Đề tài Thuế thu nhập cá nhân - Lý luận và thực tiễn

Thuế thu nhập cá nhân - lý luận và thực tiễn MỞ ĐẦU Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để sử dụng hiệu quả công cụ thuế, về cơ bản hệ thống chính sách thuế gồm có thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu như thuế GTGT, thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu. Thuế trực thu như thuế Thu nhập cá nhân (TNCN), thuế Thu nhập doanh nghiệp. Theo thông lệ của các quốc gia, thuế trực thu sẽ chiếm tỷ trọng lớn, ngược lại, giảm dần thuế gián thu. Việt Nam đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế và tiến trình chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng tăng dần của các sắc thuế trực thu đang là xu hướng tất yếu.Thuế TNCN cũng đóng một vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là nghĩa vụ của tất cả những người lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Thuế TNCN điều tiết thu nhập cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc: lợi ích, công bằng và khả năng nộp thuế. Trong thời gian qua cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên đáng kể, thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng. Đối tượng nộp thuế TNCN và hình thức thu nhập của các bộ phận dân cư và người lao động cũng đa dạng. Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, các thị trường tài chính, tiền tệ, vốn, lao động sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nguồn thu nhập khác nhau. Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một số người nước ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên. Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. Với tình hình đó, ta có thể thấy thuế TNCN ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Mặc dù, thuế TNCN đã được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1991 với tên gọi “Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao”, song từ khi Chính phủ công bố dự thảo lần đầu cho đến khi công bố luật thuế TNCN đến nay thì vẫn còn những tranh cãi vướng mắc xung quanh vấn đề này. Vì thế em quyết định chọn đề tài : “ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ” với mong muốn góp ý kiến đánh gía nhằm hoàn thiện và đưa chính sách thuế đến gần với người dân và phát huy thật tốt vai trò của nó theo đúng định hướng mà Nhà nước đã đề ra. MỤC LỤC  LỜI MỞ ĐẦU Trang CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 1.1 Nguồn gốc ra đời thuế thu nhập cá nhân . 2 1.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân: 3 1.3 Nội dung cơ bản luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam . 5 1.3.1 Đối tượng nộp thuế . 5 1.3.2 Thu nhập chịu thuế 5 1.3.3 Thu nhập được miễn thuế 7 1.3.4 Giảm thuế - kỳ tính thuế 9 1.3.5 Căn cứ tính thuế 9 1.3.5.1 Đối với cá nhân cư trú 9 1.3.5.2 Đối với cá nhân không cư trú 15 1.3.6 Quản lý và hoàn thuế . 18 1.4 Mô hình thuế thu nhập cá nhân ở một số nước 18 1.4.1. Phần Lan. 19 1.4.2. Nhật Bản. 20 1.4.3. Hà Lan 23 1.4.4. Trung Quốc. . 26 CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO - CHUẨN BỊ ÁP DỤNG LUẬT THUẾ MỚI 2.1 Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000-200729 2.2 Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới . 31 2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý. . 31 2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN. . 33 2.2.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . 35 2.2.4. Thuận lợi cho ngành thuế và người nộp thuế . 38 2.2.5. Khó khăn cho ngành thuế và người nộp thuế 39 CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 3.1 Tình hình ngành thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO. . 41 3.2 Các kiến nghị . 45 3.3 Giải pháp 46 3.3.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý ngành thuế 46 3.3.2. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến đến người dân. .47 3.3.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . 49 3.3.4. Hạn chế sử dụng tiền mặt . 50 3.3.5. Đẩy mạnh việc kết hợp quản lý thuế TNCN . 51 3.3.6. Hoàn thiện phương pháp quản lý thu thuế 52 KẾT LUẬN . 55 . Thuế thu nhập cá nhân - lý luận và thực tiễn

pdf29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế thu nhập cá nhân - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình:  Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc... Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu qủa và đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu ăn theo.  Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan... Các chuyên gia cho rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách thứ hai.. Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972. Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 05 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001). 2008, Chính phủ Tài chính tiền tệ 10 ban hành nghị định 100/2008/NĐ-CP - Quy định 1 số điều chi tiết của Luật thuế TNCN sẽ đi vào hiệu lực 1/1/2009. 1.2. Vai trò, chức năng của thuế thu nhập cá nhân. Mục tiêu của việc ban hành và áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là:  Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước: Sự giảm dần các loại thuế xuất nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương mại nên thuế thu nhập cá nhân ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người của cá nhân ngày càng tăng từ đó thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước.  Góp phần thực hiện công bằng xã hội: Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào đó khi thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Ở nhiều nước còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá nhân mang gánh nặng xã hội. Ở nước ta hiện nay, thu nhập của các tầng lớp nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mặc dù thuế thu nhập cá nhân chưa mang lại số thu lớn cho ngân sách Nhà nước, song xét trên phương diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thì thuế thu nhập cá nhân có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo thực hiện chính sách công bằng xã hội. Tài chính tiền tệ 11 2. Thuế thu nhập cá nhân đổi mới (2) 2.1. Một số quy định mới trong luật thuế thu nhập cá nhân Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam khoá XII đã thông qua Luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN). Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2009. Theo Nghị định 100/2008/NĐ-CP Chính phủ vừa ban hành, có 10 loại thu nhập buộc phải chịu thuế thu nhập cá nhân, trong đó có thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, bất động sản. Có 14 thu nhập được xếp vào loại thu nhập miễn thuế.  10 loại thu nhập buộc phải chịu thuế thu nhập cá nhân, gồm: 1. Thu nhập từ kinh doanh 1.1. Thu nhập từ sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ thuộc tất cả các lĩnh vực, ngành nghề được phép kinh doanh theo qui định của pháp luật . 1.2. Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của các cá nhân trong một số lĩnh vực, ngành nghề được cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh theo qui định của pháp luật gồm: hoạt động tư vấn, khám chữa bệnh của bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ; hoạt động biểu diễn của các nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ; dịch vụ tư vấn kế toán, kiểm toán của kiểm toán viên; hoạt động trang trí, thiết kế của kiến trúc sư, công trình sư; hoạt động tư vấn, biện hộ của luật sư, chuyên gia tư vấn pháp luật; và các cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực khác theo chức danh nghề nghiệp. 1.3. Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản nhưng không trực tiếp tham gia sản xuất, không đáp ứng đủ điều kiện được miễn thuế. 2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền. (2) Nguồn: Dự thảo thông tư thuế TNCN – 29/08/08 Các khoản phụ cấp, trợ cấp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công. Tài chính tiền tệ 12 Các khoản tiền thưởng được trừ khi tính thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công 3. Thu nhập từ đầu tư vốn 4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn 5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản 6. Thu nhập từ trúng thưởng 7. Thu nhập từ bản quyền 8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại 9. Thu nhập từ nhận thừa kế 10. Thu nhập từ nhận quà tặng Biểu thuế: STT Thu nhập tính thuế/năm (triệu đồng) Thu nhập tính thuế/tháng (triệu đồng) Thuế suất (%) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35%  Bên cạnh đó là 14 loại thu nhập được miễn thuế: 1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng, giữa cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa mẹ chồng, cha chồng với con dâu; giữa bố vợ, mẹ vợ với con rể; giữa ông nội, bà nội với cháu nội; giữa ông bà ngoại với cháu ngoại; giữa anh chị em ruột với nhau. Tài chính tiền tệ 13 2. Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam. 3. Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất không phải trả tiền hoặc được giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. 4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau. 5. Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường 6. Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản xuất. 7. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 8. Thu nhập từ kiều hối 9. Thu nhập từ phần tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ theo quy định của Bộ Luật Lao động. 10. Thu nhập từ tiền lương hưu do quĩ bảo hiểm xã hội chi trả theo qui định của Luật Bảo hiểm xã hội. 11. Thu nhập từ học bổng: cá nhân nhận học bổng từ các nguồn sau là thu nhập được miễn thuế. 12. Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi thường tai nạn lao động, các khoản bồi thường Nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của Pháp luật cụ thể. 13. Thu nhập nhận được từ các quỹ từ thiện được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mực đích từ thiện, nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận. 14. Thu nhập mà cá nhân nhận được từ các nguồn viện trợ của nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức Chính phủ và phi Chính phủ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Tài chính tiền tệ 14 2.2. Một vài điểm đáng chú ý trong các quy định:  Chính sách thuế TNCN và lợi ích của doanh nghiệp Về góc độ doanh nghiệp: theo chính sách thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì các khoản cổ tức chi trả bằng tiền hay chi trả bằng cổ phiếu đều là đối tượng chịu thuế TNCN, do vậy việc xây dựng cơ chế cổ tức hợp lý là nội dung mà các công ty cổ phần phải nghiên cứu ngay từ bây giờ. Điều quan trọng là phải kết hợp chính sách phân phối cổ tức với quyết định đầu tư và quyết định tài trợ trên cơ sở một cấu trúc vốn thích hợp. Với quy định của luật thuế TNCN không tính thuế thu nhập đối với khoản thu nhập giữ lại, sẽ là cơ hội cho các công ty sử dụng khoản thu nhập sau thuế để tái đầu tư, vừa giảm chi phí sử dụng vốn trong tình hình lãi suất vay ngân hàng thương mại đang tăng cao và không ổn định, vừa gia tăng giá trị công ty và đem lại lợi ích cho cổ đông qua trì hoãn được khoản thuế TNCN phải nộp.  Miễn thuế đối với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp Khoản 5, Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định miễn thuế đối với “thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường.” Tuy nhiên, Quá trình xây dựng dự thảo Nghị định có một số ý kiến đề nghị làm rõ có thu thuế hay không thu thuế đối với những trường hợp chủ trang trại lớn, chủ đầm hồ nuôi tôm cá, chủ vườn cây công nghiệp, vì đây là những đối tượng có thu nhập cao, tuy vẫn nằm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp - trước đây đối tượng này thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ nhưng thực tế nhiều năm chưa triển khai được. Trước đây, khi dự thảo Luật Thuế TNCN đưa xin ý kiến nhân dân đã có nhiều tranh luận về nội dung này, quan điểm của dự thảo Luật ban đầu là miễn thuế cho nông dân sống ở nông thôn có khoản thu nhập từ nông nghiệp. Báo cáo số 53/BC-UBTVQH12 ngày 05/10/2007 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý và giải trình ý kiến nhân dân về dự án Luật Thuế TNCN có nêu: “Những cá nhân khác, nhất là những người đầu tư sản xuất kinh doanh trang trại quy mô lớn sẽ được điều chỉnh như cá nhân có thu nhập từ kinh doanh.” Luật Thuế TNCN được ban hành tuy có thay cụm từ “nông dân” bằng cụm từ “trực tiếp” để tránh đi sự hiểu lầm phân biệt giai cấp nhưng vẫn thể hiện quan điểm không miễn thuế cho người làm trang trại có thu nhập cao. Quán triệt tinh Tài chính tiền tệ 15 thần này, dự thảo Nghị định quy định như sau: “Miễn thuế đối với thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp tham gia hoặc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường (trừ trường hợp chủ trang trại quy mô lớn, có thu nhập cao hơn mức giảm trừ gia cảnh).”  Miễn thuế đối với thu nhập từ lương hưu Khoản 10 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định, miễn thuế đối với thu nhập từ lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả. Thực tế có nhiều người nước ngoài đã nghỉ hưu vào Việt Nam làm ăn, nhiều người Việt Nam về quê hương sinh sống được hưởng lương hưu của nước ngoài. Do hệ thống an sinh xã hội của nước ngoài khác với Bảo hiểm xã hội của Việt Nam nên người đã nghỉ hưu có thể có nhiều nguồn lương hưu khác nhau. Dự thảo Nghị định quy định chỉ miễn thuế cho khoản lương hưu có tính chất tương tự như chế độ BHXH bắt buộc của nước ta hiện nay. Theo đó sẽ: “Miễn thuế đối với thu nhập từ lương hưu do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội của Việt Nam hoặc do các tổ chức nước ngoài có tính chất tương tự như quỹ bảo hiểm xã hội của Việt Nam.”  Chế độ giảm thuế Điều 5 Luật Thuế TNCN quy định: “Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.” Để thực hiện được quy định này cần phải hướng dẫn về các bệnh hiểm nghèo hoặc việc xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn gây thiệt hại về tài sản, con người, ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế. Dự thảo Nghị định giao trách nhiệm cho Bộ Y tế hướng dẫn xác định danh mục các bệnh hiểm nghèo, giao Bộ Tài chính hướng dẫn về các thủ tục hồ sơ cần thiết theo quy định của Luật Quản lý thuế.  Căn cứ tính thuế đối với một số loại thu nhập của cá nhân cư trú. Theo quy định của Luật Thuế TNCN thì thu nhập từ tiền lương tiền công và thu nhập từ kinh doanh được áp dụng giảm trừ gia cảnh, giảm trừ đóng Tài chính tiền tệ 16 góp từ thiện, nhân đạo, sau đó áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần. Để người nộp thuế có thể hình dung được ngay việc áp thuế, tính thuế đối với trường hợp cụ thể của mình, dự thảo Nghị định hướng dẫn một số nội dung sau đây: - Xác định thu nhập tính thuế bằng thu nhập chịu thuế sau khi đã trừ đi các khoản nộp BHXH, BHYT, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp bắt buộc; các khoản giảm trừ gia cảnh; và các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo. Trường hợp người nộp thuế vừa có thu nhập tiền lương tiền công, vừa có thu nhập từ kinh doanh thì phải cộng cả thu nhập từ 2 nguồn. Việc phải xác định thu nhập chịu thuế từ kinh doanh: quy định rõ các căn cứ xác định loại thu nhập này như: doanh thu đối với các trường hợp cụ thể; chi phí được trừ; xác định thu nhập chịu thuế đối với trường hợp cá nhân kinh doanh chưa tuân thủ đúng chế độ kế toán.  Quy định về giảm trừ gia cảnh Dự thảo Nghị định quy định cụ thể các trường hợp được áp dụng mức giảm trừ gia cảnh và những điều kiện về thủ tục giấy tờ xác nhận đối với từng đối tượng, từng trường hợp, bảo đảm nguyên tắc đơn giản nhất mà có thể quản lý, đối chiếu được. Việc giảm trừ người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc: mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế; phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng từ thời điểm nào thì tính giảm trừ người phụ thuộc ở thời điểm đó (thí dụ con mới sinh); trường hợp đối tượng nộp thuế có chung những người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì phải có sự thoả thuận để đăng ký giảm trừ theo nguyên tắc này. Mức thu nhập để làm căn cứ xác định người phụ thuộc: Trong quá trình xây dựng dự thảo có rất nhiều ý kiến đề xuất chọn mức thu nhập tương đương với mức chuẩn nghèo làm căn cứ xác định người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh. Tuy nhiên, thực tế các tỉnh, thành phố đều quy định mức chuẩn nghèo riêng của địa phương mình, nếu chọn mức chuẩn nghèo do Chính phủ quy định trong mỗi thời kỳ 5 năm thì rất thấp (hiện tại mức chuẩn nghèo khu vực nông thôn là 200.000 đồng, thành thị là 260.000 đồng/tháng), sẽ có rất ít người phụ thuộc được tính giảm trừ. Vì vậy, để người nộp thuế được thuận lợi, đơn giản và ổn định, dự thảo quy định mức tiền tương đương một phần ba (1/3) mức giảm trừ người phụ thuộc. Với mức này (1,6 triệu đồng x 1/3) sẽ đảm bảo cao gấp hơn 2 lần mức chuẩn nghèo tại khu vực thành thị (gấp 2,7 lần mức chuẩn nghèo khu vực nông thôn). Tài chính tiền tệ 17  Quy định về người phụ thuộc thu nhập không quá 500 ngàn đồng/tháng. Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công được xác định bằng thu nhập chịu thuế các khoản này trừ đi các khoảng đóng bảo hiểm bắt buộc, giảm trừ gia cảnh và các khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học. Mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế là 48 triệu đồng/năm (4 triệu/tháng). Mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng. Người phụ thuộc bao gồm: con dưới 18 tuổi, con trên 18 tuổi bị tàn tật mất khả năng lao động, vợ, chồng, cha mẹ hai bên của người nộp thuế nhưng không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc thu nhập quá thấp... Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ 1 lần vào 1 đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế. Mức thu nhập làm căn cứ xác định người phụ thuộc được áp dụng giảm trừ là mức bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500 ngàn đồng.  Hoàn trả thuế sai quy định (3) Người nộp thuế, kê khai hải quan sẽ được hoàn trả lại tiền, tài sản và được bồi thường tiền lãi tính trên số tiền thuế, tiền bị phạt, tịch thu không đúng do hành vi vi phạm của cán bộ thuế, hải quan theo thông tư hướng dẫn vừa được Bộ Tài chính ban hành. Kinh phí sử dụng để bồi thường thiệt hại được lấy từ tiền hoàn trả của cán bộ, công chức gây thiệt hại; nguồn tiền thu được từ xử lý tài sản. (3) Nguồn http//www.webketoan.vn/index.php?rnav=right2&lnav =left1&mn=newsdetail&type=14&newsid=176 Tài chính tiền tệ 18 3. Nhận định về thuế thu nhập cá nhân 3.1. Những đổi mới tích cực Mặc dù còn những ý kiến khác nhau về Luật thuế TNCN, song có thể nói, đây là một văn bản luật được soạn thảo công phu nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và phù hợp hơn với điều kiện kinh tế-xã hội nước ta hiện nay.  Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế. Điểm mới cơ bản nhất liên quan đến quy định về đối tượng nộp thuế là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Theo quy định trước đây, cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế TNDN. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn). Việc áp dụng thuế suất như với các doanh nghiệp là quá cao đối với hộ cá nhân kinh doanh. Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhận kinh doanh vào diện nộp thuế TNCN. Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điêu fkiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là "cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn". Bổ sung như vậy làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đói tượng nộp thuế một cách hợp lý. Tài chính tiền tệ 19  Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế. Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành, thu nhập được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế TNCN đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.  Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản thu nhập chịu thuế. Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thuế TNCN gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thúê khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng một hợp đồng hoặc một lần phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng, có một quy định đáng chú ý là Luật thuế TNCN quy định miễn thuế đó với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột Tài chính tiền tệ 20 với nhau. Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế TNCN. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi đồn vốn của xã hội. Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biêt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, bằng quy định mới này, Luật thuế TNCN sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.  Sử dụng thuật ngữ "thu nhập được miễn thuế" thay cho "thu nhập không chịu thuế" và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế. Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN đã thay đổi, gọi đúng bản chất là thu nhập được miễn thuế và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế khác. Cụ thể là bổ sung các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế: thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ; lương hưu; Tiền thửơng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luât; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó khăn. Điều này cũng thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế- Tài chính tiền tệ 21 xã hội như tốt giác tội phạm, tăng cường lao động sản xuất…  Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế. Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật được đưa ra lấy ý kiến nhân dân. Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thau vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Tuy nhiên, điểm gây nhiều tranh cãi là ở chỗ, mức giảm trừ nên là bao nhiêu cho bản thân đối tượng nộp thuế và cho người phụ thuộc. Sau khi thảo luận khá sôi nổi và thẳng thắn, Quốc hội đã biểu quyết thông qua mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng. Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh như trên là thấp. Tuy nhiên, mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quản điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Theo đó, với mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến cho năm 2009 là khoản 1.5 triệu đồng/tháng thì mức giảm trừ cho bản thâm đối tượng nộp thuế ở mức 4 triệu đồng/tháng có ý nghĩa rằng, chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ phải nộp đối với phần thu nhập vượt trên mức giảm trừ này). Những năm sau đó, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần đến với mức thu nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên sẽ phải nộp thuế TNCN. Điều này có nghĩa là Luật sẽ tự động mở rộng diện tích đánh thuế để thực hiện nguyên tắc mọi công dân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên, đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao, Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp với định hướng vừa phân tích. Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao động; các cá nhân khác không có thu nhập Tài chính tiền tệ 22 hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…). Luật cũng không khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc (trong dự thảo Luật lấy ý kiến nhân dân, dự kiến khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc là 10 triệu đồng/tháng) Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân.  Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo. Khoản đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Đây là điểm mới không chỉ so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành mà còn mới ngay cả đối với bản dự án Luật lấy ý kiến nhân dân. Nội dung mới này của Luật được Quốc hội tiếp thu ý kiến nhân dân. Với quy định này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện. Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu nhập bình quân tháng 30 triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó, 10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu thuế như sẽ được trình bày dưới đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.  Quy định giảm trừ chi phí cá nhân kinh doanh một cách hợp lý Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế TNDN sang nộp thuế TNCN, Luật thuế TNCN đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khảon chi phí hợp lý được trừ này kế thừa cá quy định hiện hành Tài chính tiền tệ 23 của Luật thuế TNDN. Trường hợp cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán để làm cơ sở xác định chi phhí hợp lý được trừ thì thu nhập chịu thuế đựơc xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ thu nhập chịu thuế quy định cho từng ngành.  Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập thường xuyên chịu thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với bốn mức thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối với thuế thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công, Luật thuế TNCN vẫn áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần nhưng mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35% với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng bậc thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động sự đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải, thực hiện "góp gió thành bão". Mặc khác, việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng. Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy định biểu thuế luỹ tiến toàn phần. Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 1% đến 10% tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí). Tóm lại, Luật thuế TNCN vừa được Quốc hội thông qua có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống thuế công bằng và hiện đại hơn. Tài chính tiền tệ 24 3.2. Một số hạn chế luật thuế TNCN mới. (4) Môi trường thuế ở nước ta kém phần minh bạch, bị doanh nghiệp phàn nàn, bị quốc tế xếp hạng khá thấp so với các nước trên thế giới chủ yếu vì biện pháp hành thu chứ không phải vì chủ trương chính sách. Trong khi những vướng mắc về biện pháp tuy đã có những tháo gỡ, thì những trường hợp phức tạp mới lại đang manh nha trong dự luật sửa đổi thuế mới.  Quá nhiều giấy tờ, thủ tục Chỉ riêng giảm trừ gia cảnh, những quy định cũng đã làm "ù tai, hoa mắt" bởi có quá nhiều loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ mà người nộp thuế cần phải thực hiện và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Ví dụ trường hợp người nộp thuế có con theo học và là người phụ thuộc thì đã cần: Giấy khai sinh, giấy xác nhận của trường hoặc bản chứng thực thẻ sinh viên, biên lai thu học phí hoặc chứng từ nộp khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí có niên độ phù hợp với năm tính thuế. Ví dụ, người nộp thuế có con tàn tật thì ngoài giấy khai sinh, người nộp thuế còn phải "đưa con lên trung tâm giám định y khoa tận tỉnh, thành phố" để khám, xác nhận về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. Nếu theo hướng dẫn, một người nộp thuế có 2 con đang học, cháu tàn tật không nơi nương tựa, bố mẹ già, vợ thu nhập thấp thì cần 30 loại giấy tờ... Song có lẽ sẽ là "rủi ro" nếu như người nộp thuế được hoàn thuế. Đến đây, lại một núi công việc, giấy tờ gồm: Đơn xin hoàn thuế, bản photocopy giấy chứng minh nhân dân, tờ khai quyết toán thuế, các chứng từ khấu trừ thuế, biên lai thu thuế, chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc, quyết định thôi việc, bản thanh lý hợp đồng lao động... Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế". (4)Theo: g.Bài “Thi hành thuế thu nhập cá nhân: Cần một "biển việc" và "núi giấy tờ"”- Lao Động số 205 Ngày 06/09/2008 Tài chính tiền tệ 25  Còn nhiều bất cập Sẽ là quá bất cập, nhiêu khê, phức tạp khi một người có thu nhập, sau khi giảm trừ gia cảnh thì không còn phải nộp thuế TNCN, nhưng lại vẫn phải đáp ứng đầy đủ "núi giấy tờ" và thủ tục như trên. Rõ ràng khi đó không chỉ người nộp thuế mất thời gian, công sức mà cơ quan thuế cũng ôm cả "biển việc", mà thực chất không thu được một đồng tiền thuế nào. Nhưng sẽ là bất cập hơn khi "quả bóng" đã được đá thẳng về phía người nộp thuế, trong khi cơ quan thuế chỉ ngồi im đòi hỏi người nộp thuế phải đáp ứng . Câu hỏi đặt ra là: Người nộp thuế đã có mã số thuế, tại sao cơ quan thuế không lập hồ sơ, ứng dụng CNTT để theo dõi mà lại bắt buộc người nộp thuế phải lưu trữ cả "núi giấy tờ" trong cả năm trời rồi khi quyết toán thuế, hoàn thuế lại phải kê khai, trình báo một lần nữa?  Quy định “mức giảm trừ đối với người phụ thuộc cho một người nộp thuế không quá 10 triệu đồng/tháng” là cứng nhắc và thiếu thực tế: Khoản 6 Điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) giải thích “Người phụ thuộc”: là người mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo qui định của pháp luật”. Theo Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình thì người phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định pháp luật gồm có: cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng. Như vậy, chỉ tính riêng ở Điều 50 Luật HN-GĐ này thì người phụ thuộc đã là 7 người nếu chỉ có chồng đi làm, vợ nội trợ, mức chi cho người phụ thuộc sẽ là 7 người x 1,6 triệu đồng bằng 11,2 triệu đồng/tháng. Trường hợp cả hai vợ chồng cùng đi làm thì mỗi người phải nuôi 3 người (cha mẹ ruột và 1 đứa con) thì mức cho cho phười phụ thuộc của mỗi lao động là 3 người x 1,6 triệu đồng bằng 4,8 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, Điều 676 Bộ luật Dân sự còn giải thích rõ thêm người phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng còn có cha mẹ nuôi, con nuôi; những người tuy luật pháp không bắt buộc phải nuôi dưỡng nhưng theo truyền thống đạo đức dân tộc ta nếu những đối tượng này là người già cả neo đơn hay mồ côi không nơi nương tựa (chỉ có người đóng thuế là người thân duy nhất thì Tài chính tiền tệ 26 người này vẫn phải nuôi chớ không thể bỏ mặc được) là người thuộc hàng thừa kế thứ hai, thứ ba, gồm: cháu ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột. Do đó, số lượng người phụ thuộc người lao động không phải chỉ gói gọn trong phạm vi 7 người với mức chi 11,2 triệu đồng/tháng mà còn có thể cao hơn nữa nếu phải nuôi thêm con nuôi, cha mẹ nuôi, chú, bác, cô, dì, cháu, v.v… Điểm c Khoản 2 Điều 18 Luật Thuế TNCN lại quy định “Tổng mức giảm trừ đối với người phụ thuộc cho một người nộp thuế không quá 10 triệu đồng/tháng” là cứng nhắc và thiếu thực tế, gây khó khăn cho đời sống người lao động nếu người lao động đó phải nuôi nhiều người phụ thuộc như đã dẫn chứng ở phần trên. Theo tôi, cần quy định “mức giảm trừ gia cảnh tính theo thực tế những người phụ thuộc mà người đóng thuế phải nuôi dưỡng”. Dĩ nhiên, việc nuôi dưỡng này phải được sự xác nhận của chính quyền cơ sở, không thể nhận xằng là có nuôi dưỡng để trốn thuế.  Quy định còn lập lờ, khó hiểu: Một số nội dung chưa hợp lý, còn trùng lắp. Trường hợp thừa kế tài sản phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng phải chịu thuế thì không hợp lý, ví như thừa kế một chiếc xe máy, đây chỉ là phương tiện đi lại, phục vụ trong cuộc sống, không nên đưa vào đối tượng chịu thuế thu nhập. Điểm a Khoản 3 Điều 11 quy định: “Chi phí tiền lương, tiền công, các khoản thù lao và các chi phí khác trả cho người lao động. Chi phí tiền lương, tiền công không bao gồm khoản tiền lương, tiền công của chủ hộ, người đại diện hộ kinh doanh là người nộp thuế”; tức có thể hiểu doanh thu của chủ hộ, người đại diện hộ kinh doanh sau khi trừ các khoản chi phí kể trên thì được coi là thu nhập chịu thuế của họ, nếu vượt ngưỡng 5 triệu/tháng thì phải nộp thuế TNCN. Tuy nhiên, điểm đ (trong cùng Điều luật) lại quy định “chi phí quản lý” là chi phí được khấu trừ. Điều này gây sự khó hiểu, nếu thuê người khác quản lý cơ sở kinh doanh thì tiền thuê này đã được coi là tiền lương, tiền công trả cho người lao động. Còn chủ hộ, người đại diện hộ kinh doanh tự mình quản lý công việc kinh doanh (tình trạng này là phổ biến đối với cơ sở kinh doanh nhỏ, hộ kinh doanh cá thể) thì có được khấu trừ khoản “chi phí quản lý” này không khi điểm a lại không cho chủ hộ, người đại diện hộ kinh doanh được hưởng tiền lương, tiền công từ công việc quản lý cơ sở kinh doanh của mình? Tại Biểu thuế toàn phần (điểm e Điều 21) cũng quy định phải khấu trừ Tài chính tiền tệ 27 ngay đầu nguồn “Thu nhập từ thừa kế, quà tặng vượt trên 10 trđ/lần phát sinh thu nhập = 10%”. Như vậy, nếu trong một tháng mà cá nhân đó nhận quà tặng ở mức 7-8 triệu đồng/lần phát sinh nên chưa đến mức khấu trừ thuế (Ví dụ: được tặng điện thoại di động, laptop, máy ảnh kỹ thuật số...), nhưng số lần được tặng lại là 4-5 lần thì có cộng lại để khấu trừ thuế hay là cho qua luôn? Về thời gian, địa điểm hoàn thuế nên quy định cụ thể trong Thông tư, giúp người dân dễ thực hiện. Tại điều 3 của Nghị định quy định các loại thu nhập phải chịu thuế, nhiều đại biểu đề nghị, những người thu nhập từ chuyển giao công nghệ phải đóng thuế nên được chia ra nhiều năm. Còn nhiều vấn đề như: quy định mức thuế người cư trú và không cư trú; các khoản thu nhập được miễn thuế; các khoản giảm trừ... nêu trong Thông tư và Nghị định cũng được nhiều đại biểu quan tâm và cho ý kiến.  Cơ quan thuế “Nắm dao đằng cán” gây phiền hà, khó khăn cho công dân: Khoản 1 Điều 22 Luật thuế TNCN lại quy định: “Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế vào ngân sách nhà nước theo từng lần phát sinh thu nhập đối với những khoản thu nhập sau: a. Thu nhập từ tiền lương, tiền công;”. Điều này quy định cũng rất nhập nhằng. Nếu tiền lương, tiền công được trả mỗi tháng 1 lần mà ở mức phải chịu thuế thì “tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ” cũng là hợp lý. Tuy nhiên, tiền lương, tiền công có thể được trả theo mỗi tuần/lần, nửa tháng/lần tùy theo thỏa thuận giữa người thuê và người làm công. Tiền nhuận bút báo chí cũng là một loại tiền công được trả riêng theo từng bài viết chớ không cộng lại đến cuối tháng trả chung một lần. Ví dụ: Tôi ở Bạc Liêu, được báo Tuổi Trẻ trả nhuận bút trong tháng 9/1006 có 1.350.000đ nhưng chưa chi đã bị đè đầu thu béng 135.000đ thuế thu nhập tại Tp.HCM rồi. Rõ ràng số nhuận bút này chẳng đủ để chịu thuế nhưng bây giờ tôi sẽ đi đòi thoái thu 135.000đ “lỡ bị bắt nộp” đó ở đâu? Báo chí phản ánh tình trạng doanh nghiệp đi nộp thuế (đem tiền của mình đưa cho cơ quan thuế) phải chịu đày ải khủng khiếp như thế nào, huống hồ tôi đi đòi cơ quan thuế trả lại cho tôi số tiền “nhỏ như con kiến” thì chẳng biết đến khi nào mới đòi được? Vì vậy, không nên quy định chung chung “khấu trừ và nộp thuế vào ngân sách nhà nước theo từng lần phát sinh thu nhập” mà phải quy định rõ hơn “Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập phải tính mức chiết trừ gia cảnh tối thiểu trước, xem xét thu nhập đã đến ngưỡng chịu thuế theo từng lần phát Tài chính tiền tệ 28 sinh thu nhập mà có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Nếu thu nhập từng lần phát sinh chưa đến mức chịu thuế thì không khấu trừ ngay theo từng lần phát sinh thu nhập mà cộng dồn đến cuối tháng mới đối chiếu, khấu trừ và nộp thuế”, để không gây phiền hà, khó khăn cho tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập lẫn người có thu nhập. Đóng thuế để xây dựng đất nước vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân, người dân rất tự hào nếu được đóng thuế thu nhập vì nó chứng tỏ công dân ấy có thu nhập cao và đồng tiền đóng thuế lương thiện, chính đáng. Thiết nghĩ, cơ quan thuế chỉ cần quản lý chặt được nguồn thu, gởi giấy báo mức thuế, còn việc nộp thuế hãy để cho người dân tự giác đi nộp, nếu ai chây ỳ không thực hiện đã có chế tài hành chính, hình sự quy định rõ ràng rồi, không phải sợ ai trốn thuế. Người dân đòi hỏi cơ quan Thuế một sự tôn trọng tư cách công dân, vì vậy họ sẽ rất bất bình nếu Bộ Tài Chính lúc nào cũng chăm chăm nhìn người dân bằng con mắt soi mói lo sợ người ta không chịu nộp thuế nên phải “giật lấy” tại chổ khi tiền chưa kịp qua tay người lao động. Bên cạnh đó, nhiều quy định vẫn chưa thật sự phù hợp với điều kiện khách quan của đất nước ta, với cơ chế làm việc chưa khoa học và chính xác, rất dễ xảy ra hiện tượng trốn thuế, lậu thuế, lách luật để khai giảm thuế…cần những biện pháp cứng rắn hơn để đề phòng và xử lý. Chẳng hạn, trong quy định: “Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ 1 lần vào 1 đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế. Mức thu nhập làm căn cứ xác định người phụ thuộc được áp dụng giảm trừ là mức bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500 ngàn đồng”. Làm sao để xác định mức thu nhập của người phụ thuộc là dưới 500 ngàn và làm sao để một người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ 1 lần là điều rất khó thực hiện với cơ chế nước ta. Tài chính tiền tệ 29 III. Đưa luật Thuế TNCN vào cuộc sống Có một thực tế rất đáng bàn là việc ban hành các văn bản pháp luật thường mất rất nhiều thời gian để đi vào thực tiễn, việc áp dụng luật ở nhiều nơi còn thiếu đồng bộ, gây ra nhiều khúc mắc trong quần chúng. Hiện trạng đó đòi hỏi nhiều biện pháp đưa luật thuế mới đi vào thực tiễn. 1. Quản lý chặt chẽ thu nhập (5) Từ ngày 1/1/2009, Luật Thuế thu nhập cá nhân bắt đầu có hiệu lực. Để chuẩn bị cho việc triển khai luật này đạt kết quả tốt, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành thực hiện ngay việc thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân. Làm tốt khâu chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động và tiền lương để kiểm soát việc chi trả tiền lương, tiền công thực tế của các tổ chức, cá nhân kinh doanh cho người lao động. Để tiến tới không sử dụng tiền mặt trong các giao dịch kinh tế theo lộ trình đã được phê duyệt, Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan đẩy mạnh triển khai Đề án quản lý thanh toán, phát triển mạnh các hình thức thanh toán qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng Theo yêu cầu, chậm nhất đến ngày 31/12/2008 phải hoàn thành việc đăng ký thuế cho tất cả các cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế và tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập. Đồng thời, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt nam đề ra các biện pháp tăng cường quản lý các hoạt động về đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán nhằm quản lý chặt chẽ thu nhập từ các hoạt động này. Đẩy mạnh hơn nữa các đề án quản lý thanh toán, phát triển mạnh các hình thức thanh toán qua ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tiến tới không sử dụng tiền mặt trong các giao dịch kinh tế. Đảm bảo chính xác trong công tác quản lý lý hoạt động đăng ký, chuyển nhượng bất động sản, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, đồng thời phối hợp với cơ quan thuế quản lý chặt chẽ giá cả (5) Nguồn: luong-tien-cong-se-bi-giam-sat-chat-che/2008/7/241884.vip Tài chính tiền tệ 30 và thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản trên địa bàn. Các cơ quan bảo vệ pháp luật phát cần hiện và xử lý nghiêm các trường hợp gian lận, trốn thuế hoặc không chấp hành pháp luật… Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường các biện pháp quản lý các hoạt động về đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán nhằm quản lý chặt chẽ thu nhập từ hoạt động này. Quản lý chặt chẽ hoạt động đăng ký chuyển nhượng bất động sản, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, đồng thời phối hợp với cơ quan Thuế quản lý chặt chẽ giá cả và thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản trên địa bàn. Ngoài ra, cũng phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các quy định về đăng ký kinh doanh, xử lý nghiêm các cá nhân thực tế có kinh doanh nhưng không đăng ký kinh doanh theo quy định. 2. Ghi nhận những góp ý từ cán bộ và quần chúng. Dự thảo luật thuế TNCN chỉ còn một thời gian ngắn nữa sẽ đi vào hiệu lực, đến nay đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp:  Đối với Ban soạn thảo Thông tư, cần đi sâu vào việc hướng dẫn người thi hành Luật thuế TNCN, không nên nhắc lại những điều mà trong Luật đã có, gây khó hiểu. Đối với Nghị định, nên rút gọn lại để tập trung vào vấn đề thật cần thiết như hướng dẫn các điều khoản miễn thuế, đưa ra công thức tính thuế đối với những người có thu nhập dưới mức 5 triệu đồng/tháng, nâng cao hiệu lực của luật.  Về vấn đề giảm trừ thuế được nêu trong Nghị định, một số ý kiến cho rằng nên giảm trừ theo đặc thù nghề nghiệp đặc biệt, khuyến khích người dân tham gia thực hiện nghĩa vụ để luật thuế mới đi vào sâu rộng hơn.  Về thời gian, địa điểm hoàn thuế nên quy định cụ thể trong Thông tư, giúp người dân dễ thực hiện. Tại điều 3 của Nghị định quy định các loại thu nhập phải chịu thuế, những người thu nhập từ chuyển giao công nghệ phải đóng thuế nên được chia ra thành quy định riêng cho nhiều năm.  Còn nhiều vấn đề như: quy định mức thuế người cư trú và không cư trú; các khoản thu nhập được miễn thuế; các khoản giảm trừ... nêu trong Thông tư và Nghị định cũng cần được góp ý, bổ sung hoàn thiện hơn. Tài chính tiền tệ 31  Cần xây dựng những khung xử phạt vi phạm nghiêm khắc hơn. Với chế độ xử phạt lỏng lẻo như hiện nay thì việc lậu thuế, trốn thuế vẫn sẵn sàng diễn ra mà các hình phạt thì chưa thật sự phát huy tính răn đe.  Vấn đề thuế đối với khoản thu nhập về tiền gửi tiết kiệm vẫn còn nhiều băn khoăn: Có hay không, bởi rất dễ ảnh hưởng đến việc huy động vốn cho đầu tư, sản xuất. Thêm vào đó, gửi tiết kiệm là phương án đầu tư cho lãi rất thấp so với đầu tư vào kinh doanh, chứng khoán hay bất động sản.  Về mức khởi điểm chịu thuế sau khi giảm trừ gia cảnh. Theo đó, phương án được đưa ra là mức bốn triệu hoặc năm triệu thì vẫn là cao so với thu nhập của Việt Nam. Do vậy, cũng có ý kiến đề nghị sau khi giảm trừ gia cảnh rồi thì thu thuế từ đồng thu nhập đầu tiên; có kiến nghị mức khởi điểm chịu thuế là một hoặc hai triệu...  Nhiều người không khỏi e ngại, việc giảm trừ gia cảnh sẽ dễ làm phát sinh ra hàng loạt các thủ tục liên quan đến rất nhiều cơ quan quản lý, gây khó dễ cho cả người đóng thuế và cơ quan quản lý. Để giảm thiểu được những thủ tục phức tạp, rắc rối đó, phương án là cấp mã số thuế, cho cả người nộp thuế và người ăn theo. Nhưng để thực hiện tốt công tác ấy, cần áp dụng công nghệ thông tin – một lĩnh vực còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ ở nước ta. 3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến luật thuế TNCN Việc tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, các nội dung cơ bản của Luật, các văn bản hướng dẫn và thủ tục hành chính về thuế TNCN đến tất cả các cơ quan, doanh nghiệp và mọi người dân là trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương. Đây là một vấn đề cần thiết để mang luật thuế mới đi vào quần chúng, tránh hiểu nhầm, hiểu sai các quy định của luật. Mặt khác, việc tuyên truyền cũng nhằm vào một mục đích lớn hơn là tuyên truyền về mặt ý thức, đảm bảo mỗi người đều có nhận thức chính xác về thuế và trách nhiệm nộp thuế để xây dựng đất nước. Tránh tình trạng hiểu sai dẫn đến tâm lý tiêu cực và hành vi trốn thuế, lậu thuế gây thất thoát cho ngân sách nhà nước và thiếu tính đồng bộ, công bằng trong nền kinh tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTieu luan.pdf
  • pdfKet luan.pdf
  • pdfLoi noi dau.pdf
  • pdfMuc luc.pdf