuế suất, nhập khẩu cao... vì thế thị phần của VN ở thị trường EU còn rất nhiều bất cập và nhỏ bé. Năm 2000 đạt 0,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may của EU, đến năm 2002 là 0,8%. Các quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực sản xuất lại được ưu đãi về hạn ngạch đã chiếm tỷ trọng khá lớn vào các thị trường quan trọng như Trung Quốc: 11,5%, các nước Đông Á 6%, Ấn Độ 6% đặc biệt Thổ Nhĩ Kỳ 7,8%, Đông Nam á chiếm 4,5%.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU sau khi có Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may.
Tình hình chung của dệt may Việt Nam sau khi có Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may.
Có thể nói rằng ngay cả khi VN đã là thành viên của WTO ngành dệt may VN cũng như nhiều nước khác vẫn chịu sức ép rất lớn trước sức cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan... trong khi đó, dù đã đàm phán khẩn trương chúng ta vẫn chưa thể khẳng định VN có thể gia nhập WTO vào năm 2005. Vì vậy, rất cần tính đến khả năng VN vẫn phải chịu áp đặt quota trong năm 2005.
Khi xoá bỏ quota cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước nhập khẩu sẽ được tự do lựa chọn nơi nào có ngành dệt may cạnh tranh hơn, chọn doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn để nhập khẩu. Có dự báo cho rằng sau khi bỏ quota, giá bán các sản phẩm dệt may sẽ giảm 20% (chính xác đến đâu còn phải theo dõi, nhưng xu hướng giảm giá là điều chắc chắn. Một ví dụ cụ thể khi Hoa kỳ bỏ quota cho Trung Quốc 25 cat thì giá trung bình của các cat này giảm 48%, còn thị phần của Trung Quốc ở các cat đó tăng 9% năm 2001, lên 61% năm 2004) Đây là sức ép rất lớn đối với các nhà sản xuất dệt may.
Với nước ta, hậu quả còn nghiêm trọng hơn, thách thức và sức ép còn lớn hơn. Bởi lẽ, ngoài thách thức và sức ép mà doanh nghiệp các nước phải đối đầu, chúng ta còn phải chịu thêm sức ép do việc tiếp tục bị áp đặt quota. Việc xuất khẩu theo quota làm tăng chi phí giao dịch của các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu. Vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức sản xuất và xuất khẩu sao cho có lợi nhất, sao cho có thể phát huy được tối đa sức mạnh không chỉ của một doanh nghiệp mà của cả ngành dệt may VN. Điều này liên quan đến cách thức phân bổ quota.
Những thuận lợi mà các doanh nghiệp có được khi xoá bỏ quota: như trên đã phân tích khi bỏ chế độ quota, bản đồ xuất khẩu dệt may sẽ thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số lượng chất lượng, giá bán, thời gian giao hàng, chi phí giao dịch khi nhập khẩu thấp hơn ...
Những khó khăn mà các doanh nghiệp VN sẽ gặp phải khi xoá bỏ hạn ngạch: năm 2005 khi Trung Quốc, ấn Độ, pakistan và nói chung 147 nước thành viên WTO được xuất khẩu không cần quota, cạnh tranh để xuất khẩu sẽ gay gắt hơn, giá xuất khẩu sẽ giảm, làm cho các doanh nghiệp nhỏ khó có khả năng giữ được thị trường là các thị trường quen thuộc trước đây. Tại thị trường EU, áp lực cạnh tranh của các nước có lợi thế về sản xuất hàng may mặc như Trung Quốc, Ấn Độ cũng khiến VN chịu nhiều bất lợi.
Thị trường trọng điểm của hàng dệt may Việt Nam trước thách thức xoá bỏ hạn ngạch dệt may.
Thị trường EU là một thị trường trọng điểm đối với hàng may mặc xuất khẩu VN. Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường này luôn đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị và thị phần xuất khẩu. Nhất là sau khi VN và EU kí Hiệp định về các sản phẩm dệt may ngày 15/2/2003 và một sự kiện trọng đại khác là ngày 1/5/2004, EU đã kết nạp thêm 10 thành viên mới nâng tổng số thành viên trong EU lên 25 nước. Theo ước tính của Bộ thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc VN sang thị trường EU có thể đạt gần 1 tỷ EURO trong năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội đang mở ra cho các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng hoạt động kinh doanh ở thị trường EU thì hàng may mặc VN đang gặp khá nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Khó khăn lớn nhất là từ ngày 1/1/2005 khi hạn ngạch dệt may được xoá bỏ giữa các nước thành viên của WTO thì hàng may mặc xuất khẩu của hàng dệt may VN phải cạnh tranh gay gắt hơn. Cũng từ ngày đó sẽ có khoảng 165 mã hàng dệt may các loại được xuất khẩu tự do vào thị trường EU mà không gặp phải một trở ngại nào. Các quốc gia sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU với những lợi thế riêng của mình. Trung Quốc là một đối thủ mạnh nhất trong xuất khẩu hàng may mặc của VN tại thị trường EU, sau đó là ấn Độ và một số nước khác ở Châu Á. VN là trong những nước xuất khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới. Tuy nhiên khi hội nhập hoàn toàn vào một thị trường dệt may phi hạn ngạch, doanh nghiệp VN sẽ gặp nhiều bất lợi. Một trong những bất lợi lớn nhất là doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, tới trên 70%. Vấn đề lao động - một lợi thế chúng ta "tự hào" lâu nay cũng sẽ mất đi cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật và chi phí nhân công sẽ tăng lên do nhu cầu đào tạo tay nghề cao.
Về phía doanh nghiệp bất lợi lớn nhất là VN chưa phải là thành viên của WTO nên chắc chắn vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Chính phủ đang nỗ lực đàm phán với EU để dỡ bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may VN dù VN chưa vào WTO. Nếu đàm phán thành công hàng dệt may VN sẽ có lợi thế rất lớn ở Châu Âu. VN đã đàm phán xong với EU về việc gia nhập WTO và hiện đang đàm phán với Mỹ. Đây là hai đối tác quan trọng nhất. VN đang nỗ lực để gia nhập WTO vào năm 2005.
Một hạn chế lớn nữa của doanh nghiệp dệt may VN là chưa xác định cụ thể chiến lược cạnh tranh phù hợp với khả năng. Hầu hết các doanh nghiệp VN hiện chủ yếu sản xuất theo phương thức gia công, ít có thương hiệu riêng cho mình để tạo ấn tượng tại các thị trường chính. Doanh nghiệp VN cũng phải quen với việc nghiên cứu thị trường, xu hướng mẫu mã một cách bài bản và nâng cao khả năng thiết kế.
Các doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới các rào cản phi thuế quan như chống bán phá giá, các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hoá ... mà các nền kinh tế phát triển như EU, Hoa kỳ thường xuyên sử dụng. Rất đáng mừng là phần lớn doanh nghiệp dệt may VN đã ý thức được và có sự chuẩn bị tốt cho những rào cản này. Doanh nghiệp đã tiếp cận với các chuẩn mực quản lí quốc tế như chuẩn mực về trách nhiệm xã hội SA8000, nhiều doanh nghiệp đã được chứng nhận. Tất cả các doanh nghiệp cũng đã xây dựng công đoạn xử lí nước thải đạt yêu cầu theo chuẩn SA14000.
Bên cạnh những thách thức rất lớn, VN không phải không có những lợi thế. Nhiều nhà nhập khẩu trên thế giới nhận định sản phẩm may VN có khả năng cạnh tranh không thua kém bất kỳ nước nào, thậm chí chất lượng còn nổi trội hơn Trung Quốc.
PHẦN BA
GIẢI PHÁP CHO XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG XU HƯỚNG XOÁ BỎ HẠN NGẠCH DỆT MAY
I. Về phía Nhà nước
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước chính là chủ thể bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia vào hội nhập. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp dệt may nhà nước nên có sự quan tâm hơn về quyền lợi của các doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường thế giới, nhất là quyền lợi về kinh tế. Bên cạnh đó, ở trong nước, Nhà nước cũng nên tạo điều kiện về môi trường pháp lý, chính trị, xã hội, kinh tế cho các doanh nghiệp này hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Muốn vậy phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp đồng bộ sau:
Đảm bảo quyền lợi kinh tế trong và ngoài nước
1.1 Chính sách về kinh tế:
Đó là sự can thiệp của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế-xã hội theo những mục tiêu nhất định. Đối với ngành dệt may, mục tiêu chính là có chỗ đứng vững chắc trên trường quốc tế.
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng quy mô sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm dệt may có chất lượng tốt, số lượng nhiều. Mở rộng và đa dạng hoá thị trường cung ứng vốn ví dụ như ngoài các nguồn vốn tự có do tiết kiệm của doanh nghiệp, từ tổ chức tín dụng…Nhà nước có thể phát triển mạnh hơn thị trường chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu…Để huy động vốn nhanh và dễ dàng hơn, Nhà nước phải hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, đầu tư vào các công trình xử lý nước thải. Quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới, đào tạo và nghiên cứu, xây dựng các viện, các trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may. Đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực sợi, dệt, in, nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may cần phải được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó: 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, 50% còn lại vay theo quy định của quỹ hỗ trợ.
Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động.
Xây dựng các chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Việc xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu các mặt hàng không hạn ngạch sang các thị trường có hạn ngạch, xuất khẩu hàng sử dụng vải nguyên phụ liệu sản xuất trong nước…cần được hết sức chú ý và có chính sách hỗ trợ riêng biệt(Ngoài chính sách hỗ trợ chung của Nhà nước cho hàng xuất khẩu như hỗ trợ lãi suất, thưởng theo kim ngạch)…Cụ thể là xuất khẩu sang các thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu mặt hàng không hạn ngạch sang thị trường có hạn ngạch, mặt hàng mới, thị trường mới, tăng trưởng cao được hưởng chính sách hỗ trợ xuất khẩu theo quy định hiện hành (thưởng xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu). Ưu tiên hạn ngạch cho các mặt hàng xuất khẩu mà sản phẩm được sản xuất bằng nguyên liệu trong nước, hợp đồng ký trực tiếp với EU, Hoa Kỳ, xuất khẩu sản phẩm không hạn ngạch sang thị trường Hoa Kỳ.
Nhà nước phải tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán để được tăng hạn ngạch hoặc xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với Việt Nam. Đồng thời tạo điều kiện khuyến khích tối đa các doanh nghiệp của EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam.
Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh hàng dệt may Việt Nam, quảng cáo thương hiệu trên thị trường thế giới thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm và đặc biệt là thông qua trang Web của thương vụ Việt Nam tại các nước là hết sức quan trọng. Nhà nước cần phải có chính sách thích hợp nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ Việt kiều tại các quốc gia nhập khẩu hàng dệt may, thiết lập các kênh phân phối, điều tra, nghiên cứu thị trường và quảng bá sản phẩm rộng rãi trong công chúng. Việt kiều sẽ là cầu nối tuyệt vời đưa sản phẩm may mặc Việt Nam vào các hội chợ triển lãm, các trung tâm thương mại trên thế giới.
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức, hoạt động và quản lý theo hội, và Nhà nước nên có quy định, chính sách rõ ràng cho các hội này. Hội được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức cùng ngành nghề, cùng chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên hoạt động thường xuyên nhằm bảo vệ quyền, lợi ích cho hội. Khuyến khích các doanh nghiệp dệt may nhỏ và yếu kém sát nhập lại nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh, duy trì được hoạt động của mình, đảm bảo công việc cho người lao động, thu lợi nhiều hơn.
1.2. Đảm bảo chính sách thuế thích hợp
Mục đích chính sách thuế của Nhà nước là quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả của các hoạt động xuất khẩu, góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Nhà nước cần phải xác định căn cứ tính thuế sao cho phù hợp, tuỳ thuộc vào số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu. Giá tính thuế phải dựa trên cơ sở rõ ràng, đối với hàng xuất khẩu dệt may là giá bán tại cửa khẩu theo hợp đồng, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng nước ngoài dùng để xác định giá tính thuế là tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế.
Chính phủ cần có biện pháp xử lý nghiêm các vi phạm thuế cho hợp lý, cán bộ thuế, cá nhân khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng, tham ô tiền thuế xuất khẩu, phải có bồi thường cho Nhà nước toàn bộ số tiền đã chiếm dụng, tham ô, tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp các doanh nghiệp dệt may không đồng ý với số thuế đã được thông báo chính thức thì có quyền khiếu nại lên cơ quan thu thuế trung ương để giải quyết, nếu vẫn không đồng ý thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ tài chính, quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính là quyết định cuối cùng.
1.3 Chính sách về tỷ giá và lãi suất cho vay.
Chính sách có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may ra thị trường thế giới sẽ thu về ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động, thay đổi sẽ gây ảnh hưởng đến quyết định của doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp khó có thể ra được quyết định nhanh chóng và kịp thời do vậy buộc Nhà nước phải có chính sách cho phù hợp đảm bảo tính ổn định tương đối cho tỷ giá. Cần thông tin cho các doanh nghiệp thường xuyên để theo dõi và có phản ứng chính xác. Nghiên cứu thị trường dự báo xu hướng tỷ giá trong tương lai để có thể chủ động thay đổi chính sách sao cho phù hợp, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động.
Về lãi suất cho vay, Nhà nước cần phải phối hợp với các ngân hàng để có chính sách về lãi suất cho vay phù hợp. Như giảm lãi suất cho vay, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lượng xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường thế giới. Tăng lượng vốn cho vay đối với các doanh nghiệp dệt may. Khi có sự thay đổi về lãi suất cần có sự thông báo rõ ràng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đơn giản hoá các thủ tục, giải quyết kịp thời nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu kỹ tình hình, điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện kinh doanh để đặt ra một mức lãi suất cho phù hợp…
Với những chính sách về tỷ giá và lãi suất thích hợp, ngành dệt may Việt Nam sẽ có những bước đi vững chắc hơn trên con đường hội nhập kinh tế thế giới.
2. Tạo môi trường chính trị, xã hội và pháp lý thuận lợi
Trong bất kỳ một xã hội nào, môi trường chính trị ổn định, các thiết chế chính trị và pháp luật vững chắc đóng vai trò là những điều kiện tiên quyết quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vói chung và ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới hơn nữa về chính trị - xã hội, văn hoá, tư tưởng cải cách nền hành chính quốc gia. Cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Một xã hội ổn định là điều kiện cần thiết đối với các doanh nghiệp dệt may trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Xây dựng khuôn khổ pháp lý …. Cho các doanh nghiệp dệt mayVN nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Hoàn thiện và bảo đảm quyền tự chủ, quyền tự do liên doanh, liên kết trong các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp dệt may. Quyền tự chủ ở đây là quyền quyết định kế hoạch kinh doanh, quyền tự do kí kết hợp đồng kinh tế, quyền tự chủ về tài chính, giá cả và quyền tự do liên doanh liên kết.
Cải cách nền hành chính Quốc gia, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Xoá bỏ nhiều loại giấy phép không cần thiết, sắp xếp lại một số cơ quan thuộc chính phủ cùng nhiều cơ quan tư vấn, phối hợp liên ngành. Thành lập cơ qnan nghiên cứu, phân tích nhằm nắm bắt thông tin nhanh chóng ở thị trường thế giới giúp doanh nghiệp dệt may kịp thời ra các quyết định chính xác.
II. Về phía Bộ Thương Mại
Bên cạnh vai trò của Nhà nước, Bộ Thương Mại cũng có một vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may. Vai trò đó được thể hiện rõ trong việc điều hành, quản lý, phân bổ hạn ngạch, trong xúc tiến thương mại, trong giải quyết các tranh chấp, vi phạm. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Bộ thương mại còn thực hiện các giải pháp sau
1. Trong phân bổ hạn ngạch dệt may
1.1.Quản lý việc phân bổ hạn ngạch
Trong quá trình quản lý phân bổ hạn ngạch, Bộ Thương Mại cần tăng cường chỉ đạo trực tiếp và có sự phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ Thương Mại (Văn phòng, vụ XNK, vụ TMĐT…) với Bộ Công Nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam. Để đạt được hiệu quả cao, phát huy tối đa việc áp dụng công nghệ tin học trong giao nhận, xử lý công văn về hạn ngạch dệt may. Tăng cường tính công khai, minh bạch và kịp thời từ việc tiếp nhận đến xử lý công văn.
Để có thế quản lý đạt hiệu quả Bộ Thương Mại cần:
Thứ nhất: phải xác định căn cứ giao hạn ngạch rõ ràng, chính xác. Đối với hạn ngạch thành tích dành 80% nguồn hạn ngạch giao cho doanh nghiệp đã có thành tích xuất khẩu. Hạn ngạch thành tích nên giao thành 2 hoặc 3 đợt, nhằm đảm bảo chia nhỏ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đạt hiệu quả, tránh khê đọng hạn ngạch. Không nên giao hạn ngạch thành tích cho các doanh nghiệp mới…, chưa được kiểm chứng năng lực sản xuất. Và các thương nhân có kết luận nghi vấn trong đợt kiểm tra của hải quan. 20%hạn ngạch phát triển còn lại, nên chia ra nhiều loại để tiến hành phân bổ sao cho phù hợp với năng lực của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu, bao gồm các loại sau:
- Thưởng các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sử dụng vải sản xuất trong nước, do Việt Nam vẫn chưa chủ động sản xuất được nguyên liệu, phụ liệu. Vì vậy, Bộ Thương mại nên khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước.
- Thưởng cho doanh nghiệp xuất khẩu các chủng loại hàng phi hạn ngạch. Thưởng cho các ….. vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp đầu tư mới các dự án dệt, nhuộm lớn
Thứ 2: Trong việc hoàn trả hạn ngạch, các doanh nghiệp không có khả năng thực hiện hạn ngạch được giao phải có văn bản hoàn trả Bộ Thương Mai, tránh khê đọng hạn ngạch. Đối với các doanh nghiệp không sử dụng hết hạn ngạch mà không trả lại Bộ sẽ bị phạt.
Thứ 3: Khi tiến hành phân bổ hạn ngạch BTM cần phải thông báo công khai danh sách các doanh nghiệp được giao hạn ngạch trên trang web của Bộ Thương Mại để các doanh nghiệp đối chiếu, so sánh và giám sát.
Để giúp cho việc quản lí có hiệu quả, Bộ Thương Mại nên lập danh sách, địa chỉ thư điện tử của các doanh nghiệp, triển khai gửi thư điện tử cho tất cả các thương nhân đăng kí và trả lời những thắc mắc qua thư điện tử. Qua đó, soạn thảo các câu hỏi thường gặp giúp các doanh nghiệp tìm hiểu về cơ chế , chính sách được rõ ràng và thuận tiện hơn. Bộ Thương Mại nâng cấp trang Web về dệt may, cho phép các doanh nghiệp thắc mắc dưới dạng thư điện tử từ trang web này. Bộ Thương Mại xây dựng cơ chế cần thiết cho việc thực hiện hạn ngạch như về chuyển đổi, vay, nhượng hạn ngạch. Tập trung xây dựng quy chế quản lí và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phân bổ và kiểm soát thực hiện cấp visa. Triển khai việc kiểm tra hoạt động và năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
1.2 Giải quyết tranh chấp vi phạm trong phân bổ và thực hiện
Trong qúa trình quản lí việc phân bổ và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may, đối với các doanh nghiệp nói chung, Bộ thương mại phải luôn đối xử công bằng và không phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào, dù là doanh nghiệp nhà nước hay công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn, hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu vi phạm các quy định về phân bổ và thực hiện hạn ngạch dệt may đều bị xử lí theo quy định.
2. Trong xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là Bộ thương mại tìm kiếm các cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng chuyển các sản phẩm dệt may từ thị trường trong nước ra thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Để đạt hiệu quả cao, xúc tiến thương mại phải được thể hiện trong các chính sách của Bộ thương mại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Xúc tiến thương mại cần phải được thể hiện một cách linh hoạt và cụ thể.
Bộ thương mại cần có hướng dẫn cho các doanh nghiệp xây dựng được mô hình quản lí kinh doanh trung thực, giới thiệu phổ biến rộng rãi trong cả nước, giữ gìn và bảo vệ quyền lợi, lợi ích và đặc quyền chính của doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp VN tiếp xúc và thiết lập mối quan hệ kinh doanh với nước ngoài. Thông qua chương trình xúc tiến trọng điểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu, đưa hàng dệt may vào danh sách các mặt hàng được hưởng theo kim ngạch xuất khẩu. Thưởng theo tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, đẩy mạnh việc kinh doanh, quảng cáo thương hiệu dệt may trên thị trường thế giới thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ, khảo sát thị trường, xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm...
Giới kinh doanh ngành dệt may quốc tế hiện nay đánh giá VN là một nước có tiềm năng rất lớn, thậm chí là một đối thủ cạnh tranh mạnh. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thị trường kinh doanh hàng dệt may quốc tế có những sự biến động căn bản, việc kinh doanh và quảng bá thương hiệu trong ngành dệt may chỉ có thể thành công khi nó được triển khai đồng bộ cùng nhiều giải pháp khác như tổ chức sản xuất và thâm nhập thị trường
III. Về phía doanh nghiệp
Xây dựng con đường xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới cũng chính là tìm ra chỗ đứng vững chắc cho dệt may Việt Nam. Điều này buộc các doanh nghiệp phải phát huy tối đa lợi thế của mình phát triển sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả và mang thương hiệu Việt Nam. Để đạt được mục tiêu của mình các doanh nghiệp cần có các giải pháp sau:
1. Nghiên cứu sản xuất và quản lý cho phù hợp với xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may
Vấn đề sản xuất và quản lí là vấn đề cơ bản mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải quan tâm chú trọng nhằm đạt được kết quả cao trong quá trình phát triển ngành dệt may ra thị trường thế giới
1.1 Kiện toàn chiến lược kinh doanh hướng vào hoạt động xuất khẩu
Mục tiêu là đẩy mạnh sản xuất trong nước. Để đạt được mục tiêu này yếu tố đầu tiên là chúng ta phải chú trọng, nâng cao chất lượng sản phẩm. Bởi chất lượng là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường. Duy trì được uy tín với đối tác nước ngoài, tạo lập được quan hệ ổn định và lâu dài. Đây chính là chỉ tiêu có tính quyết định để hàng hoá xâm nhập thị trường. Do đó, những biện pháp cụ thể để giữ vững và nâng cao chất lượng hàng hoá là phải kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đưa vào quá trình sản xuất, tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của khách hàng về chủng loại hàng, quy trình sản xuất, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, bao bì. Nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm của người lao động bên cạnh việc triển khai và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, các chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA 8000 và chứng chỉ về môi trường ISO 14000, xây dựng hệ thống chất lượng của ngành.
Các doanh nghiệp nên tích cực đầu tư vào công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. Cần có sự kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu, cải tạo mở rộng và đầu tư mới. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp những thiết bị còn khả năng khai thác, bổ sung thiết bị mới, đổi mới công nghệ và thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm. Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề. Vấn đề nhân lực luôn là khâu yếu của ngành dệt may Việt Nam. Công nhân Việt Nam khéo tay, tiếp thu công nghệ nhanh nhưng chưa có tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động chưa cao nên năng suất lao động thấp hơn các nước trong khu vực, chỉ bằng một nửa Trung Quốc. Hơn nữa số lượng công nhân được đào tạo lại chưa đáp ứng được nhu cầu dẫn đến tình trạng thiếu công nhân, tranh giành công nhân giữa các doanh nghiệp, nhất là khi "vào vụ".
Cùng với công tác đào tạo công nhân cần có kế hoạch xây dựng các trung tâm đào tạo người thiết kế mẫu phù hợp với nhu cầu từng thị trường phục vụ cho ngành dệt may xuất khẩu. Đầu tư cho viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may, nghiên cứu nhu cầu, xu thế và dự đoán tình hình thế giới về mẫu mã, chất lượng sản phẩm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đi đúng hướng, đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
Tuy nhiên, đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa trung tâm đô thị lớn. Ngành dệt may chính là ngành công nghiệp có dây chuyền công nghệ phức tạp và sử dụng nhiều nguồn nguyên vật liệu cũng như hoá chất khác nhau. Tuỳ thuộc vào các công đoạn và phương pháp công nghệ sử dụng, nước thải có chứa các chất ô nhiễm khác nhau. Để giải quyết vấn đề này các doanh nghiệp nên sử dụng các vi sinh vật có khả năng oxy hoá các chất hữu cơ khó phân huỷ. Nấm mốc có hệ ezym rất phong phú, vì vậy chúng có khả năng phân huỷ nhiều chất hữu cơ phức tạp như vi khuẩn nên được sử dụng nhiều nhất trong xử lý nước thải .
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải giữ được uy tín về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường của mình.
1.2 Kiện toàn bộ máy nhằm nâng cao hiệu quả hàng xuất khẩu
Việc quản lý như thế nào nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất đòi hỏi cần có sự quan tâm đúng mức của doanh nghiệp. Với hình thức quản lý từ trên xuống, hình thành chuyên môn hoá từng bộ phận, từng phòng, ban cần phải có sự phối hợp nhịp nhàng, giữa các bộ phận này để tạo ra sản phẩm tốt nhất được khách hàng ưa thích. Chú trọng đến việc quản lý, bảo quản sản phẩm, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động của công nhân, của các bộ phận, các phòng, ban…
Ngoài ra các doanh nghiệp có thể nghiên cứu cách quản lý khác như là "quản trị ma trận" dành cho ngành dệt may. Đây là phần mềm tự động hoá, một giải pháp đặc thù phục vụ cho ngành công nghiệp dệt, may và thời trang. Nó cho phép các doanh nghiệp quản lý và giám sát chi tiết quá trình sản xuất, lưu kho, phân phối và bán các mặt hàng trên phạm vi rộng. Đây là một ma trận linh hoạt và thiết kế dễ sử dụng. Phần mềm cũng tích hợp hoàn toàn với những bộ chuẩn khác như: nhận đơn đặt hàng, phiếu thu, đơn đặt hàng, hoá đơn bán hàng…
Exact Globe 2000 cung cấp cho người dùng khả năng hoạch định nguồn tài nguyên doanh nghiệp(ERP), quản lý nguồn nhân lực(HRM) và quản lý khách hàng(CRM)..
Đây là hình thức quản lý áp dụng khoa học kỹ thuật đảm bảo tính tiện ích, đơn giản, nhanh chóng. Cần có sự quản lý khoa học nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may ra thị trường thế giới.
2- Hoạt động nghiên cứu thị trường.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn đứng vững trên thị trường đều cần có sự nghiên cứu,tìm hiểu kỹ về thị trường nơi định "bước chân vào".
2.1 Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may
Mở rộng thị trường xuất khẩu được coi là khâu đột phá trong chiến lược phát triển xuất khẩu của hàng dệt may, là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng bền vững của ngành công nghiệp dệt may.
Đến nay, hàng dệt may Việt Nam đã xuất khẩu trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt là các thị trường nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Trong thời gian tới ba thị trường này sẽ chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, trong đó thị trường EU 25-27%. Thêm vào đó năm 2004 EU kết nạp thêm 10 thành viên mới, đây là cơ hội cho doanh nghiệp dệt may VN mở rộng thêm thị trường xuất khẩu mới.
Từ thực tế nói trên các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu tìm ra lợi thế của mình trong việc mở rộng thị trường và lợi thế chính ở đây là vấn đề sức mua thế giới về hàng dệt may ngày càng tăng. Đối với thị trường trong nước, lợi thế về lao động và đầu tư cho phép doanh nghiệp có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải xác định được những khó khăn đối với việc mở rộng thị trường không phải là ít. Có thể kể đến sự cạnh tranh quyết liệt của các nước sản xuất hàng xuất khẩu mà đứng đầu là Trung Quốc, lợi thế về sức lao động không còn, năng suất lao động thấp… những yếu tố này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến vấn đề hàng xuất khẩu của nước ta lại bị phụ thuộc nhiều vào hạn ngạch của nước ngoài. Vì vậy để đạt được mục tiêu mở rộng thị trường dệt may, phải nắm vững và xử lý cho được những yêu cầu của từng thị trường riêng biệt trong tổng thể chung.
EU được coi là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2(sau Hoa Kỳ). Hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường này phải áp dụng hạn ngạch, trừ 47 nhóm nước phát triển được ưu đãi, không bị áp đặt hạn ngạch và thuế nhập khẩu là 0%. ở Châu Á, các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn sang EU là Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Ấn Độ…Hạn ngạch EU giành cho Việt Nam rất ít so với năng lực sản xuất và thấp so với các nước khác trong khu vực. EU thường xuyên sử dụng việc mở rộng thị trường hàng dệt may để tạo áp lực yêu cầu các nước khác mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ của họ, nhất là những nước trong quá trình đàm phán gia nhập WTO như Việt Nam.
2.2 Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dệt may:
Trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may như hiện nay, chúng ta phải đối mặt với vấn đề cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn. Khi đó, chỉ còn những yếu tố cạnh tranh liên quan đến chính hàng hoá như chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng và các dịch vụ thương mại khác đối với khách hàng và thương hiệu sản phẩm. Chất lượng ngày càng được nâng cao, cạnh tranh gay gắt thì vai trò của thương hiệu ngày càng trở nên quan trọng.
Để hàng dệt may Việt Nam có thể khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp phải tập trung xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm của riêng mình, coi thị trường trong nước là nơi thử nghiệm, là bàn đạp để phát triển ra thị trường ngoài nước. Những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực khi xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm của mình phải có sự lựa chọn kỹ lưỡng về thị trường và số lượng thương hiệu, các doanh nghiệp nhỏ hơn nên tập trung vào việc xây dựng, quảng bá thương hiệu doanh nghiệp(hình ảnh doanh nghiệp), cho dù đó là thương hiệu trong lĩnh vực gia công. Điều mà các doanh nghiệp phải thấy rõ là dù có đầu tư lớn đến đâu chúng ta khó có thể cạnh tranh được thương hiệu lớn đã tồn tại từ rất lâu như Adidas, Pierre Cardin, Wrangler…Vì thế, dù mục tiêu có thương hiệu riêng là cái đích phải hướng tới nhưng không thể làm trong một sớm một chiều và phải tính tới vị thế hiện nay của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp cũng không thể dồn sức vào việc xây dựng thương hiệu sản phẩm riêng để đẩy mạnh xuất khẩu một cách thiếu cân nhắc mà bỏ qua thế mạnh hiện nay của mình. Thực tế các doanh nghiệp ở các nước lớn như Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ…vẫn tập trung vào quảng bá thương hiệu doanh nghiệp gia công để giành được đơn đặt hàng từ các nhà nhập khẩu, các nhà phân phối lớn trên thế giới. Trong trường hợp này phải xác định sản phẩm chính là dịch vụ gia công, khách hàng mục tiêu là các nhà nhập khẩu, các nhà kinh doanh chứ không phải là người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp cần tập trung nguồn lực tài chính đầu tư cho thiết kế mẫu mã, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm. Trong khi năng lực thiết kế còn chưa đáp ứng yêu cầu, có thể nghiên cứu phương án đặt hàng hoặc mua thiết kế độc quyền. Vấn đề thuê, mua thương hiệu cũng cần được các doanh nghiệp cân nhắc và phải tính tới yếu tố ràng buộc thị trường khi ký hợp đồng kiểu này. Ngoài ra các doanh nghiệp lớn có thể xem xét việc thuê chuyên gia truyền thống tiếp thị nước ngoài. Đồng thời, phải xác định thị trường mục tiêu cho từng thương hiệu, tiến hành các thủ tục đăng ký cho thương hiệu tại thị trường mục tiêu, phát triển mạng lưới phân phối tại các thị trường đó. Tăng cường tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, đặc biệt là hội chợ chuyên ngành dệt may, các hoạt động trình diễn mẫu thời trang trong và ngoài nước, tổ chức giới thiệu hàng dệt may Việt Nam, nhất là ở các thị trường mục tiêu.
Ngoài ra, giải pháp tốt nhất để xây dựng thương hiệu là tăng cường quảng bá cho các thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm dệt may trên Internet, đẩy mạnh thương hiệu điện tử trong kinh doanh dệt may. Đa dạng hoá và tranh thủ các hình thức hợp tác quốc tế để quảng bá thương hiệu bên cạnh việc nâng cao năng lực thiết kế, chất lượng sản phẩm tổ chức các kênh phân phối, tiêu thụ một cách có hệ thống.
Việc quảng bá thương hiệu tốt chính là Marketing giỏi. Các doanh nghiệp cần có một chiến lược Marketing cho phù hợp với từng loại, mẫu sản phẩm của mình. Xây dựng chiến lược Marketing cho từng độ tuổi, cho tập quán, khu vực địa lý, cho từng tầng lớp khác nhau.
Như vậy, để xây dựng được một thương hiệu trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp cần đầu tư, nghiên cứu và cần phải tiến hành trong một thời gian dài mới có được kết quả cao.
2.3 Thực hiện chiến lược xây dựng hệ thống thương mại điện tử.
Ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp dệt may muốn tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế cần phải áp dụng các công nghệ tiên tiến. Một hình thức mà thị trường thế giới đang trở nên phổ biến là thương mại điện tử.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể sử dụng hệ thống mạng Internet, xây dựng trang Web của mình nhằm tiêu thụ và quảng bá sản phẩm trên khắp toàn cầu. Với những thuận lợi của trang Web là không cần có vị trí cố định, vùng thời gian và quốc gia. Thông qua trang Web khách hàng ở các vùng địa lý khác nhau có thể tiếp cận dễ dàng tới nơi mà trước đó khách hàng không thể đến, dễ dàng cung cấp thông tin cho khách hàng ở bất cứ nào trên thế giới. Không bị chậm trễ để đưa ra sản phẩm mới và chiến dịch mới. Tăng thông tin phản hồi, tạo điều kiện cho người tiêu dùng một cách dễ dàng để gửi ý kiến của mình đến công ty, dựa vào đó để đưa công ty thâm nhập vào thị trường chung một cách dễ dàng. Thông qua đó, các doanh nghiệp biết nội dung mà mọi người quan tâm là gì, họ nói gì về sản phẩm…biết thông tin nhiều hơn về đối thủ cạnh tranh.
Thương mại điện tử mang lại cho các doanh nghiệp dệt may "cửa sổ" để hiểu được suy nghĩ của người tiêu dùng. Nếu như nhà phân phối sử dụng hình ảnh để thực hiện chiến dịch quảng cáo, khách hàng sẽ truy cập ngay vào hình ảnh minh hoạ của trang Web, đảm bảo chất lượng, chính xác trên quảng cáo.
Khi doanh nghiệp tiến hành thương mại điện tử thì các doanh nghiệp nên có nhiều chiến lược cụ thể sau:
Trên trang Web của mình, cần mô tả về sản phẩm dệt may bao gồm:giá cả, thời gian, phương thức giao hàng và bảo hành sản phẩm. Mô tả và thuyết minh về chất lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu, mốt nêu lên xu hướng thời đại trong tương lai giúp cho khách hàng từ chỗ không biết về sản phẩm đến chỗ biết và ưa thích sản phẩm, trở thành khách hàng truyền thống của doanh nghiệp.
Do sản phẩm dệt may được xuất khẩu ra thị trường thế giới là chủ yếu nên trên trang Web cần sử dụng ngôn ngữ phổ biến, để khách hàng có thể biết rõ và hiểu về sản phẩm nhiều hơn. Thường xuyên trả lời các câu hỏi, thắc mắc của những người quan tâm đến sản phẩm.
Sự thành công của chiến lược này đòi hỏi phải có sự phối hợp chiến lược Marketing với chiến lược bán hàng, và tổ chức dịch vụ thông tin.
Doanh nghiệp nên xây dựng các bộ phận: Bán hàng, hỗ trợ khách hàng và dịch vụ sản phẩm, kinh doanh. Nhằm đáp ứng mọi yêu cầu các khách hàng ngay lập tức, đảm bảo đúng thời gian giao hàng, uy tín…
IV. Xây dựng chiến lược cho tương lai.
Để có thể tiếp tục phát triển, buộc các doanh nghiệp cần phải có hướng đi cụ thể, vững chắc nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của mình.
1. Chiến lược liên kết chuỗi.
Trong thời kỳ cạnh tranh phi quota đang diễn ra rất quyết liệt trên toàn cầu, ngành dệt may Việt Nam rơi vào thế yếu hơn do chưa phải là thành viên của WTO. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phần nhiều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh còn thấp, các nước nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới lại có xu hướng tập trung nhập hàng ổn định từ một số nhà cung cấp nhất định để dễ quản lý chất lượng và tạo ra sức ép giảm giá. Vì vậy giải pháp liên kết chuỗi được đưa ra là cần thiết và cấp bách. Bao gồm các thành viên có đủ tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và phải tự nguyện tham gia liên kết trên cơ sở lợi ích và trách nhiệm. Hơn nữa, việc phân giao hạn ngạch theo chuỗi cũng sẽ giảm số đầu mối phân giao hạn ngạch. Việc phân giao theo chuỗi đòi hỏi các doanh nghiệp phải hợp tác chặt chẽ, loại bỏ tư tưởng mạnh ai nấy làm vì khi liên kết chuỗi, các doanh nghiệp là thành viên của chuỗi phải chia sẻ lợi ích.
Liên kết chuỗi là hình thức liên kết ở đó có sự tham gia ít nhất của 5 doanh nghiệp thành viên với số lượng thiết bị từ 1500 trở lên trong đó có 1 doanh nghiệp là trụ cột với số lượng thiết bị chi phối trong chuỗi và được bầu làm "chuỗi trưởng" để điều hành việc liên kết hợp tác. Ở địa bàn gần nhau, các doanh nghiệp trong chuỗi có chung khách hàng lớn sẽ cùng làm một mặt hàng.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tham gia hợp tác, liên kết chuỗi phải dựa trên cơ sở nhu cầu thực sự, phù hợp với thực tế sản xuất, kinh doanh, có nội dung hợp tác cụ thể có khả năng thực thi và có thể kiểm tra khi có yêu cầu. Trưởng chuỗi phải có báo cáo định kỳ (quý/lần) cho liên bộ và hiệp hội dệt may về tình hình hoạt động của chuỗi, những kinh nghiệm về đề xuất để phổ biến cho các chuỗi liên kết khác. Các hợp đồng thoả thuận liên kết phải được quy định rõ ràng, chặt chẽ về trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên, đặc biệt là chuỗi trưởng để tránh tranh chấp khi có mâu thuẫn về quyền lợi. Đối với việc quản lý chuỗi, trên cơ sở thoả thuận giữa các doanh nghiệp theo văn bản hợp tác liên kết hay hợp đồng, tổ điều hành liên bộ và Hiệp hội dệt may sẽ thẩm định, đánh giá và kiến nghị cấp hạn ngạch theo quy định. Để việc liên kêt chuỗi đạt hiệu quả cao và thực chất tổ giám sát thực hiện hạn ngạch cũng cần có sự kiểm tra, quản lý chặt chẽ. Việc này cần được tiến hành ngay từ khâu thành lập chuỗi và giám sát các loại hoạt động trong quá trình thực hiện.
Nếu việc sử dụng hạn ngạch không đúng mục đích hoặc có khiếu nại của các thành viên trong chuỗi thì tổ điều hành liên bộ hoặc tổ giám sát phải kiểm tra, xử lý và hạn ngạch phân theo chuỗi. Có thể bị thu hồi để đưa vào dự phòng hoặc giao cho các chuỗi khác. Doanh nghiệp tham gia liên kết chuỗi trên nguyên tắc tự nguyện theo thoả thuận với nội dung cụ thể sau:
- Liên kết sản xuất: Các doanh nghiệp lớn có thể hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hợp tác sản xuất như tận dụng lao động, thiết bị, máy móc, công nghệ…
- Liên kết xuất nhập khẩu: Là kết hợp thực hiện các hoạt động nhập khẩu như nguyên phụ liệu…và các hoạt động xuất khẩu thành phẩm nhằm giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản xuất.
- Cùng chung khách hàng, cùng sản xuất một mặt hàng đó là những khách hàng lớn, nhập khẩu với những số lượng lớn.
- Chia sẻ đơn hàng và cùng chịu trách nhiệm: Là việc nhận những đơn hàng lớn của khách hàng nhập khẩu lớn, phân phối lớn.
- Cùng nhau hỗ trợ nghiên cứu, giao dịch, tiếp thị mở rộng thị trường…
Với hình thức liên kết này các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ có thể vững chắc trong tương lai.
2. Chiến lược thâm nhập thị trường EU.
EU là một thị trường thống nhất, mọi cá nhân tổ chức kinh tế đều được tự do, không bị cản trở, ở thị trường EU các thủ tục đều được đơn giản hoá, luôn tạo điều kiện thuận lợi bảo đảm cho các sản phẩm có chất lượng cao, đồng bộ, thị hiếu của người dân ở đây đa dạng phong phú, dân số đông, nhu cầu về số lượng chất lượng hàng may mặc khá lớn, là nơi mà bất kỳ một nước xuất khẩu sản phẩm dệt may nào cũng mong muốn được thâm nhập.
Đã có nhiều hiệp định về buôn bán hàng dệt may được ký kết giữa EU và Việt Nam, EU đang dần trở thành thị trường chính thứ hai(chỉ sau Mỹ), với xu hướng xoá bỏ hạn ngạch hàng dệt may hiện nay. Đây chính là cơ hội để các doanh nghiệp dệt may tăng tốc, các doanh nghiệp được phép xuất khẩu hàng tự do sang các nước của EU. Để làm được điều đó buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để có đủ khả năng cạnh tranh hiệu quả trong thị trường rộng lớn này:
- Phải có chiến lược về sản phẩm:tăng số lượng, chất lượng, giảm giá thành, phải tập trung đào tạo những đội ngũ kỹ thuật.
- Marketing giỏi, quan tâm, đầu tư vào khâu thiết kế.
- Nghiên cứu và đánh giá lại toàn bộ thị trường: cơ hội mới, thách thức mới, các điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh, nhu cầu thị trường EU về hàng may mặc trong những năm tiếp theo.
Đẩy mạnh xuất khẩu những sản phẩm của các doanh nghiệp đạt được chứng chỉ quản lý chất lượng ISO9000, chứng chỉ về môi trường ISO14000 và chứng chỉ trách nhiệm xã hội SA8000. Những doanh nghiệp chưa đạt chứng chỉ này cần phấn đấu bởi vì đó là tấm giấy thông hành tốt nhất cho hàng may mặc Việt Nam tiếp cận, mở rộng thị phần và nâng cao khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác trên thị trường EU
Đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu những hàng may mặc không bị áp đặt hạn ngạch, cần tránh hiện tượng tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng dễ làm, còn những mặt hàng khó làm hay những mặt hàng có yêu cầu kỹ thuật cao thì bỏ qua.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm may mặc Việt Nam. Hiện nay, khách hàng tại các nước EU không hề biết tới thương hiệu sản phẩm may mặc của Việt Nam mặc dù chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp không thua kém gì sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Nguyên nhân là do từ trước tới nay, chúng ta chủ yếu xuất khẩu hàng gia công cho nước ngoài dưới các thương hiệu của nhà nhập khẩu hoặc những thương hiệu nổi tiếng thế giới, mà không chú ý tới việc xây dựng một thương hiệu riêng cho mình. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh quảng bá thương hiệu hàng may mặc của Việt Nam trên thị trường EU.
Tất cả những chiến lược trên cần phải có sự kết hợp chặt chẽ của Nhà nước, Bộ thương mại, của các doanh nghiệp đảm bảo tính khoa học, hợp lí. Phải có những kế hoạch cụ thể cho từng bước đi, cho từng giai đoạn nhằm xây dựng cho được con đường xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường thế giới .
V. Kiến nghị đối với Nhà nước
1. Củng cố mở rộng thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may hàng năm là rất lớn. Thế nhưng cho đến nay hàng dệt may xuất khẩu cho EU mới chỉ chiếm một thị phần nhỏ trên thị trường này và thường thông qua hoạt động xuất khẩu trung gian. Do đó, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Vì vậy, để các doanh nghiệp dệt may giữ vững vị trí và giữ vững thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thâm nhập thị trường EU một cách suôn sẻ thì cần có sự hỗ trợ của Nhà nước một cách thích đáng.
Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong quan hệ đàm phán với EU để giảm thuế nhập khẩu của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng vào thị trường này, mở rộng thị trường hơn nữa cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bán hàng của Việt Nam tại thị trường EU. Tổ chức các loại hình dịch vụ sau khi bán hàng, giữ gìn và phát huy uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Tổ chức Hội chợ triển lãm ở Việt Nam và EU nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong công tác tuyên truyền, quảng cáo, khuyếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng EU, trao đổi, học tập kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Tổ chức cho các doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò, chào hàng, đồng thời mời các đoàn, các doanh nghiệp của EU vào làm việc tìm hiểu cơ hội kinh doanh, đầu tư sản xuất hàng dệt may Việt Nam.
Tổ chức hệ thống tài chính có hiệu quả. Điều quan trọng là Việt Nam phải có một thị trường chứng khoán hoạt động thực sự có hiệu quả, đồng thời tỷ lệ tích kiệm của nền kinh tế Việt Nam cần phải được tăng lên để hỗ trợ cho đà phát triển sắp tới.
2. Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ thương mại và tổ chức quản lí.
Với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam vào quá trình này, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin luôn đặt ra yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ thương mại.
Ở Việt Nam, những kiến thức về quản lí kinh tế nói chung, quản lí thương mại nói riêng ở tầm vĩ mô về quy mô đang có sự hẫng hụt và có độ chênh lệch lớn so với ngay cả các nước trong khu vực. Chính do sự yếu kém này đã gây thiệt hại cho Việt Nam trong quá trình đàm phán kí kết hợp đồng thương mại và kinh tế với các đối tác giàu kinh nghiệm như EU. Vì vậy, Chính phủ nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của công ty thương mại.
Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học nghề dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư trầm trọng. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kỹ thuật theo dây chuyền hiện đại nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao thực sự trở thành thế mạnh của ngành dệt may Việt Nam.
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu.
3. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam
Với chính sách này chúng ta có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các công ty dệt may EU vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Việt Nam. VN không những nhập khẩu được công nghệ từ EU, khai thác có hiệu quả lợi thế có so sánh của mình và nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dư thừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cải thiện công nghệ, mà còn học được kinh nghiệm quản lí và tổ chức sản xuất doanh nghiệp của EU góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhanh chóng.
4. Cải tiến thủ tục xuất - nhập khẩu
Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà mất thời gian gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp thuế ngay sau khi hàng về.
5. Chú trọng vào quy hoạch vùng trồng bông
Phải có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và vùng chế biến, có những chính sách lớn của Nhà nước về cây bông. Đầu tư khoa học kỹ thuật giống bông, phòng sâu bệnh, xây dựng vùng trọng điểm đa canh, củng cố hệ thống khuyến nông, nâng cao chất lượng cây bông nhằm khuyến khích nông dân mở rộng diện tích trồng, đặc biệt khai thác vùng đất Tây Nguyên.
6. Có chính sách hỗ trợ, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
Không nên thu thuế đối với các doanh nghiệp dệt, bán sản phẩm cho các ngành may xuất khẩu, khuyến khích chuyển giao công nghệ từ phía nước ngoài. Cần có một bộ phận marketing chuyên làm chức năng nghiên cứu, có nhiệm vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin của EU. Cần lành mạnh hoá tình hình tài chính của các doanh nghiệp, đẩy nhanh sự gia nhập vào WTO
KẾT LUẬN
Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây đã có những bước phát triển đáng khích lệ, đã từng bước khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, quá trình xuất khẩu này vẫn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, phấn đấu đạt mục tiêu phát triển đã đề ra thì ngoài sự trợ giúp của Nhà nước, các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường của EU, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thành công sẽ là yếu tố giúp nâng cao uy tín hàng dệt may Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là công cụ giúp đa dạng và làm cân bằng thị trường xuất khẩu Việt Nam. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với những giải pháp phù hợp và thực tế, chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu của đất nước, để con đường gia nhập vào WTO mở rộng hơn với Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0687.doc