MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I) MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 2
1) Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng. 2
2) Vai trò của hoạt động cho vay thông qua hợp đồng tín dụng. 3
II) THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 3
1) Chủ thể của hợp đồng tín dụng. 3
2) Hình thức của hợp đồng tín dụng. 4
3) Nội dung của hợp đồng tín dụng. 5
4) Giao kết hợp đồng tín dụng. 9
5) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng. 11
6) Thực hiện hợp đồng tín dụng. 12
7) Bảo đảm tiền vay. 12
8) Vấn đề hiệu lực của hợp đồng. 14
9) Trách nhiệm do vi phạm do vi phạm hợp đồng tín dụng. 15
10) Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. 16
III) MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY 16
VI) MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 19
KẾT LUẬN 21
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiều hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức, hộ gia đình, tổ hợp tác…còn phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và thẩm quyền đại diện để ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài những điều kiện chung như trên, bên vay còn có thể phải thỏa mãn những điều kiện riêng khác nữa do TCTD yêu cầu trong từng hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi TCTD yêu cầu.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các điều kiện này bao gồm:
+ Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
+ Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện cụ thể đối với bên cho vay và bên đi vay trong hợp đồng tín dụng, ngoài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động tín dụng còn có ý nghĩa là giải pháp nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của TCTD.
2) Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 thì mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch. Việc pháp luật quy định mọi hợp đồng tín dụng phải được kí kết bằng văn bản cùng với sự chấp nhận hai hình thái của hợp đồng nói trên có thể xem là những nỗ lực rất đáng kể của các nhà lập pháp, nhằm bảo đảm cho sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Mẫu hợp đồng mà các TCTD đưa ra không phải là hợp đồng mẫu theo quy định của BLDS (Điều 407), mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thoả thuận với ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.
3) Nội dung của hợp đồng tín dụng\
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực. Theo quy định tại điều 7 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì:
+ Thứ nhất: Khách hàng vay vốn cần phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Đối với khách hàng vay là tổ chức, cá nhân Việt Nam: các cá nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân, đại diện hộ gia đình, thành viên công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Còn tổ chức thì cần phải có năng lực pháp luật. Khi quy định “tổ chức phải có năng lực pháp luật” và “chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự” là không cần thiết bởi tổ chức thì luôn luôn có năng lực pháp luật, còn để trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân thì cá nhân đó buộc phải có đầy đủ cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Đối với khách hàng vay là tổ chức, cá nhân nước ngoài: các nhân và tổ chức muốn vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự theo quy định của nước mà tổ chức đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định. Đây là quy định mới theo hướng mở rộng khách hàng vay theo hướng phù hợp với thực tế với thông lệ quốc tế, tạo điều kiệ cho các tổ chức , cá nhân nước ngoài có cơ hội được tiếp cận với nguồn vốn vay.
+ Thứ hai: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
+ Thứ ba: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
+ Thứ tư: Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+ Thứ năm: Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư là các TCTD, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào, nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật cấm, như việc vay vốn để trả nợ TCTD khác hoặc trả nợ chính TCTD đã vay, nhưng lại rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước đây, việc đảo nợ bị cấm, sau đó được quy định khoản 2 điều 9 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 như sau: “Việc đảo nợ, các TCTD thực hiện theo quy định riêng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” . Tuy nhiên từ đó đến nay, vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung này.
Trong thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận thì TCTD lập tức được chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và thu hồi nợ trước hạn. Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên vay, pháp luật quy định TCTD có quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay.
- Điều khoản về phương thức và kỳ hạn trả nợ: Theo quy định tại khoản 1 điều 13 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn phương thức trả nợ căn cứ vào đặc điểm sản xuất, kinh doanh, hoạt động dịch vụ của khách hàng cũng như khả năng tài chính của họ. Điều này giúp cho chủ thể đi vay có thể chủ động hơn trong việc hoàn trả nợ cho TCTD. Các bên có thể thỏa thuận số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (chia thành các kỳ hạn) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn.
Việc phân ra các kỳ hạn trả nợ là một cách thức thông minh và linh hoạt của pháp luật. Bởi lẽ nó sẽ giúp cho các TCTD thu hồi dần được vốn cho vay cùng với một khoản lãi để duy trì hoạt động của mình, đồng thời cũng chia nhỏ gánh nặng cho chủ thể đi vay, không phải trả một lần toàn bộ số tiền đã vay. Như vậy sẽ giảm bớt rủi ro cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng hoàn trả toàn bộ số nợ một lần.
`- Điều khoản về lãi suất: lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Lãi suất được áp dụng trong hợp đồng tín dụng theo hai phương thức cơ bản là lãi suất cố định và lãi suất thay đổi (hay còn được gọi là lãi suất thả nổi). Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay, bất kể lãi suất thị trường có tăng lên hay giảm xuống. Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất thay đổi thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường. Tuy nhiên với tình hình nền kinh tế lạm phát như hiện nay, chỉ số tiều dùng thường lên xuống thất thường, lãi suất ngân hàng thường bị động trước những biến đổi ấy. Vì vậy, hầu hết các TCTD đều áp dụng quy định một lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ. Trong thời gian vừa qua, trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế, nhu cầu vốn cũng theo đó mà càng tăng lên. Các TCTD thường tiến hành hàng loạt các biện pháp để thu hút vốn. Từ đó diễn ra cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động vốn giữa các TCTD, đặc biệt là giữa các ngân hàng thương mại. Mặc dù NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng VND, với quy định:. “TCTD ấn định lãi suất huy động vốn bằng VND (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá) của các tổ chức (trừ các TCTD) và cá nhân bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Riêng các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất huy động vốn bằng VND không vượt quá 14,5%/năm”. NHNN kỳ vọng quy định này sẽ giúp thì trường tiền tệ đi vào ổn định. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, nhiều ngân hàng thương mại bắt đầu “lách” bằng cách đưa ra một loạt các hình thức khuyến mại cho khách hàng gửi tiền. Việc này đã khiến mức lãi suất huy động tăng cao, có thời điểm lên đến 17.5% đến 18%. Với lãi suất huy động như vậy thì ngân hàng sẽ buộc phải cho vay ở mức 21% – 22%/năm mới tồn tại được. Điều này đã gây áp lực cho doanh nghiệp, cho các cá nhân vay vốn. Với một mức lãi suất cao như vậy, họ sẽ rất khó khăn trong việc phát triển sản xuất, dẫn đến tình trạng nợ xấu của ngân hàng tăng nhanh. Điều này quay ngược lại ảnh hưởng trực tiếp tới các ngân hàng và chính những cá nhân, tổ chức gửi tiền vào ngân hàng.
Lãi suất quá hạn: Hầu hết các TCTD vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó. Mức lãi suất quá hạn không quá 150% này là do NHNN quy định dựa trên cơ sở BLDS năm 1995 giao cho NHNN quy định mức lãi suất quá hạn. Nhưng từ năm 2006 trở đi, nếu vẫn áp dụng mức lãi suất quá hạn này là không đúng pháp luật, vì BLDS năm 2005 quy định mức lãi suất quá hạn được tính “theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ” (Điều 474 khoản 5). Hai quy định này có sự chênh lệch rất đáng kể, nhất là trong thời kỳ lãi suất có sự biến động lớn.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận về số tiền vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Có một thời kỳ NHNN quy định khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa bằng thời hạn cho vay; khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay. Như vậy, khoản vay 12 tháng thì được phép gia hạn thêm 12 tháng nữa, nhưng nếu là khoản vay 13 tháng, thì chỉ được phép gia hạn thêm 6,5 tháng. Đến nay, các khoản nợ được gia hạn nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế. Tuy nhiên, khi đó khoản nợ sẽ bị đánh giá về khả năng rủi ro và phải phân loại vào nhóm nợ thích hợp để trích lập dự phòng.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính) hoặc lập thành một hợp đồng phụ kèm theo hợp đồng chính. Trên thực tế các bên thường kí kết hợp đồng phụ (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh) theo thể thức luật định nhằm thể hiện rõ ý chí của mình trong việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Về lí thuyết, hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh chỉ có tính cách là hợp đồng phụ nên hiệu lực của nó phụ thuộc hoàn toàn và hiệu lực của hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng).
4) Giao kết hợp đồng tín dụng
4.1) Nguyên tắc giao kết hợp đồng
+ Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Nguyên tắc này biểu hiện rõ ràng quyền tự do dân chủ mà nhà nước trao cho công dân. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các chủ thể, đồng thời nâng cao ý thức của người dân trong bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế còn tồn tại nhiều trường hợp vì lợi nhuận mà các TCTD “lách luật” đồng ý cho vay đối với các doanh nghiệp không thỏa mãn các điều kiện vay vốn (Các điều kiện quy định tại điều 7 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng).
+ Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Có thể nói các nguyên tắc trên đã phản ánh đúng đắn bản chất quan hệ hợp đồng trong cơ chế thị trường, trong đó là các quan hệ tự nguyện, có sự thỏa thuận về ý chí trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ nhu cầu nội tại của các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của các nguyên tắc này dường như không được bảo đảm trong hoạt động vay vốn hiện nay. Với bối cảnh nền kinh tế phát triển “quá nóng”, biến động thất thường, lợi dụng tình trạng nhu cầu vốn của cá doanh nghiệp lớn, các TCTD thường cho vay vốn lãi suất cao hơn quy định đến 3 – 4%. Để hợp thức hóa phần chênh lệch này, các TCTD quy định hàng loạt các loại phí như: phí quản lý tài sản bảo đảm, phí kiểm tra tài sản, phí quản lý hạn mức.... Hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào cấm việc thu phí của các TCTD, mà chỉ có các công văn nhắc nhở của ngân hàng nhà nước trong những thời kỳ phải thực hiện đúng trần lãi suất cho vay. Dù được coi là phí nhưng đó là chi phí liên quan đến khoản vay làm gia tăng lãi suất. Nếu không vay thì không có vốn sản xuất kinh doanh, vay thì doanh nghiệp phải chịu chi phí đội lên mà không thể hạch toán để tính thuế. Như vậy, ý nghĩa ban đầu của nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng đã không còn nguyên vẹn.
4.2) Các giai đoạn của giao kết hợp đồng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho TCTD để xem xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là TCTD chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những TCTD đã từng đi tiên phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là thư chào mời được TCTD gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà TCTD lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (TCTD) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do TCTD thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là TCTD phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, TCTD phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với TCTD theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
5) Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng được quy định tại điều 24 và 25 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001. Cụ thể như sau:
5.1) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên ngân hàng cho vay có các quyền sau:
+ Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay;
+ Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ nguồn vốn để cho vay;
+ Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng;
+ Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng;
+ Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật;
+ Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn;
+ Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo quy định;
+ Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam .
- Bên ngân hàng cho vay có các nghĩa vụ sau:
+ Giải ngân cho bên vay theo đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
+ Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
+ Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác của hai bên.
b) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
- Bên vay vốn có các quyền sau:
+ Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không đúng với các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
+ Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng của ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Bên vay vốn có các nghĩa vụ sau:
+ Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng;
+ Sử dụng tiền vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác với ngân hàng;
+ Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng;
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Trong số các nghĩa vụ của bên vay, thì nghĩa vụ trả nợ là quan trọng nhất. Nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên cho vay đồng ý, còn lại thì sẽ không bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất khả kháng.
6) Thực hiện hợp đồng tín dụng
Thực hiện hợp đồng tín dụng là việc các bên chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ đã phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc thực hiện hợp đồng do pháp luật quy định như: nguyên tắc thực hiện đúng các cam kết hợp đồng; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không xâm phạm lợi ích công cộng và quyền, lợi ích của chủ thể khác.
7) Bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện pháp bảo đảm phòng ngừa rủi ro tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay.
7.1) Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
+ Biện đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay bảo hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Điều kiện của tài sản dụng để bảo đảm này là: tài sản phải thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh và tài sản phải được phép giao dịch.
Ngoài hai điều kiện trên thì trong Nghị định 178/1999/NĐ-CP (nghị định quy định tài sản bảo đảm của TCTD, đã hết hiệu lực) tài sản bảo đảm tiền vay còn phải đáp ứng hai điều kiện nữa là tài sản không có tranh chấp và khách hàng vay phải mua bảo hiểm đối với tài sản mà pháp luật quy định. Nhưng trong thực tiễn áp dụng, các quy định này đã bộc lộ những bất cập, gây khó khăn cho các chủ thể tham gia quan hệ vay. Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã lược bỏ đi hai quy định này. Với quy định thông thoáng như vậy pháp luật đã tạo thêm cơ hội kinh doanh cho các TCTD và cơ hội vay vốn cho khách hàng, đồng thời vẫn bảo đảm được an toàn trong hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh của TCTD.
+ Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Tài sản hình thành từ vốn vay được hiển là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của TCTD. Tức là tài sản này sẽ được hình thành trong tương lai, theo đó tài sản này thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.
7.2) Bảo đảm không bằng tài sản
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có tài sản bảo đảm. Theo quy định của pháp luật thì TCTd có quyền chủ động cho khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản trên cơ sở chịu mọi trách nhiệm và hậu quả pháp lý phát sinh từ thỏa thuận đó. Quy định này rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, nó đã tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng cho các TCTD, tạo điều kiện cho những TCTD này phát huy tối đa khả năng nắm bắt thị trường, đồng thời thỏa mãn những nhu cầu vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định những hành lang pháp lý trong việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản như: khách hàng phải có dự án đầu tư, kinh doanh khả thi, có hiệu quả; khách hàng có khả năng tài chính để thực hiện trả nợ…
+ Bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hộ cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn. Theo quy định tại điều 49 mục 6 chương III Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì các tổ chức chính trị - xã hội bằng uy tín của mình bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng thương mại để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ…Cá nhân, hộ gia đình nghèo được bảo đảm bằng tín chấp phải là thành viên của tổ chức chính trị - xã hội đứng ra bảo lãnh đó.
Đây là hình thức thể hiện rõ tính chất nhân đạo của Nhà nước ta, theo đó Nhà nước bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn với mục đích giúp họ thoát nghèo, thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật hiện nay chưa quy định trường hợp nếu cá nhân, hộ gia đình nghèo đi vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng thương mại sẽ thu nợ từ đâu? Biện pháp xử lý đối với các tổ chức đứng ra tín chấp như thế nào? Ngay cả trong Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn ngày 12/4/2010 cũng chỉ đề cập đến việc xử lý rủi ro một cách rất chung chung. Do đó, trên thực tế không nhiều ngân hàng thương mại mặn mà với việc cho vay tín chấp.
8) Vấn đề hiệu lực của hợp đồng
8.1) Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và đương nhiên chúng được áp dụng chung cho mọi hợp đồng, trong đó hợp đồng tín dụng. Các điều kiện đó là:
Thứ nhất, “chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự”.
Thứ hai, “mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Mục đích của hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng sẽ bị coi là trái pháp luật và đạo đức xã hội khi giao dịch đó được các bên xác lập nhằm vi phạm các quy tắc pháp lí đã được Nhà nước xây dựng để bảo vệ quyền lợi chung hoặc nhằm xâm hại các giá trị đạo đức đã được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là điều kiện được pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi công.
Thứ ba, “có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tự do ý chí”. Một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lường gạt học sự ép buộc, cưỡng bức trong khi giao kết hợp đồng. Trên nguyên tắc, các khuyết tật này phải ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết của các bên mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu.
Thứ tư, “hình thức của giao dịch”. Đối với hoạt động cho vay thông qua hợp đồng tín dụng, vấn đề hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ loại giao dịch này cần được pháp luật quy định chặt chẽ về mặt hình thức nhằm ngăn ngừa các rủi ro pháp lí cho các bên trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch nên pháp luật ngân hàng đòi hỏi hình thức của hợp đồng tín dụng phải được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Xuất phát từ yêu cầu này của thực tiễn, tại Điều 17 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 quy định mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý.
b) Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD:
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD. Theo quy định này, việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là nghĩa vụ của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này mà lại gây thiệt hại tính được thành tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vu phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
c) Sự vô hiệu của HĐTD và các hậu quả pháp lý của vô hiệu:
Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
- Nếu giao dịch được xác lập nhưng vi phạm những quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích công hay trật tự công thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó đương nhiên vô hiệu ngay từ khi xác lập (vô hiệu tuyệt đối) và bất kì ai quan tâm đến lợi ích chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu. Thời hạn để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng này vô hiệu là không bị hạn chế (khoản 2 điều 136 BLDS 2005). Hợp đồng tín dụng bị vô hiệu tuyệt đối sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm xác lập giao dịch. Các bên không thể có lựa chọn nào khác ngoài việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi xác lập giao dịch.
Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập nhưng chỉ vi phạm các quy tắc pháp lí có mục đích bảo vệ lợi ích tư hay quyền lợi tư của các bên tham gia vào giao dịch thì hậu quả kéo theo là giao dịch đó có thể bị coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối) và chỉ những người có quyền lợi bị xâm hại (bao gồm các bên của giao dịch hoặc người thứ ba không tham gia vào giao dịch nhưng có quyền lợi liên quan) mới có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. Thời hạn yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập (khoản 1 điều 136 BLDS 2005). Trong trường hợp hợp đồng tín dụng vi phạm những điều kiện có thể dẫn đến giao dịch bị vô hiệu tương đối, các bên có hai khả năng lựa chọn: a) Tìm cách khắc phục các nguyên nhân làm cho giao dịch vô hiệu – gọi là hoàn thiện giao dịch (ví dụ, sửa chữa các sai sót về thủ tục công chứng, thủ tục uỷ quyền, phục hồi lợi ích cho bên đối tác bị thiệt hại, thay đổi nội dung giao dịch cho phù hợp với ý chí của cả hai bên…) để làm cho giao dịch hoàn toàn có hiệu lực; hoặc b) Yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp các bên lựa chọn giải pháp hoàn thiện giao dịch thì mặc nhiên coi như đồng nghĩa với việc họ từ bỏ quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
9) Trách nhiệm do vi phạm do vi phạm hợp đồng tín dụng
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện:
- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
- Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
- Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán có thẩm quyền.
10) Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài. Vì thế không phải cứ khi nào có vi phạm hợp đồng thì có tranh chấp hợp đồng mà tuy vào hoàn cảnh cụ thể để xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh chấp.
Theo pháp luật Viêt Nam, tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng những con đường sau đây:
- Tự thương lượng giữa các bên tranh chấp: theo quy định của pháp luật, trước hết các bên có quyền tiến hành thương lượng với nhau nhằm tiến tới dung hòa lợi ích cho cả 2 bên.
- Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian: giải pháp này có thể được các bên lựa chọn khi việc thương lượng không đạt kết quả. Việc quy định cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và để tránh cho các bên những khoản chi phí không cần thiết do phải kiện trước Tòa.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán: đây là giải pháp cuối cùng để phân định quyền lợi giữa các bên. Theo điều 22 BLTTDS 2004 tòa án theo thủ tục dân sự sẽ có thẩm quyền giải quyết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận điều khoản lựa chọn trọng tài thương mại khi có tranh chấp phát sinh,lúc này sẽ áp dụng theo Pháp lệnh trọng tài thương mại.
III) MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY
Một là: Một số quy định cho vay theo hợp đồng tín dụng chưa phù hợp với thực tiễn.
+ Thứ nhất là việc NHNN ấn định trần lãi suất huy động là chưa đủ để ổn định nền kinh tế cũng như làm hạn chế được tình trạng chạy đua lãi suất giữa các TCTD, đặc biệt là giữa các ngân hàng. Các ngân hàng này vẫn có nhiều cách để “lách”, khiến mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay tăng cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, gây rủi ro rất lớn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vì vậy cần có những biện pháp để ngăn chặn tình trạng này, giữ cho nền kinh tế được ổn định.
+ Thứ hai: Điều 19 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng (do NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001) quy định những đối tượng không được giao kết hợp đồng tín dụng với TCTD còn cứng nhắc. Trong nhiều trường hợp, cán bộ ngân hàng, thành viên và người nhà thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm toán, tổng giám đốc…nếu có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp và muốn dùng những tài sản này để cầm cố, thế chấp tại chính ngân hàng mà họ đang trực tiếp quản lý và công tác thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là là họ không sử dụng vốn vay một cách phạm pháp. Hiện nay pháp luật lại cấm TCTD giao kết hợp đồng tín dụng với những đối tượng này trong khi họ hoàn toàn có khả năng trả nợ là điều bất hợp lý và không công bằng. Quy định này đã loại bỏ một bộ phận không nhỏ những khách hàng tiềm năng của các TCTD.
+ Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 điều 18 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng thì tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của TCTD hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các TCTD cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên thực những giới hạn này lại quá chặt chẽ, khắt khe. Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường phát triển nhanh và nóng như hiện nay thì nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn lớn, ngân hàng thương mại cũng muốn tài trợ cho họ mà lại phải cấp tín dụng hợp vốn, điều này đồng nghĩa với việc bán nợ cho các ngân hàng khác, giảm lợi nhuận của ngân hàng mình. Bên cạnh đó, tại khoản 2 điều 18 quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, TCTD chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể”. Thực tế cho thấy, quy trình từ việc ngân hàng thương mại đề nghị cho vay lên Chính phủ và Thủ tướng xem xét, ra quyết định thường mất thời gian. Vì vậy mà lỡ mất cơ hộ kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như khách hàng, đồng thời quy định thủ tục này cũng không phù hợp với xu hướng cải cách hành chính.
+ Thứ tư: Một thực tế cần quan tâm đó là vấn đề thế chấp quyền sử dụng đất. Trong khi các văn bản pháp lý điều chỉnh vấn đề này như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai 2003, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm đều quy định điều kiện để thế chấp quyền sử dụng đất, nhà ở là bên thế chấp phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng trên thực tế tiến độ cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm. chỉ có khoảng 30% số hộ gia đình có sổ đỏ, còn lại là chưa có. Như vậy đồng nghĩa với việc khoảng 70% số hộ gia đình sẽ không có quyền thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng. Tình trạng pháp luật quy định không phù hợp với thực tiễn khiến cho việc nhận bảo đảm và thực hiện đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất còn gặp nhiều khó khăn.
+ Thứ năm: Ngoài ra còn tồn tại bất cập về vấn đề định giá tài sản bảo đảm tiền vay. Hiện nay dù đã có Pháp lệnh về giá ngày 26/04/2007 nhưng vẫn chưa có những tiêu chuẩn định giá thống nhất, phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, nhiều loại tài sản bị thay đổi tính chất lý hóa trong quá trình sử dụng, dẫn đến sự tăng lên hay giảm xuống về mặt giá trị, bị hư hỏng, thất thoát. Do vậy khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn, ngân hàng thương mại thường gặp nhiều trở ngại trong việc định giá tài sản, nhất là định giá quyền sử dụng đất. Bởi trong thực tế, hoạt động định giá quyền sử dụng đất diễn ra rất lộn xộn và những diễn biến về giá trị của loại tài sản này không phản án được giá trị đích thực của nó.
2) Một số quy định về bảo đảm tiền vay còn chưa hợp lý
+ Thứ nhất: Khi các tổ chức chính trị - xã hội dùng uy tín của mình để bảo lãnh cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn tại các tổ chức tín dụng thì khi cá nhân, hộ gia đình nghèo đi vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn thì ngân hàng thương mại sẽ thu nợ từ đâu? Biện pháp xử lý đối với các tổ chức đứng ra tín chấp như thế nào? Đây là điều mà pháp luật không hề đề cập đến. Ngay cả trong Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn ngày 12/4/2010 cũng chỉ đề cập đến việc xử lý rủi ro một cách rất chung chung. Do đó, trên thực tế không nhiều ngân hàng thương mại mặn mà với việc cho vay tín chấp. Đây cũng là một điểm cần phải khắc phục.
+ Thứ hai: vướng mắc trong việc giao kết hợp đồng tín dụng mà tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản hình thành từ vốn vay. Trong thực tế sau khi giao kết hợp đồng tín dụng, TCTD sẽ khó có khả năng thu hồi nợ đối với khoản vay này nếu có tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, bởi lẽ biện pháp bảo đảm tiền vay này không chắc chắn. Ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng, tài sản bảo đảm chưa hình thành và các bên cũng không thể biết chăc rằng liệu quá trình kinh doanh của bên vay sẽ không gặp nhiều khó khăn, cản trở có khả năng ảnh hưởng đến việc trả nợ. Nếu khó khăn xảy ra, TCTD sẽ khó thu hồi nợ vì tài sản bảo đảm cho khoản vay này rất có thể chưa hình thành. Lý do này đã khiến cho các TCTD chưa thực sự mặn mà đối với việc giao kết các hợp đồng tín dụng mà tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản hình thành từ vốn vay.
+ Thứ ba: Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là quyền sử dụng đất và bất động sản vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào các cơ quan hữu quan khi con nợ chây ỳ, cố tình trì hoãn thời gian xử lý tài sản bảo đảm để ngân hàng không thể thu hồi nợ. Thực tiễn tại các TCTD ở TP.Hồ Chí Minh cho thấy hiện nay có khoảng 4000 khoản nợ đọng, nợ chưa thu hồi mặc dù có tài sản bảo đảm nhưng chưa được xử lý để thu hồi nợ cho ngân hàng nhà nước. Tất nhiên việc xử lý tài sản bảo đảm chậm do nhiều nguyên nhân như: hồ sơ pháp lý của tài sản còn thiếu; thủ tục bán đấu giá tài sản còn nhiều phức tạp mất thời gian; do sự không hợp tác của con nợ…Chính điều này cũng cho chúng ta thấy rằng không phải cứ cho vay có tài sản bảo đảm là yên tâm.
VI) MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
1) Hoàn thiện các quy định của pháp luật
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại, cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động tín dụng một cách an toàn, lành mạnh, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các quy định pháp luật để xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, các quy định này đã bộc lộ nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn nền kinh tế của nước ta. Vì vậy, em xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
+ Thứ nhất: việc Nhà nước ấn định trần lãi suất huy động, không giúp nhiều cho việc hạn chế rủi ro hệ thống và cũng không đảm bảo lãi suất thực dương để chống lạm phát. Mặt khác, việc thả nổi lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây áp lực nặng nề lên các chủ thể đi vay, đặc biệt là các doanh nghiệp. Từ thực tế này, chúng ta cần phải quy định trần lãi suất cho vay bên cạnh trần lãi suất huy động. Như vậy các ngân hàng thương mại sẽ không âm thầm đẩy lãi suất huy động lên cao rồi sau đó tăng lãi suất cho vay. Việc quy định lãi suất trần cho vay không đi ngược với xu hướng thỏa thuận lãi suất vay giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu ngân hàng nhà nước đưa ra được mức lãi suất trần hợp lý thì cả đôi bên đều có lợi, bởi về phía ngân hàng thương mại họ sẽ tính toán để sau khi trừ các chi phí, lạm phát thì vẫn có lãi. Còn về phía doanh nghiệp cũng không bị ép khi đi vay. Bên cạnh đó cần có biện pháp xử phạt đối với các TCTD vi phạm quy định của NHNN, “khơi mào” cho một cuộc chạy đua lãi suất.
+ Thứ hai: Nhà nước cần sớm sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng thuộc diện cấm vay theo Quyết định 1627. Theo đó, nếu các cán bộ trực tiếp cho vay, thành viên và người nhà thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc có tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền sử dụng hợp pháp thì vẫn được vay vốn TCTD nơi mình trực tiếp công tác.
+ Thứ ba: Nhà nước cũng cần sửa đổi, quy định giới hạn tỷ lệ vốn cho một khách hàng vay không quá 15% vốn tự có của TCTD. Đối với các dự án quốc gia, có Chính phủ bảo lãnh, có thể nâng tỷ lệ này lên 20% đến 25% nhằm giảm thiểu những thủ tục rườm rà khi chủ dự án phải liên tục xin phép Chính phủ như trong thời gian qua
+ Thứ tư : Cần sửa đổi một số quy định về cho vay không có tài sản bảo đảm: đây là trường hợp cho vay mà ngân hàng thương mại không nắm quyền chủ động, vì vậy các quy định pháp luật nhất thiết phải được quy định rõ ràng nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên cho vay. Nhưng trên thực tế, khi ngân hàng thương mại tiến hành cho vay không có tài sản bảo đảm, pháp luật lại không có quy định cụ thể về trách nhiệm của bên đứng ra bảo lãnh tín chấp. Cụ thể như sau:
+ Ngân hàng thương mại cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ: pháp luật không quy định trường hợp nếu khách hàng không trả được nợ khi đến hạn thì bên cho vay sẽ thu nợ từ đâu. Trong trường hợp này, nhà làm luật nên quy định trong trường hợp này Chính phủ sẽ đóng vai trò là người bảo lãnh đứng ra trả nợ cho bên đi vay, bảo đảm cho việc thu hồi vốn của ngân hàng thương mại.
+ Ngân hàng thương mại cho vay theo tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội: mặc dù ý nghĩa nhân đạo rất rõ ràng nhưng thực tế lại có rất ít các ngân hàng thương mại tham gia vào hình thức cho vay này bởi lẽ pháp luật không quy định ngân hàng sẽ thu nợ ở đâu nếu cá nhân, hộ gia đình nghèo được các tổ chức chính trị - xã hội bảo lãnh không trả được nợ. Như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức đứng ra bảo lãnh và các phương thức để xử lý nợ trong trường hợp các ngân hàng thương mại không thu được nợ. Có nghĩa là trách nhiệm trả nợ lúc này sẽ thuộc về các tổ chức chính trị - xã hội đã đứng ra bảo đảm bằng tín chấp.
Nếu những quy định của pháp luật thay đổi theo hướng trên, các ngân hàng thương mại sẽ không còn e dè trong việc cấp vốn vay cho các đối tượng được bảo lãnh. Theo đó, những chính sách kinh tế, xã hội mà nhà nước đặt ra sẽ được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả hơn.
2) Hoàn thiện các biện pháp tổ chức thực hiện
Sau khi đã có một hệ thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, vấn đề đặt ra là phải xây dựng hệ thống các công cụ, biện pháp để tổ chức thực hiện các quy định ấy trên thực tế.
+ Thứ nhất: ngân hàng thương mại cũng cần hạn chế cho vay phi sản xuất, tức là hạn chế cho vay chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán, cho vay đầu tư chứng khoán, cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản, cho vay đối với các nhu cầu vốn để phục vụ đời sống và cho vay tiêu dùng. Theo chỉ thị số 01 của ngân hàng nhà nước ngày 01/3/2011 quy định tỷ trọng dư nợ cho vay khu vực phi sản xuất so với tổng dư nợ đến ngày 30/06/2011 là 22% (so với mức 34% như thời điểm cuối năm 2010). Quan trọng hơn cả là phải kiểm soát cho vay tín dụng bất động sản. Đặc điểm của đối tượng cho vay này là các ngân hàng cho vay vốn để các cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu thật sự để mua nhà ở, đất ở, căn hộ mà phần lớn là tập trung ở khu vực thành phố, thị xã tập trung đông dân cư, khu đô thị mới, trong đó, có các đối tượng học sinh, sinh viên mỗi năm ra trường hàng triệu người mà trụ lại tìm việc làm ở thành phố. Dòng người di cư về thành phố làm cho nhu cầu về nhà ở hàng năm tăng rất nhanh, giá cả nhà đất cũng tăng theo.
+ Thứ hai: bản thân cá ngân hàng thương mại cần thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật, tránh tình trạng “nhờn” chính sách, bảo đảm ý nghĩa của quy định pháp luật được nguyên vẹn khi áp dụng vào thực tế. Từ đó cũng giảm bớt những trường hợp ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận mà “xé rào” pháp luật.
+ Thứ ba: cần xây dựng các quy chế đạo đức với cán bộ ngân hàng, trang bị kỹ thuật phương tiện cho các ngân hàng thương mại. Vì ngân hàng là một ngành nghề nhạy cảm, là xương sống của cả nền kinh tế, nên hậu quả pháp lý của các hành vi sai phạm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định của nền kinh tế. Chính vì vậy cần phải tổ chức đào tạo, nâng cao chuyên môn cho các cán bộ ngân hàng, từ đó nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức nghề nghiệp cho họ. Khi chuyên môn đảm bảo thì quá trình thẩm định hồ sơ, xem xét các vấn đề bảo đảm tiền vay cũng sẽ chắn chắn hơn, đúng với quy định của pháp luật. Và các rủi ro theo đó mà cũng giảm bớt đi.
+ Thứ tư: để thực hiện lộ trình giảm lãi suất trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại cần rà soát lại các hợp đồng tín dụng, các dự án, phương án sản xuất kinh doanh để giải ngân kịp thời, giúp cho doanh nghiệp sớm được vay vốn. Đặc biệt là không được tính thêm bất kỳ khoản chi phí nào khi doanh nghiệp có nhu cầu xin vay. Việc hạ lãi suất huy động, các ngân hàng thương mại cần chấm dứt ngay hoạt động khuyến mại khi khách hàng gửi tiền vì mục đích kéo khách hàng vào ngân hàng mình. Việc giảm lãi suất huy động sẽ làm giảm lượng tiền gửi vào ngân hàng, gây khó khăn cho một số ngân hàng thương mại đang thật sự khó khăn về vốn, nhưng không để xảy ra tình trạng người dân đi rút tiền ở chỗ lãi suất thấp đi gửi ở nơi có lãi suất cao.
+ Thứ năm: cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng. Điều này đồng nghĩa với việc khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm hoặc giải quyết tranh chấp hợp đồng…ngân hàng thương mại và khách hàng sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí. Mặt khác khi có sự trợ giúp của các cơ quan chức năng, ngân hàng thương mại cũng dễ phát hiện ra những sai phạm trong hoạt động cho vay.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, bên cạnh những mặt tích cực trong pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì vẫn còn tồn tại những hạn chế (như đã phân tích ở các nội dung trên) có thể gây ra những rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng, nói rộng ra là sự an toàn cho hệ thống tài chính nước nhà. Trước những biến động của nền tài chính thế giới ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến tài chính trong nước và sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước sẽ ảnh hưởng mạnh đến chính sách cho vay của các tổ chức tín dụng thì pháp luật điều chỉnh hoạt động hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng cần thiết phải hoàn thiện
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình luật ngân hàng – ĐH Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân 2007.
Luật các tổ chức tính dụng số 07/1997-12/12/1997.
Luật số 20/2004/QH 11 ngày 15/06/2004 về sửa đổi bồ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng.
Bộ luật dân sự 2005.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm.
Nghị định số 178/1999/NĐ- CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
“Pháp luật hợp đồng tín dụng và một số đánh giá, kiến nghị”, Nguyễn Thị Yến, Khóa luật tốt nghiệp, 2006.
Một số tài liệu khác lấy từ internet.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BT HKY NGamp194N Hamp192NG.doc