MỤC LỤC
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1
II. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA ANH VỚI CÁC ĐỐI TÁC QUAN TRỌNG 4
1. Quan hệ đối ngoại Anh - Mỹ 4
2. Quan hệ đối ngoại Anh - Canada 6
3. Quan hệ với Việt Nam 7
III. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH ĐỐI VỚI CFSP 10
1. Những quan điểm của Anh về CFSP 10
2. Những quyền lợi mà Anh được hưởng trong CFSP 13
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
MỤC LỤC 17
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1998 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Là một quốc đảo nằm ở tây Bắc châu Âu, gồm 4 vùng lịch sử dân tộc: Anh, Scotland, Bắc Ireland và Wales. Lịch sử ngoại giao Anh là những cuộc xâm chiếm thuộc địa mà đã có thời họ ngẩng cao đầu với thế giới và tự hào rằng: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh” (The sun never set upon on Empire)
Bước vào thập niên cuối cùng của thế kỉ của thế kỉ XX, trước những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình thế giới nói chung, của CNTB nói riêng và những động thái mới trong một đảng xã hội- dân chủ châu Âu, một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới thường xuyên nói đến từ cuối thập niên 90 trở lại đây.như là một phát kiến mới của CNXH dân chủ hiện đại, đó là một khái niệm “Con đường thứ ba”. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đây thực chất là sự tìm kiếm một mô hình chính trị được nhiều người tán thành để các đảng Dân chủ- xã hội chèo lái đất nước vượt qua thế kỉ XXI.
Một trong những người nhiệt thành nhất cổ suý cho tư tưởng Con đường thứ ba là thủ tương Anh Tonny Blair cùng các cộng sự trong Công đảng Anh. Con đường thứ ba theo cách hiểu của Tonny Blair honà toàn khác với khái niệm Con đường thứ bao dùng để gọi “con đường trung gian giữa CNXH và CNTB” mà các đảng xã hội- dân chủ đưa ra tại Đại hội thành lập Quốc tế xã hội năm 1951. Tonny Blair giải thích: “Con đường thứ ba là con đường xã hội- dân chủ được khôi phục và đã thành công. Nó hoàn toàn không phảilà con đường thoả hiệp giữa cách tả và cánh hữu. Cái mà nó tìm kiếm là quan niệm giá trị giữa phía giữa và phái trung tả. Nó phù hợp với những cải cách kinh tế và xã hội cơ bản trên toàn thế giới và không chịu sự chi phối quá mức của ý thức hệ tư tưởng”. Từ cách nói của Tonny Blair có thể dễ dàng nhận ra, thực chất sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của Công đảng Anh từ khi Tonny Blair lên cầm quyền là tư tưởng về con đường thứ ba “đưa CNXH- dân chủ hiện đại tới đổi mới và thành công”.
Nước Anh dưới sự lãnh đạo của T. Blair đã có một không khí mới trong quan hệ với các đối tác thuộc liên minh châu Âu (EU) vốn rất tồi tệ vào cuối thời kì cầm quyền của Đảng Bảo thủ. Mặc dù T. Blair vẫn giữ thái độ mập mờ đối với những vấn đề cơ bản (đồng tiền chung Euro, các thể chế, sự mở rộng EU…), nhưng ông đã từng bước thực hiện sự hoà nhập của nước Anh vào châu Âu.
Trong bối cảnh 13 nước thuộc Liên minh Châu Âu trong tổng số 25 nước là do các đảng xã hội- dân chủ cầm quyền hoặc liên hiệp nắm quyền, T. Blair đã đưa ra một khái niệm, đó là, “mô hình xã hội thống nhất của châu Âu”, nhằm mục đích tạo ra hình ảnh của một CNTB dựa trên nhiều nguyên tắc bình đẳng và tiến bộ hơn so với CNTB mang tính phân cực và không đáng tin cậy của Bắc Mỹ. Một trong những nội dung chủ yếu của quan điểm này là tư tưởng “khả năng cạnh tranh có tính tiến bộ của Châu Âu”, hay còn gọi là “chủ nghĩa cục bộ mang tính cạnh tranh”. Chủ nghĩa này xuất hiện nhằm để thích ứng với quá trình liên kết châu Âu. Nó là biện pháp đặc biệt để thúc đẩy sản xuất, bảo đảm sự thích ứng nhanh hoặc phân phối lại thu nhập một cách có lợi cho các nhà tư bản nhờ lao động. Nó mang những nét đặc thù về chính sáh xã hội và sự phân phối kinh tế quốc tế trên cơ sở Cộng đồng châu Âu.
Công đảng Anh ủng hộ một châu Âu mở rộng về phía Đông, một châu Âu được phân quyền mạnh mẽ để có thể nâng cao hiệu quả trong tất cả các vấn đề xuyên biên giới, nhưng sự hoà nhập chỉ được tiến hành trong lĩnh vực cần thiết. T. Blair phản đối việc nhất thể hoá hoàn toàn châu Âu về mặt chính trị. Ông đã từng nói: “Tôi thích một siêu thị châu Âu hơn là một nhà nước châu Âu”.
Trên bình diện quốc tế, Công đảng nhấn mạnh, mối đe doạ của chiến tranh lạnh đã xoá bỏ và các nguy cơ mới như tội phạm có tổ chức, chủ nghĩa khủng bố, ma tuý và ô nhiễm môi trường đã chuyển sang hướng khó lường. Điều đó đòi hỏi một khuôn khổ hợp tác quốc tế mới, linh hoạt đẻ có thể đối phó được với nguy cơ này.
Dựa trên quan điểm của “Chủ nghĩa can thiệp mới”, T. Blair chủ trương đẩy mạnh “chính sách ngoại giao toàn cầu” nhằm bảo vệ an ninh, phồn vinh và môi trường của tất cả các nước. T. Blair yêu cầu chính sách đối ngoại của Anh cần phải được quán triệt trong một “bộ khung lý luận”, trong đó “Luân lí và quan niệm giá trị” giữ một vai trò quan trọng. Đây thực sự là một bước tiến mới, vì trong suốt mấy thập niên trước đó, chưa bao giờ trong đường lối đối ngoại của Anh lại có một khái niệm có mục đích rõ ràng đến như vậy. Tuy nhiên, những lí luận đó còn mang nhiều mầu sắc lí tưởng và tự biện.
Không dừng lại ở đó, trong quan điểm đối với tình hình quốc tế, đặc biệt là sau sự kiện Kosovo, T. Blair lại tiếp tục nhấn mạnh lý luận “sứ mệnh ngoại giao” của Anh. Ngày 26/4/1999, tại cuộc gặp cấp cao của các nhà lãnh đạo NATO ở Whington, T. Blair đã có bài phát biểu khá nổi tiếng với đầu đề “Chủ nghĩa cộng đồng quốc tế” (Doctrine of International Community). Nội dung quan điểm mà T. Blair nêu ra trong bài phát biểu này tựu trung là: Xu thế toàn cầu hoá đã làm thay đổi cơ bản tình hình thế giới, dẫn tới một sự phụ thuộc lẫn nhau, dựa vào nhau sâu sắc cả về chính trị, kinh tế và anh ninh giữa các quốc gia.
Công việc của một nước có ảnh hưởng đến quốc tế vì nó gắn chặt đến cơ chế thị trường. Do vậy toàn cầu hoá dẫn tới quốc tế hoá công việc nội bộ của một nước là lẽ tất nhiên. Điều này có nghĩa là, lợi ích quốc gia chỉ được thực hiện bằng cách thông qua hợp tác quốc tế và do biên giới giữa các quốc gia có xu hướng lỏng lẻo nên công việc nội bộ của một nước hay một khu vực tất nhiên sẽ có “hiệu ứng rò rỉ” lan toả sang các nước khu vực và lân cận. Vì lẽ đó, Anh và các nước phương Tây cần phải hành động để đối phó với những thách thức của toàn cầu hoá. T. Blair cho rằng, nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ’ là một thứchủ nghĩa biệt lập đã lỗi thời, cần phải thay đổi bằng việc duy trì một sự can thiệp quốc tế trong những tiêu chí phổ biến nào đó, phải cải cách những cơ chế, những tổ chức quốc tế không còn phù hơp, trên cơ sở xây dựng lại một trật tự anh ninh- chính trị toàn cầu mới. Theo quan điểm đó thì hành động quân sự của NATO ở Kosovo được T. Blair biện minh là một sự cần thiết.
Vậy “Con đường thứ ba” có thành công hay không? T. Blair đã có những chính sách đối ngoại như thế nào và quan điểm của Anh ra sao đối với các tổ chức liên quân quốc tế? Có thể thấy, xét về thực chất, chính sách đối ngoại của T. Blair là tìm kiếm một sự “hợp tác quốc tế” với Mỹ để chi phối đời sống chính trị quốc tế. T. Blair kỳ vọng vào một trật tự quốc tế mới, trong đó những quan niệm và kinh nghiệm của phương Tây được tuyên truyền rộng rãi nhằm xây dựng một xã hội thị dân toàn cầu nằm trong quỹ đạo của CNTB. Điều này lí giải vì sao, nước Anh tích cực ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan và cuộc chiến ở Iraq.
II. QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA ANH VỚI CÁC ĐỐI TÁC QUAN TRỌNG
1. Quan hệ đối ngoại Anh - Mỹ
Mối quan hệ về chính trị: Từ trong lịch sử Anh và Mỹ đã có những mối quan hệ đặc biệt, đó là mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa. Sau này, khi những khái niệm về thuộc địa đã dần bị lãng quên thì người Mỹ vẫn luôn tự hào về nguồn gốc của mình và công lao to lớn mà họ đã là nên ở Tân thế giới. Trong cuộc chiến thế giới thứ hai, Mỹ và An luôn đứng trên một chiến tuyến. Mỹ trên danh nghĩa chỉ là một nước có chức năng buôn bán vũ khí cho các nước nhưng trên thực tế Mỹ luôn có những chính sách và hoạt động bí mật cung cấp vũ khí cho Anh chống lại trục Fatxit.
Ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận mối quan hệ ngày một vững chắc hơn giữa Anh và Mỹ, đặc biệt là từ khi ông Tonny Blair lên cầm quyền. Anh đã ủng hộ và theo sau tất cả những kế hoạch quân sự của Anh, và càng ngày Anh càng tỏ rõ là một cánh tay phải đắc lực của chính quyền Bush. Chiến sự Iraq bùng nổ, cả thế giới đứng lên đấu tranh cho hoà bình và cuộc sống của những người dân vô tôi Iraq, nhưng Anh không những không phản đối mà còn gửi 4000 quân lính trợ giúp Mỹ trong công cuộc tái thiết. Trái ngược rất nhiều với các thành viên trong EU, Anh Quốc đang vấp phải tình trạng tiến thoái lưỡng nan, lựa chọn EU hay là Mỹ.
Trở lại cuộc chiến Vụng Vịnh năm 1991, Anh đã tích cực hành động để cung cấp vũ khí, nguyên liệu phục vụ cho cuộc chiến của Mỹ hơn là những gì Anh đã làm cho EU.
Đối với hầu hết công chúng, đây vẫn là một mối quan hệ mập mờ. Ở bình diện này thì những hoạt động trên chính là cách Anh đang tái khẳng định mối quan hệ ngoại giao mật thiết với một cường quốc mạnh nhất thế giới và điều này khiến mọi người hiểu hơn về tình anh em với nước Mỹ ruột thịt. Thế nhưng, kể từ khi Anh gia nhập EU, Anh đã phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, một sự suy giảm rõ rệt đang xảy ra trong mối quan hệ này. Trong các cuộc đàm phán thương mại thế giới đầu thập niên của những năm 90, không có sự khác biệt nào giữa Anh và Mỹ. Và đây cũng chính là một phần trong kế hoạch của khối thương mại EU. Đến 1994, các cuộc họp được mở ra càng nhấn mạnh hơn nữa mối liên kết chính của Anh đều la EU.
Đến năm 2001, khủng bố đã diễn ra trên đất Mỹ buộc Mỹ phải lôi kéo đồng minh cùng các nước trên thế giới hỗ trợ về mọi mặt để khôi phục đất nước sau thảm hoạ kinh hoàng này. Và Anh là quốc gia đứng bên Mỹ mạnh nhất, là trợ thủ đắc lực nhất giúp Mỹ thoát khỏi khủng hoảng này. Có thể nói mối quan hệ Anh- Mỹ đang được hâm nóng trở lại sau khi thủ tướng Anh Tonny Blair lên cầm quyền.
Mối quan hệ về kinh tế: Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Anh trên thế giới là Mỹ; chiếm 15,7% trong tổng số mặt hàng xuất khẩu của sang các nước. Tiếp theo đó là Đức 10,5%, Pháp 9,5%, Hà Lan 6,9%, Ireland 6,5%, Bỉ 5,6%, Tây Ban Nha 4,4% và Italia cũng là 4.4% (năm 2003). Anh cũng nhập khẩu từ Mỹ với số lượng lớn chỉ sau Đức với 10,2%.
Ngược lại Mỹ cũng coi Anh là thị trường xuất khẩu lớn của mình. Hai bên đã dành cho nhau những chế độ ưu đãi, thu hút đầu tư để thúc đẩy hơn nữa không những là những mối quan hệ về chính trị mà còn về kinh tế và văn hoá.
Mối quan hệ về văn hoá: Vào thế kỉ XV, Christoph Colombo đã đặt bước chân đầu tiên lên miền đất nằm ở phía bên kia Thái Bình Dương, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử về những phát kiến địa lí. Cũng trong thời điểm này mâu thuẫn giữa những tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến đã lên tới đỉnh điểm và Châu Mĩ là mảnh đất dừng chân của những người chống lại chính quyền Anh và họ đã tạo nên một vùng kinh tế mới. Khi họ sang đây, họ đã mang theo cả bản sắc văn hoá và phog tục tập quan, rất nhiều người Mỹ sau này đã quay trở về An để thăm lại cội nguồn của mình. Điều này đac khẳng định hơn nữa mối quan hệ đặc biệt và lâu đời đã tồn tại từ trong lịch sử cho tới ngày nay.
2. Quan hệ đối ngoại Anh - Canada
Cũng tương tự như Mỹ, Anh cũng ó mối quan hệ bền chật với Canada từ trong lịch sử. Mối quan hệ này không chỉ đơn thuần ở trong lĩnh vực chính trị mà còn cả ở kinh tê và trên mặt trận an ninh.
Về mặt chính trị: Từ những ngày đầu của năm 1497, khi Jonh Cabot đặt chân lên vùng đất Newfoundland thì giữa Anh và Canada đã có những mối quan hệ như mẫu quốc với thuộc địa. Tới năm 1867, người Anh đã thiết lập ở Bắc Mỹ một vùng đất có tên Canada và coi đây là liên bang đầu tiên của đế chế Anh.
Cho tới ngày nay cả hai nước vẫn đang thúc đẩy mối quan hệ ngày càng vững mạnh hơn và họ đã đạt được những tiến triển tích cực. Anh và Canada cũng tiếp tục chia sẻ chủ quyền và những truyền thống trong dân chủ nghị viện. Anh đã thiết lập ở Canada chế độ toàn quyền. Vậy toàn quyền của Anh ở Canada là gì?
Toàn quyền của Anh ở Canada là người đại diện cho nữ hoàng Anh tạ Canada. Toàn quyền Anh do thủ tướng Canada lựa chọn và được bổ nhiệm làm Nữ hoàng. Tuy nhiên, vai trò chỉ mang tính chất nghi thức.
- Toàn quyền là người đại diện cho triều đình Anh ở Canada
- Toàn quyền là người thúc đẩy chủ quyền Anh ở Canada
Đối với vấn đề quân sự và an ninh quốc gia, Anh gửi rất nhiêù quân sang Canada học tập và rèn luyện. Trong đó có đội bay từ RAF đang tiến hành một cuộc tập rượt nhỏ ở Goose Bay, Labrador và trung tâm đào tạo quân đội Anh ở Canada (BATIC). Những bài tập này là vô cùng cần thiết và cấp bách nhằm duy trì thế trận của quân đội Anh.
Vào tháng 6 năm 1997, thủ tướng Canada- Chretien và Blair đã kí bản tuyên bố Joint nhằm tái khẳng định lại sức mạnh của mối quan hệ song phương và hướng tới một tương lai tốt đẹp, hợp tác trên mọi lĩnh vực. Đặc biệt hơn nữa, mối dàng buộc giữa hai quốc gia càng được thắt chặt hơn nữa khi tham gia vào các tổ chức quốc tế cũng như khu vực: Khối thịnh vượng chung (Common Wealth), G-8, Liên hợp quốc, NATO…
Về kinh tế: Anh và Canada giống như hai thành viên trong một gia đình hoà thuận với những điểm tương đồng về văn hoá và sự chia sẻ về quyền lực chính trị dân chủ là một điều vô cùng quan trọng trong quan hệ giữa hai nước nhằm phát triển thương mại và đầu tư. Canada là đối tác quan trọng đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Anh là điểm đến an toàn của các nhà đầu tư Canada. Anh cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới của Canada chỉ sau Mỹ và Nhật Bản. Anh và Canada- những thành viên của NAFTA và EU. ngày càng hợp tác và phát triển mạnh mẽ hơn.
Năm 2003, hàng hoá Canada xuất khẩu sang Anh đạt 5,7 tỉ USD, tăng 30% so với cùng kì năm 2002. Xuất khẩu Canada đang tăng dần trên đất nước này.
Hiện nay có khoảng 650 công ty lớn nhỏ của Anh đang hoạt động tại Canada. Năm 2003, Anh đầu tư vào Canada đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Pháp. Còn đầu tư trực tiếp của Canada vào Anh ước tính đạt 40,7 tỉ $ Canada, tăng 1,2% so với cùng kì năm 2002, và có hơn 500 công ty Canada đang hoạt động tại đây.
Về văn hoá: Hợp tác văn hoá là một phương tiện hữu ích để thắt chặt thêm tình hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Anh Quốc là thị trường xuất khẩu các ấn phẩm văn hoá quan trọng nhất của Canada và thị trường này cũng chỉ đứng thứ hai sau Mỹ. Các nghệ sĩ Canada và nghành công nghiêp văn hoá phẩm của đất nước này đang tạo nên những tác động đầy ý nghĩa tới Anh. Như: các ấn phẩm về sách, âm nhạc, phim ảnh và công nghiệp thiết kế. Năm 2002, Anh đã trở thành đối tác thương mại quan trọng thứ hai của Canada về việc xuất khẩu các ấn phẩm văn hoá với trị giá 14,5 triệu $ Canada. Giá trị xuất khẩu sách sang Anh lên tới 6.3 triệu $ Canada.
Ngoài ra hai nước này còn có những hợp tác về giáo dục, y tế, khoa học kĩ thuật…
3. Quan hệ với Việt Nam
Ngoài các mối quan hệ mật thiết trong liên minh châu Âu và các mối quan hệ trong lịch sử Anh còn thiết lập mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Sau 30 năm kể từ ngày thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức (11/6/1973), mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam- Anh quốc tuy cũng có lúc chìm lắng bởi các yếu tố lịch sử, song sự hợp tác phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa hai nước rtong thời gian gần đây càng khẳng định đường lối đổi mới tiến tới hội nhập với các khu vực và trên thế giới của cả hai quốc gia, Việt Nam và Anh quốc.
Mối quan hệ về chính trị ngoại giao: Kể từ ngày quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước được thiết lập đến nay, đặc biệt ngày 22/11/1990, khi vai trò và vị thế của Việt Nam do liên minh châu Âu chính thức nối lịa quan hệ thì quan hệ ngoại giao, chính trị, các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển. Các cuộc viếng thăm chính thức cấp cao giữa hai chính phủ ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh một mốc son trong lịch sử quan hệ phát triển Việt Nam- Anh quốc vào những năm đầu thập kỉ 90 là chuyến thăm chính thức đầu tiên của thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tới Anh tháng 7/1993, tiếp đó Ngoại trưởng Anh Doglas Hurd cũng đã tới Việt Nam vào ngày 15/4/1994. Các cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo cao nhất giữa hai nước trong thời kỳ đầu của công cuộc công nghiệp hoá tại Việt Nam đã phần nào cho thấy một chương mới đã mở ra trong quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước.
Việt Nam là một trong những nước ít ỏi trên thế giới thuộc phe xã hội chủ nghĩa, còn Anh vốn là một đồng minh rất thân cận của Mỹ. Nhưng do quá trình hội nhập của toàn cầu hoá và do những chuyển đổi trong chính sách đối ngoại của Anh- “Con đường thứ ba” và CNXH không còn là một mối nguy hiểm trong quan điểm cổ hủ của Anh nữa mà “Con đường thứ ba” là con đường đưa CNXH- dân chủ hiện đại tới đổi mới và thành công”. Phía Anh đã kí kết rất nhiều các khoản viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam như: Ký với bộ trưởng giáo dục và đào tạo Nguyễn Minh Hiển về khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 11 triệu USD, dự án xoá đói giảm nghèo với thứ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Võ Hồng Phúc…
Có thể thấy vào thời điểm đầu thế kỉ XXI, quan hệ Việt Nam- Anh quốc đã bắt đầu dần chuyển từ hình thái mang tính chất chính trị ngoại giao, viện trợ phát triển sang hình thái hợp tác kinh tế thương mại đôi bên cùng có lợi, đáp ứng lợi ích của hai dân tộc… Mô hình chuyển biến này thấy rõ trong các chuyến công cán của các cấp bộ trưởng của hai nước như: Chuyến sang thăm Việt Nam ngày 1/7/2002 của Bộ trưởng công thương Anh Alan Johnson cũng như chuyến thăm Anh của Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư Trần Xuân Giá ký thành công hiệp định Khuyến khích và bảo trợ đầu tư song phương. Hiệp định này nhằm thúc đẩy các nguồn đầu tư và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Với thành công này Việt Nam trở thành quốc gia thứ 95 mà chính phủ Anh có thoả thuận về bảo hộ và đầu tư, là cơ sở bảo hộ quyền lợi của các nhà đầu tư Anh quốc cũng như Việt Nam khi đầu tư vào thị trường của nhau.
Lĩnh vực hoạt động ngoại giao giữa hai nước càng khởi sắc khi công chúa Anne, con gái của Nữ hoàng Anh Elizabeth Đệ nhị đã sang thăm chính thức Việt Nam trong 5 ngày kể từ ngày 4-8/2004. Đánh giá về sự kiện này, Đại sứ Anh tại Việt Nam, ông Warwick Morris bày tỏ: “Chúng tôi rất vui khi công chúa Anne sang thăm Việt Nam đúng vào năm kỉ niệm 50 năm ngày lên ngôi của nữ hoàng Anh. Tôi chắc Bà sẽ có được những ấn tượng tốt đẹp trước những thành tựu mà chính phủ và nhân dân Việt Nam đạt được … Chuyến thăm này sẽ đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ hợp tác ngày một lớn mạnh giữa Anh quốc và Việt Nam.
Quan hệ về kinh tế thương mại giữa hai nước: Hiện nay Anh đang đứng thứ 10 trong danh sách những nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và đứng ở vị trí thứ hai trong Liên minh châu Âu. Các công ty và tập đoàn kinh tế của Anh đã có mặt tại thị trường Việt Nam từ rất sớm ngay từ khi có luật đầu tư nước ngoài. Tính cho đến tháng 7 năm 2002, Anh có 35 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 1.14 tỷ USD. Nhìn chung các dự án của Anh được hình thành tương đối đồng đều về số lượng và chủ yếu thông qua các hình thức: Hợp doanh có 10 dự án vốn đầu tư đạt 653 triệu USD, chiếm 56,4% vốn đầu tư; Liên doanh với 9 dự án, vốn đầu tư là 217 triệu USD, chiếm 18,7% vốn đầu tư nước ngoài đang được triển khai với 6 dự án, vốn đầu tư là 16 triệu USD chiếm 1,4% .
Qua các con số trên chúng ta có thể thấy, các nhà đầu tư Anh cũng đã góp một phần đáng kể vào sự đóng góp chung của Liên minh châu Âu đối với phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong suốt những năm qua. Các nhà đầu tư Anh nổi tiếng là thận trọng và tính toán kĩ lưỡng trong việc lựa chọn thị trường đầu tư, họ đã lựa chọn Việt Nam là điểm đến cho các kế hoạch lâu dài, điều đó chứng tỏ họ đã vượt qua tất cả những rào cản về sự khác biệt chính trị, văn hoá… Đặc biệt họ đã bỏ qua những cấm vận của Mỹ ở Việt Nam, bỏ qua những hận thù mà Mỹ đang lôi kéo đồng minh của mình để áp đặt cho Việt Nam.
Hơn thế nữa giữa hai nước còn có các chương trình hợp tác về giáo dục và hợp tác phát triển. Để thúc đẩy phổ cập hơn nữa hình ảnh đất nước Anh cũng như xúc tiến Việt Nam hội nhập với thế giới và khu vực, xoá đói giảm nghèo ở các khu vực miền núi, chính phủ Anh mới đây đã thông qua bộ phát triển quốc tế (DEID) viện trợ cho Việt Nam khoản viện trợ phát triển trị giá 30 triệu USD.
Hợp tác giáo dục, nâng cao năng lực cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách cũng đã và đang được đồng loạt triển khai thông qua một chương trình mang tên “Chương trình liên kết giáo dục cao” dưới sự giám sát điều phối bởi hội đồng Anh.
Đánh giá về những hoạt động liên kết cả về chính trị xã hội và giáo dục của đôi bên, Thị trưởng thành phố London Michel Oliver, trong chuyến thăm Việt Nam ngày 22/4/2002, đã nói: “Tôi cảm thấy thật tuyệt vời khi tiếp xúc với người dân Việt Nam trong 3 ngày qua tại Hà Nội… Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác giáo dục đào tạo và tăng cường hiểu biết lẫn nhau sẽ vẫn là trọng tâm cho tương lai quan hệ của hai nước.”
III. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ANH ĐỐI VỚI CFSP
1. Những quan điểm của Anh về CFSP
Ngay từ khi CFSP mới ra đời, Anh quốc đã nhận thức ngay được vai trò lãnh đạo của mình trong liên minh châu Âu và các vấn đề quốc phòng, an ninh và đối ngoại đối với toàn cầu. Sự suy giảm tương đối quyền lực của Anh từ 1945 đã buộc Anh phải hợp tác đa phương và sử dụng EU như làm một công cụ đẻ theo đuổi trách nhiệm và lợi nhuận toàn cầu. Vì lí do này mà Anh thường xem CFSP như là một phương tiện để nâng cao lợi nhuận của mình và do đó sự tham gia của Anh vào CFSP được xem như là một sự điều chỉnh hơn là phá vỡ những quyền ưu tiên chính sách ngoại giao. Mối quan hệ đặc biệt này đã đe doạ mối quan hệ đặc biệt với Mỹ của Anh. Anh vừa kí với NATO một bản cam kết lâu dài và điều này có vẻ như đáng tin cậy và Anh trở thành người trụ cột bảo vệ an ninh vô cùng hiệu quả của EU.
Nhìn chung khi so sánh sự hội nhập châu Âu, Anh vẫn không tỏ rõ bất cứ một ý kiến nào về việc tách rời khỏi CFSP từ trước tới nay. Hơn thế nữa, Anh lại là một trong những thành viên có mối quan hệ lâu dài nhất trong hệ thống quốc phòng và an ninh chung của châu Âu kể từ năm 1945. Vấn đề nan giải đã tăng khi sự hợp tác này trở nên là một tổ chức mang tính hình thức nhiều hơn là những hoạt động thực tế và hệ thống chính trị châu Âu đang đưa ra những lời đề nghị về một châu Âu siêu quốc gia. Đa số dân chúng đã tỏ ra nghi ngờ về điều này và kết quả là chẳng có một xu hướng thực sự nào dẫn đường cho chính sách đối ngoại và an ninh chung này cả. Các cuộc tranh cãi thường xuyên xảy ra và là tâm điểm của các cuộc tranh luận về đâu là chủ quyền thực sự của một quốc gia. Còn về phía Anh, chính phủ nước này luôn thúc ép buộc các chính phủ luân phiên phải tham gia vào các tuyên bố phòng vệ từ xa hay cùng tham gia vào một châu Âu như một nhà nước thống nhất và bỏ qua chủ quyền riêng của quốc gia. Nhưng thực tế lại không như mong muốn, các cuộc tranh cãi thường xuyên xảy ra và nghị viện châu Âu nêu bật một thực tế rằng EU có thể đã có được những đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia như hệ thống các tổng thống hay các bộ trưởng. Điều này cũng là nguyên nhân chính gây nên các cuộc tranh cãi từ các quốc gia. Ví dụ: Anh đồng ý và luôn muốn tiến hành nhanh các chương trình hoạt động cho CFSP nhưng một số nước lại không muốn đánh mất bản sắc riêng của mình trong một châu Âu thống nhất.
So sánh với một số các quốc gia thành viên khác thì công chúng Anh có vẻ như rất sẵn sàng cho việc đưa nước Anh nắm giữ vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU. Cùng với đó là sự lưỡng lự và những ý kiến không kiên định của Anh Quốc về vai trò lãnh đạo của mình. Vấn đề liên quan ở đây xoay quanh những mối lo ngại về một chủ nghĩa đế quốc mà Anh cho rằng nó không thuộc phạm vi ảnh hưởng của mình. Theo như ông Tonny Blair thì việc trở thành một thủ tướng lúc nào cũng phải rong ruổi trên khắp các nẻo đường châu Âu để chăm lo cho một chính sách an ninh chung thì là một điều không nên. Mà điều quan trọng đối với ông lúc này để tạo nên một châu Âu vững chắc và an toàn thì các nước phải tập trung hơn nữa vào công việc đối nội của mình. Và ý muốn của ông Blair là làm sao vừa đóng vai trò quan trọng trong chương trình hoạt động của CFSP vừa không phải lo lắng nhiều và mất nhiều công sức. Ông cũng muốn các nước làm sao thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa những chính sách đối nội. Điều này cho thấy những quan điểm vô cùng mâu thuẫn của Anh về CFSP. Nó khiến cho công chúng Anh chuyển từ thái độ hào hứng xây dựng cho một chính sách an ninh khu vực chung sang những mối nghi ngờ sâu sắc và câu hỏi mà họ đặt ra là liệu CFSP là sự tự nguyện của các quốc gia hay là một sự ép buộc từ phía những nhà lãnh đạo của EU có tiếng nói lớn?
Nước Anh có một lịch sử lâu đời về các liên minh quân sự và đây cũng chính là lí do vì sao Anh có quyền kiêu hãnh về các lực lượng quân sự của mình được trang bị vũ khí một cách đầy đủ. Họ có thể ra tay và hành động bất cứ lúc nào nếu cần thiết. Hơn thế nữa Anh còn muốn chứng minh cho thế giới về những các bản cam kết mà anh đang thực hiện để đạt được mục tiêu và tham vọng của mình. Tuy nhiên, nhiệm vụ này dường như vượt quá sức của Anh. Tham vọng của họ là nắm giữ vai trò lãnh đạo toàn cầu cũng như trong các vấn đề thuộc phạm vi giải quyết của liên minh châu Âu.
Tuy nhiên không phải lúc nào Anh cũng thực hiện được tham vọng của mình, Anh đang phải đối mặt với một đối thủ khá lớn, đó là Pháp. Cả hai bên đều muốn có được vị trí cao nhất trong Liên minh châu Âu, một vị trí lãnh đạo để mang tầm ảnh hưởng của mình quyết định tới toàn số phận châu Âu. Họ đều muốn sử dụng EU như một cung cụ để giúp mình tiến xa hơn trong phạm vi toàn thế giới. Nhưng nhìn chung cả Anh và Pháp đều đồng tình và sẵn sàng trở thành những đối tác tích cực trong việc xây dựng một EU thống nhất và thịnh vượng, một EU an toàn trong CFSP.
2. Những quyền lợi mà Anh được hưởng trong CFSP
Mặc dù sự gần gũi giữa Anh và Mỹ đã có từ rất lâu và ngày càng tỏ ra mật thiết hơn nữa nhưng Anh vẫn thường cung cấp cho EU về những quan điểum và chính sách đối ngoại cũng như trừng phạt kinh tế của Mỹ với các nước trên thế giới như: Các vấn đề ở Cuba, Libya, Iran, Israel- Palestin, hay các cuộc đàm phán quốc tế về môi trường và thương mại… Anh đã sử dụng EU như một tấm mền phủ để thiết lập nên một chính sách trước mắt cũng như lâu dài để chống lại đồng minh ngay cả những đồng minh thân cận nhất của mình. Anh luôn tìm kiếm sự trợ giúp từ EU trong các vấn đề ở Zimbabwe hay ở đảo Síp và EU phần nào đã xoá bớt đi nỗi lo sợ và e ngại của các nước đối với “đế quốc” Anh ở các khu vực này.
Trong cuộc chiến ở Iraq, chính phủ Anh phải đối mặt với các khó khăn liên tiếp và giấc mơ về sức mạnh quân sự toàn cầu của Anh đã bị sụp đổ. Nhưng bất cứ lúc nào Anh cũng có được sự trợ giúp của EU và NATO trong việc khôi phục lại sức mạnh cũng như vị thế của mình. Chính vì lí do này mà Anh tham gia rất tích cực vào các chương trình an ninh quân sự trong khu vực cũng như trong các khối liên hiệp như NATO. Bản tuyên bố Joint kí năm 1997, trong đó có sự tham gia cả của Mỹ và Canada về việc chống tên lửa đạn đạo WMD. Thủ tướng Anh Tonny Blair ủng hộ rất nhiệt tình với chương trình này. Ông nói: “Đây là một cơ hội tuyệt vời để Anh đẩy mạnh hơn nữa và nhấn mạnh tầm quan trọng của khối liên minh Xuyên Thái Bình dương”. Ông Peter Hain,một nghị sĩ của Anh đã phát biểu “Sự khác biệt giữa quan điểm của Anh trong CFSP với rất nhiều quốc gia khác là chúng ta nhìn thấy sự biến thiên giữa chúng. Nếu chính sác đối ngoại của chúng ta thành công thì EU sẽ trở thành mọt khu vực thịnh vượng và an toàn nhất thế giới. Nhưng nếu như chúng ta thất bại, chính sách an ninh chung bị đổ vỡ thì chính những người lính của chúng ta phải đi thu dọn và nhặt từng mảnh vỡ ấy và chính sách hỗ trợ của chúng ta sẽ phải mang trên vai gánh nặng số phận về một nền hoà bình, an ninh không những trong EU mà còn trên toàn cầu.
Chính phủ của ông Blair sẽ phải tiếp tục tiến hành phát triển và đưa ra những thuận lợi chính sách đối ngoại của mình cho công chúng. Đặc biệt ông Blair phải nhất quyết và chắc chắn về vai trò lãnh đạo của mình trong EU, trong các vấn đề thuộc phạm vi của CFSP. Anh sẽ phải tỏ rõ quan điểm hơn nữa đối với Mỹ vì trong trường hợp này Anh không thể lựa chọn cả hai, hoặc là EU, hoặc là Mỹ. Nội dung chính của CFSP là nhằm mang lại hoà bình và an ninh cho toàn khu vực và cho cả thế giới chứ không phải đi theo các bước chân của Mỹ để gây nên các cuộc chiến như ở Iraq hay Afghanistan… Cả EU lên tiếng phản đối chính sách của Mỹ và những gì mà ông Bush đang tiến hành ở Iraq, chỉ có Anh ủng hộ và tự nguyện gửi quân với số lượng khá đông sang Iraq để thực hiện công việc tái thiết Iraq. Nói tóm lại quan điểm của Anh về CFSP có những điểm chính sau:
Thứ nhất, chúng ta không thể phủ nhận về những đóng góp mà Anh đã làm để xúc tiến nhanh quá trình thực hiện CFSP.
Thứ hai, Anh muốn cả châu Âu phát triển trong một hệ thống chính trị và an ninh chung nhưng Anh lại không muốn mất đi bản sắc của mình. Chính vì thế mà Anh đã khuyến khích các nước trong Liên minh phát triển công tác đối nội. Cũng vì lí do này mà Anh đã từ chối không gia nhập hệ thống tiền tệ chung châu Âu mà vẫn giữ nguyên đồng bảng Anh của mình.
Thứ ba, Anh luôn muốn có được vị trị lãnh đạo trong CFSP để hướng con đường châu Âu đi theo chính sách của mình. Một phần không kém quan trọng đó là Anh muốn tạo dựng mối quan hệ với Mỹ để kì vọng vào một trật tự thế giới mới trong đó Anh nắm vai trò chủ chốt.
KẾT LUẬN
Khách quan mà nói thì Anh là một trong những quốc gia có nhiều kinh nghiệm trong hợp tác an ninh. Bộ quốc phòng Anh đã có rất nhiều các hoạt động chứng tỏ cho sự tồn tại của chính sách này. Có thể viện dẫn ra một số hành động như sau: Anh là một trong những thành viên sáng lập của khối quân sự Bắc Đại Tây dương NATO. Từ khi tham gia đến nay, vai trò của Anh trong khối này ngày càng lớn, bên cạnh đồng minh khổng lồ là Hoa Kỳ. Và với tiềm lực kinh tế của mình Anh cũng đang nắm giữ vai trò chủ chốt trong CFSP. Anh đã đạt được rất nhiều thuận lợi trong các chương trình hợp tác đa phương này. Nhưng bên cạnh đó Anh cũng phải đối mặt với không ít những thách thức cả trong quan hệ ngoại giao, kinh tế và lực lượng quân sự, đặc biệt là vị trí lãnh đạo mà nước nào cũng muốn dành giật lấy. Anh đang phải đứng trước hai ngả đường vô cùng khó khăn để lựa chọn. Nhiệm vụ lớn nhất của Anh lúc này là phải làm sao có được những sáng tạo trong vận dụng và thực hiện, cũng như xây dựng những nguyên tắc chỉ đạo cơ bản các hoạt động cơ bản của chính sách chung này. Chúng ta có thể ti tưởng vào một châu Âu thống nhất, an ninh va thịnh vượng, không chỉ bởi sự đóng góp vô cùng tích cực của các quốc gia tự nguyện tham gia và chiến lược phòng thủ chung mà còn do tình hình ngày càng phức tạp của thế giới, buộc các quốc gia phải liên kết lại để chông lại những thế lực hòng lật đổ hoà bình tròn toàn liên minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí nghiên cứu châu Âu- Viện nghiên cứu châu Âu
Britain- James O’Driscoll
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qth23.doc