Đứng bên thềm thế kỷ mới điểm lại một trăm năm qua điều chúng ta thấy là sự biến đổi to lớn theo dòng thác cuồn cuộn của lịch sử thế giới. Thế kỷ XX sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử, là 100 năm rực rỡ nhất của loài người. Sự phát triển như vũ bão của sức sản xuất , những thành tựu huy hoàng của khoa học kỹ thuật và sự tiến bộ rõ rệt của nền văn minh xã hội trong thế kỷ XX là vượt qua thiên niên kỷ trước
34 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu toàn cầu hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương khoá VI đã nẵm bắt xu thế khách quan của thời đại, đề ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, trong đó có những quan điểm cơ bản về mở rộng kinh tế đối ngoại theo phương châm: " đa phương hoá, đa dạng hoá". Tiếp theo đại hội VII, VIII và IX của Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện chủ trương đó. Tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 90 nước, quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 60 nước, ký kết nhiều hiệp định thương mại … Nền kinh tế ngoại giao đa phương hoá và đa dạng hoá Việt Nam phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Tích cực hội nhập ASEAN tham gia AFTA và ASEM phát triển ngày càng sâu rộng quan hệ trên nhiều phương diện với các nước Tây - Bắc Âu và EU, đã gửi đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ tháng 12/1994, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách tại các thiết chế khu vực và thế giới. Đây là thành tựu quan trọng góp phần tạo ra thế và lực mới cho việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.Thuận lợi rất cơ bản thứ hai để Việt nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới môi trường hoà bình và ổn đình về nhiều mặt, tiềm năng lớn cả về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người, vị trí địa lý kinh tế quan trọng.
Việt nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với khu các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đi ra ngoài Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới với bờ biển rộng trải dài từ Bắc tới Nam với nhiều hải cảng, đặc biệt là cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài một số khoáng sản như Bôsit có chữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới , quặng đất hiếm có trữ lượng lớn đứng thứ 2 trên thế giới, sau Trung Quốc thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Với nguồn tài nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển ngành vật liệu xây nghiệp: gốm, sứ, du lịch, kết hợp phát triển từ các sản phẩm công nghiệp để tạo ta sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn phóng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu CNH, HĐH.
Đến nay, sau gần 17 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng để chủ động hội nhập kinh tê quốc tế. Thuận lợi này có tác dụng thúc đẩy quá trình đổi mới ở Việt Nam.
1.1.3. Những thời cơ mới để Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là: Mở rộng thị trường ra nước ngoài, tìm hiểu thị trường mới cho hàng hoá Việt Nam trên cơ sở các hiệp đinh thương mại song phương đã ký kết.
Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện đầy đủ cam kết của AFTA vào năm 2006 thì các hàng công nghiệp chế biến mang thương hiệu Việt Nam có thể tiêu thụ ở tất cả các nước ASEAN - thị trường có số dân hơn nửa tỷ người và GDP trên 700 tỷ USD. Trong tương lai gần, khi gia nhập WTO thì Việt Nam sẽ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc (MFN) và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu 148 nước thành viên của các tổ chức này được thuận lợi hơn. Nhìn về tương lai xa hơn, nếu như nhìn vào năm 2020 hàng rào thuế quan các nước APEC được rỡ bỏ thì hàng hoá "Made in Vietnam" sẽ có một thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Thực tế cho thấy nếu trước khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, thuế xuất của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ ở mức từ 40% đến 50% thì sau khi hiệp định đó có hiệu lực thuế suất chỉ còn từ 3% đến 4%. Nhờ đó hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ tăng từ 6% (năm 1998) lên 27.8% (năm 2000) và năm 2002 còn tăng cao hơn.
Có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã nhận được các khoản cam kết ODA là hơn 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được hơn 10 tỷ hơn USD đối với FDI có trên 3800 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 24 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 22 tỷ USD. Chính nhờ có nguồn vốn này, chúng ta xây dựng được nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, hoạt động có hiệu quả, hình thành thành phần kinh tế thứ 6 - kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 13% GDP và tốc độ tăng trưởng trên 20% năm.
Nhiều thời cơ tiếp nhận và đổi mới công nghệ trang thiết bị
Ngày nay tốc độ phổ cập trí thức mới kỹ thuật và công nghệ tiên tiến diễn ra rất nhanh tróng, đa dạng thông qua nhiều hình thức và kênh thông tin khác nhau, nhất là con đường nghiên cứu ứng dụng và tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới của thế giới. Tuy nhiên độ tiếp nhận khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện của từng nước. Những năm qua chúng ta đã có nhiều nỗ lực nên được xếp vào hàng các nước có tốc độ phát triển hạ tầng công nghệ thông tin nhanh nhất thế giới.
Mở của tạo điều kiện phát huy nội lực
Nguồn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào về số lượng và có ưu thế nổi trội về chất lượng ở một số lĩnh vực công nghệ hiện đại nhu công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ sinh học … Nhưng nếu chúng ta đứng ngoài nền kinh tế thế giới thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đó. Hội nhập kinh tế quôc tế sẽ giúp khai thông các mối quan hệ giao lưu nguồn nhân lực của Việt Nam với thế giới. Nhờ hội nhập có thể mở rộng hợp tác trao đổi chuyên gia để đưa đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài xuất khẩu lao động và đẩy mạnh xử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời có thể nhập khẩu các loại lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các bằng phát minh sáng chế mà Việt Nam chưa có. Hội nhập sẽ đưa đến cho Việt Nam cơ hội kết hợp ngoại lực, góp phần đẩy nhanh công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Có sự phân công lao động mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trên nhiều phương diện.
Sự phát triển của các ngành, lĩnh vực kinh tế mới như hoạt động thương mại, dịch vụ, công nghiệp bảo quản nông phẩm chế biến,sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ…sẽ tạo ra nhiều việc làm mới do vậy sẽ giảm tỉ lệ thất nghiệp. Mặt khác để thích ứng với quá trình xã hội hoá lao động, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao, người lao động sẽ chuyển dần từ lao động giản đơn sang lao động phức tạp, từ lĩnh vực có năng suất thấp sang lĩnh vực có năng suất cao.
Tính năng động, sáng tạo trong tư duy và cách làm ăn kinh tế theo cơ chế mới được đẩy mạnh, nhu cầu học tập và tìm hiểu kinh nghiệp quản lý tiên tiến được coi trọng, góp phần quan trọng vào dân chủ hoá đời sống kinh tế tham gia vào nền kinh tế thế giới các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn một cách bình đẳng, sẽ có một vị thế tốt hơn để mở rộng quan hệ buôn bán với các nước. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới cách thức tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị tiếp thu những phương pháp quản lý tiên tiến, từ bỏ lối làm việc hành chính quan liêu, cửa quyền, bảo thủ, trì trệ, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.Hội nhập kinh tế quốc tế cùng mở ra cơ hội cho tất cả các thành phần kinh tế được quyền tham gia vào các hoạt động sản suất kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước.
1.2. Khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1.2.1. Khó khăn, thách thức chủ quan lớn nhất mà Việt Nam cần nỗ lực vượt qua là thực trạng nền kinh tế có nhiều mặt lạc hậu so với khu vực và thế giới nhưng phải chấp tư cách là thành viên cạnh tranh bình đẳng với các nước khác.
Về mặt kinh tế, trình độ phát triển của ta so với quốc tế còn thấp, lạc hậu.Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp .Trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25.4% GDP,công nghiệp chiếm 34.5% và dịch vụ chiếm 40.4%.Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu nông nghiệp giảm mạnh chỉ còn khoảng 3%GDP,công nghiệp cũng giảm chỉ còn 20% và khu vực dịch ì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin. Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt Nam về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 50-100 năm. Hệ thống thiết bị ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới từ 2-3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4-5 thế hệ. Chính vì vậy năng suất lao động của ta thấp, sản phẩm làm ra giá thành cao, không có sức cạmh tranh. Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả mà còn ở các mặt hàng xuất khẩu không có tính cạnh tranh cao. Hiện nay chúng ta chủ yếu xuất nhập khẩu nnguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè , cà phê…Các sản phẩm công nghiệp nhất là những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao còn ít ,sức cạnh tranh yếu.
Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá, chuyển sang phương thức kinh đoanh mới còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Mặt khác tham gia hội nhập là phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thông thạo, thậm chí kiến thức kinh tế thị trường còn bất cập. Đây là một khó khăn cho việc hội nhập kinh tế Quốc tế ở Việt Nam.
1.2.2. Trình độ quản lý kinh tế của Việt Nam nhìn chung còn thấp, phải cố gắng rất lớn mơí đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế.
Muốn hội nhập tốt, một trong những điều quan trọng là có bộ máy điều hành quản lý có hiệu quả.Tình trạng tham nhũng trong xã hội hiện nay đang trở thành quốc nạn thực sự, đang là vấn đề nan giải nguy cơ lớn không những đối với thúc đẩy hội nhập nói giêng mà còn đối với sự phát triển kinh tế nói chung. Nếu không cải cách bộ máy điều hành càng hội nhập chúng ta càng thua thiệt. Riêng trong lĩnh vực nhập khẩu công nghệ, theo bộ khoa học công nghệ môi trường, qua kiểm tra thử ở 42 cơ sở công nghệ cho thấy số công nghệ nhập về có tới 60-70% tân trang lại.
Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu thì sự phân phối kết hợp giữa các bộ phận ban ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập chưa thực sự chặt chẽ nhịp nhàng vầ đồng bộ. Chính phủ đã có chủ chương và chỉ đạo tích cực hội nhập, nhưng các doanh nghiệp còn chần chừ, thậm chí thờ ơ do quen cách làm cách kinh doanh cũ. Việc phối hợp giữa các bộ phận trong các loại hình đàm phán quốc tế hoặc tham gia vào các hoạt động cụ thể ở các cấp hội nghị khác nhau chưa gắn bó, thậm chí còn hiện tượng ganh đua gây ra chồng chéo. Thực tế nó thông qua Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế chưa tạo thành bộ máy vận hành đồng bộ. Rõ ràng để hội nhập có hiệu quả, bộ máy hành chính của ta cần được cải cách tích cực.
1.2.3. Quá trình chuyển đổi cơ chế thị trường kinh tế của Việt Nam còn chậm.
Trong khi rất nhiều nước vận hành theo cơ chế thị trường từ nhiều thập kỷ nay thì chúnh ta mới chỉ đi những bước đầu trong một thời gian ngắn, thị trường chưa phát triển, hệ thống chính sách kinh tế chưa đồng bộ, môi trường luật pháp chưa hoàn thiện. Nhìn chung cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp của Việt Nam so với các nước còn nhiều khác biệt và bất cập. Mặt khác sự hiểu biết về các thông lệ và luật pháp quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Khi gia nhập WTO và các tổ chức thương mại khu vực khác ngoài các lợi ích như được hưởng chế độ ưu đãi hoặc có thể cải thiện được vị thế thương mại của Việt Nam trên trường Quốc tế thì chúng ta cần vượt qua những rào cản rất lớn. Đó là việc chúng ta phải chia sẻ thị phần trong nước với đối tác nước ngoài ở các lĩnh vực mà lâu nay đều do các nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông tư vấn …
Tham gia vào WTO cũng có nghiã là chúng ta phải chấp nhận cắt giảm thuế nhập khẩu theo " Luật chơi" của tổ chức này. Điều đó đồng nghĩa với nguồn thu ngân sách nhà nước giảm xuống. Sản xuất trong nước phải đương đầu với việc không còn bảo hộ như trước đây. Chính vì thế không tránh khỏi nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản, kéo theo là thất nghiệp gia tăng .
Trong xu thế cạnh tranh toàn cầu và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt thì việc Việt Nam tham gia hội nhập sau nhiều quốc gia khác cũng là một khó khăn, là quốc gia đi sau, Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nhưng trong xu thế cạnh tranh quốc tế đầy biến động không phải lúc nào chúng ta cũng tránh được những vấn đề nguy hiểm mà phải đối mặt với nó. Cách mạng khoa học- công nghệ cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo thời cơ và vận hội cho các nước đang phát triển "đi tắt", "đón đầu" để tiến hành CNH-HĐH theo con đường rút ngắn, nhưng cũng đặt ra yêu cầu ngày càng cao và chất lượng đội ngũ lao động và nguyên liệu thô ngày càng giảm giá trị.
1.2.4 Công nợ lớn và sử dụng vốn kém hiệu quả
Mặc dầu hiện nay tổng dư nợ nước ngoài so với GDP của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn nhưng còn một số khía cạnh cần quan tâm
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn ưu đãi cho các dự án còn thấp và chưa được đấp ứng đúng mức. Một số dự án gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn để trả nợ nước ngoài, nhất là các dự án ở các ngành: mía đường, dâu, tơ tằm,chè, cơ khí, chế biến, thuỷ sản…Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khi xây dựng các dự án này đã không xác định đúng mục tiêu, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu, dẫn đến việc nhập khẩu thiết bị không đồng bộ, nguyên liệu không đủ, sử dụng không hết công suất thiết kế gây nên gây lãng phí lớn, thị trường tiêu thụ hạn chế…Do đóa hiệu quả kinh tế của dự án thấp, gây khó khăn trong việc trả nợ .
Thứ hai, một số các dự án trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải áp dụng phương thức vay lại vốn ODA của Chính phủ nhưng bản thân các dự án này lại được xác định là không có khả năng thu hồi vốn nên đã gây khó khăn trong việc bố trí nguồn trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, quản lý nguồn vốn ODA của Chính phủ chưa được tập trung thống nhất vào đầu mối dẫn đến quy định trách nhiệm chưa rõ ràng giữa các cơ quan quản lý.Tình hình vay nợ và trả nợ các khoản vay thương mại của các loại hình doanh nghiệp cũng tồn tại nhiều vấn đề phải được quan tâm xem xét.
1.2.5. Sự yếu kém trong việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ
Đây là một thách thức quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Lợi dụng sự ưu đãi của nhà nước vói các mặt hàng được khuyến khích nhậo khẩu , một số công ty liên doanh đưa vào Việt Nam nhiều máy mmóc thiết bị lạc hậu với giá cao thậm chí có những dây truyền công nghệ còn kém hơn dây truyền công nghệ hiện có ở Việt Nam. Chính vì việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ một cách yếu kém như vậy đã gây ra nhiều cản trở cho cho quá trình hội nhập ở Việt Nam.
1.2.6. Thách thức mang tính tổng hợp là nguy cơ mất độc lập tự chủ vể kinh tế và chủ quyền quốc gia.
Xương sống của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là do 60.000 công ty nguyên quốc gia của các nước phát triển với hơn năm trăm chi nhánh khắp nơi trên thế giới hợp thành các công ty này với tham vọng thôn tính các công ty bản địa đang có xu hướng sáp nhập, chuyển dần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm để cùng nhau thống trị nền kinh tế thế giới . ở Việt Nam các công ty bản địa đang có xu hướng sáp nhập, chuyển dần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm để cùng nhau thống trị nền kinh thế giới. ở Việt Nam các doanh nghiệp trong nước mất thị phần ngay cả trên thị trường nội địa cũng đã cũng đã xảy. Nhiều doanh nghiệp liên doanh (trong đó giá Việt Nam góp 30% so với phần đóng góp nhà đất) đã chuyển thành công ty 100% vốn nước ngoài vì nhiều lý do đặc biệt là phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng phía Việt Nam không có thực lực để đáp ứng. Nếu tình trạng này không được kịp thời khắc phục thì một khi người nước ngoài làm chủ doanh nghiệp lớn của Việt Nam thì khi ấy sẽ khó giữ được độc lập tự chủ về kinh tế. Nhất là trong bối cảnh hiện nay khi toàn cầu hoá đang bị nước tư bản đế quốc lợi dụng chi phối thì các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chẳng những đứng trước nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế mà chủ quền quốc gia cũng bị đe doạ.
Những phân tích trên cho thấy bức tranh khá rõ ràng là toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến Việt Nam trên nhiều phương diện. Thời cơ và thuận lợi có nhiều những khó khăn, thách thức không ít. Tuy nhiên không thể vì những khó khăn thách thức rất lớn đó mà Việt Nam đứng ngoài cuộc. Ngược lai, phải kịp thời nắm bắt thời cơ và vận hội , phát huy những thuận lợi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, sáng tạo theo đúng quan điểm , đường lối của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước.
Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới, ngày nay không thể tồn tại và phát triển nếu đứng biệt lập, vấn đề đặt ra là cần có cái nhìn khách quan về những thời cơ và thách thức, cái được và cái mất. Tuy nhiên việc đó không thể dễ dàng, vì giữa chúng có quan hệ mật thiết nội tại trong thời cơ có thách thức, trong thách thức có thuận lợi.
Như vây, để tranh thủ thời cơ và vận hội, phát huy thuận lợi vượt qua khó khăn thách thức chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần có chiến lược đúng và những giải pháp đồng bộ hữu hiệu để nâng cao năng lực hội sinh của nền kinh tế đất nước và sức cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm, hàng hoá, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
2. Những thành tựu hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập
Sau gần 15 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa theo tinh thần Đại hội VI của Đảng nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng tạo thế và lực tương đối vững chắc cho đất nước vào thế kỷ XXI.
Về công nghiệp: Việc tham gia các thể chế hợp tác kinh tế khu vực như AFTA đã tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Các mặt hàng được đánh giá có khả năng tạo được chỗ đứng trên thị trường đã có hơn 200 mặt hàng.
Nếu như 1990 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu mới đạt mức 2,404 tỷ USD và 11,143 tỷ USD. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu 11,5 tỷ USD, nhập khẩu 11,54 tỷ USD. Các ngành nghề dịch vụ cũng phát triển mạnh mẽ và ta đã có khả năng xuất khẩu một số ngành dịch vụ như: xây dựng, ngân hàng ... Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Dầu khí có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng dầu mỏ năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1999. Sản lượng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5.3 lần, phân hoá học 4.2 lần, giầy dép da 14.9 lần, giầy vải 4.9 lần, bột giặt 4.6 lần, đường 3.6 lần, bia 3.6 lần... giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình năm là 20%. Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng nổi bật trong các ngành thương mại, dịch vụ, bưu chính viễn thông. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 1999đã gấp 11.3 lần năm1990.
Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật , các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây dựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình thành như ô tô, xe máy, điện tử...
Về nông nghiệp : Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởngkhá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5.6% .Trong đó nông nghiệp tăng 5.4% , Thuỷ sản tăng 9.1%, Lâm nghiệp tăng 2.1%.Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm tăng 1.1 triệu tấn .Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đưa mức lương thực bình quân đầu người từ294.9 kg năm 1990 lên trên 436 kg , năm 2000 Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999-2000 đã tăng khá cao : cafê tăng 4.7 lần, cao su tăng 4.5 lần, chè tăng 02 lần , mía tăng 03 lần, bông tăng 9.7 lần.
Trong nông nghiệp cơ cấu cây trồng và vật nuôi được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế như cafê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su... tốc độ chăn niôi tăng nhanh hơn trồng trọt.
Về kinh tế đối ngoại: thiết lập quan hệ với 170 nước, tranh thủ được sự đầu tư trực tiếp cỉa gần 100 nước với 2290 dự án, vốn đăng ký trên 35.5 tỷ USD và vốn thực hiện trên 15.1 tỷ USD. Khai thông được mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới như WB, IMF... Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang EU, Bắc Mỹ... Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia theo chương trìnhd dài hạn hay theo vụ việc cụ thể đã từng diênx ra phổ biến trên thế giới. Nhưng ngày nay, hợp tác kinh tế, tức là gia nhập và trở thành thành viên của tổ chức kinh tế quốc tế. Điề đó được chứng minh ở tuyệt đại đa số các quốc gia trên hành tinh đều tham gia các trổ chức kinh tế trong khu vực, toàn cầu.là thành viên, các quốc gia phải thực hiện những định chế, những hiệp định , những cam kết do các bên thoả thuận. Người ta coi đó là "luật chơi" chung hay còn gọi là " thông lệ quốc tế" mà các quốc gia phải tuân thủ. Nhưng tuyệt đối không nên nghĩ rằng các luật chơi, các thông lệ hiện hành đã hoàn hảo, bất di, bất dịch. Đấu tranh để cải tiến hoàn thiện nó theo hướng tích cực đã trở thành nhu cầu, trách nhiệm của các quốc gia, trước hết chủ yếu là các quốc gia chậm phát triển.
Hội nhập quốc tế bao gồm quan hệ đa phương lẫn song phương. Hội nhập quốc tế không chỉ có việc gia nhập AFTA, APEC, IMF, WB ... mà việc thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật với từng nước riêng rẽ có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy hội nhập quốc tế không thể không tham gia quan hệ đa phương tức là không thể không gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Nếu chỉ dừng lại quan hệ quốc tế song phương thì sẽ không được hưởng lợi thế do quan hệ đa phương tạo nên không có điều kiện và cơ hội nói lên tiếng nói đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia trên các diễn đàn quốc tế đặc biệt không tận dụng được sức mạnh tập thể của các nước đang phát triển để chống thái độ cửa quyền , sức ép của các nước đang phát triển để chống thái độ cửa quyền, sức ép của các nước đang phát triển để chông thái độ cửa quyền , sức ép của các nước phát triển.
Song thành tựu lớn nhất sau hơn một thập kỷ triển khai hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình này đã đóng phần suy trì hoà bình ổn định tạo dựng môi trường thuận lợi để chúng ta tập trung mọi nỗ lực vào phát triển kinh tế đất nước và góp phần nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2.2. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập
2.2.1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta và của các doanh nghiệp còn yếu hơn nhiều so với các nước khu vực.
Năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định trong việc mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả bảo đảm sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp và mỗi nước.
Năng lực cạnh tranh của mỗi nước là năng lực tạo lập môi trường cạnh tranh kinh tế của nước đó có thể thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư và kinh doanh trong đó Nhà nước đóng vai trò quyết định. Nó liên quan đến hàng loạt yếu tố quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền, các định chế tài chính tiền tệ hệ thống thông tin và các chủ thể được tiếp cận thông tin, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, dịch vụ công cộng, thị trường lao động, thể chế, luật pháp, chính sách cơ cấu bộ máy nhà nước và năng lực của công chức trong bộ máy đó.
Hiện nay, ở nhiều nước đang phát triển để bảo vệ nền sản xuất trong nước, chính phủ cho các công ty nước một số ưu đãi về xuất nhập khẩu hoặc ưu tiên thị trường tiêu thụ ... Các nước phát triển cho rằng đó là những rào cản đối với sản phẩm của các công ty nước ngoài. Họ cho rằng cần phải phá bỏ hàng rào đó để các công ty cạnh tranh bình đẳng với nhau. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc bình đẳng cho các nước có trình độ khác nhau thực chất là một sự bất bình đẳng.
ở nước ta sự ách tắc trong lưu thông hàng hoá tổng cung lớn hơn tổng cầu, nhiều hàng hoá bị tồn đọng dẫn đến sản xuất bị thu hẹp, người lao động không có việc làm tình hình tài chính doanh nghiệp khá căng thẳng ... Nhiều doanh nghiệp còn trong tình trạng kinh doanh theo từng thương vụ, tìm kiếm lợi nhuận nhất thời, chưa chú trọng đến hoạt động nghiên cứu thi trường nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Những mối quan hệ truyền thống, kênh phân phối hàng hoá, liên kết giữa sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng chưa được xác lập một cách đẩy đủ. Đó là thực trạng đáng lo ngại làm giảm tính sôi động của thị trường hàng hoá, dịch vụ.
2.2.2. Các thủ tục hành chính còn khá phức tạp
Các thủ tục về nhà đất, chính sách miễn giảm tiền sử dụng đất cho đối tượng thu nhập thấp, xác lập chủ quyền của người dân trên từng mảnh đất cũng như căn nhà họ đang cư ngụ còn nhiều bất cập. Cơ chế "xin - cho" còn khá phổ biến, tệ tham nhũng phát triển. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các thủ tục còn nhiều rườm rà gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào Việt Nam.
Cần nhấn mạnh rằng việc giảm thuế quan không chỉ là thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA mà chính là yêu cầu nội tại của kinh doanh và đầu tư trong nước không được phép trì trệ hơn nữa. Nước ta đã thực hiện được việc bãi bỏ một số thủ tục hành chính không còn thích hợp trong xuất nhập khẩu và hải quan, tuy vậy chưa có một lộ trình tích cực, nhiều thủ tục hành chính vẫn phiền hà, tư tưởng bảo hộ mậu dịch thông qua biện pháp hành chính còn khá nặng nề, một số mặt hàng nhập khẩu đã từng được bãi bỏ các hạn chế phi thuế quan có lúc được áp dụng trở lại.
Mặt khác hệ thống pháp luật đã được đổi mới căn bản nhưng vẫn còn chưa đủ và chưa hoàn thiện, chưa có lệnh kiểm soát độc quyền khuyến khích cạnh tranh luật bảo vệ người tiêu dùng chưa có ... Không ít luật đã ban hành nhưng nội dung lại chưa hoàn thiện. Điều đó đã gây cản trở cho hoạt động kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2.3.Chất lượng lao động nước ta còn thấp, cơ cấu đào tạo bất hợp lý, các loại hoạt động của một số loại thị trường còn nhiều hạn chế.
Thị trường sức lao động tuy đang hình thành nhưng chưa thực sự tham gia vào quá trình phân bổ lao động hợp lý giữa các vùng, miền. Năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp ở Hà Nội là 10,3%; Thành phố Hồ Chí Minh 7,04%; Đồng Nai 6,64%; Đà Nẵng 6,64%; Hải Phòng 8,11%; Nam Định 9,36%; Thái Bình 9,24%; Quảng Ninh 9,33%; Bắc Giang 8,89%. Hiện nay nước ta có khoảng 16% lực lượng lao động xã hội qua đào tạo còn lại hầu như không có chuyên môn kỹ thuật.
Mục tiêu của Đại hội VIII của Đảng đề ra là nâng cao số lao động chuyên môn kỹ thuật lên 22 - 25% vào năm 2000 đã không thực hiện được. Các yếu tố cấu thành của thị trường lao động còn thiếu, chưa hoàn chỉnh nhất là các quyền quyết định trả lương cho người lao động, quyền quyết định nhân sự ở các doanh nghiệp chưa được thực hiện. Những nỗ lực đáng kể để khai sinh thị trường chứng khoán. Song những khó khăn đối với việc ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoản của nước ta còn rất lớn. Nó phụ thuộc vào sự ổn định của nền kinh tế, tốc độ cổ phần hoá, chất lượng cổ phiếu va quy mô doanh nghiệp được cổ phần, hiểu biểt của công chúng về kinh doanh và đầu tư chứng khoán.
Thị trường và dịch vụ tài chính còn chưa phát triển, đặc biệt là thị trường bảo hiểm, doanh thu còn thấp, hệ thống văn bản pháp lý về kinh doanh bảo hiểm vẫn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, công nghệ bảo hiểm chậm đổi mới, khả năng tài chính của các doanh nghiệp con nhiều hạn chế. Thị trường dịch vụ kiểm toán kế toán cũng chưa có nền tảng pháp lý đầy đủ, các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán theo thông lệ quốc tế còn bất cập với điều kiện hoàn cảnh ở Việt Nam. Chất lượng dịch vụ còn hạn chế.
Những hạn chế của một số loại thị trường nêu trên phần nào cho thấy tính quá độ của nền kinh tế. Hệ thống tài chính tiền tệ tuy có những bươc tiến dài, nhưng chưa khai thác và phát huy đẩy đủ các tiềm năng của nền kinh tế, chưa toạ khả năng cần thiết để huy động vốn, khuyến khích sự phát triển của thị trường.
2.3.4. Khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm phát triển được thu hẹp như mong muốn.
Những thành tựu mà nước ta đã đạt được trong thập niên này là đáng khích lệ, nhưng so với tình hình phát triển của nhiều nước cho đến năm 1977 là năm chưa chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thì tốc độ phát triển của nước vẫn chậm hơn.Theo World Development Indications(các chỉ số phát triển của thế giới ) 1999 của WB thì:
Tốc độ tăng trưởng GDP và GNP tính theo đầu người năm 1997 so với năm 1991 của một số nước như sau Singapo 2.58 lần và 2.48 lần .Trung quốc 2.48 lần và 2.32 lần, Malaysia 2.14 lần và 1.14 lần; Indonexia 1.19 lần và1.80 lần và 1.73 lần, VN1.60 lần và 1.44 lần.
Năm 1997 trong gần 200 nước trên thế giới thì Việt Nam đứng thứ 62 về GDP và 186 về GNP tính theo đầu người.
Kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người( bằng USD) năm 1997 của Việt Nam là 149, của Indonexia là 316, của Philipinlà 545, củaThailan là1087, Malaixia là 4222, Xingapo là 52484.
Từ giữa năm 1997 cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội của nhiều nước. Hầu hết các nước đã tiến hành cải cách thể chế, điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đề ra nhiều chính sách mới, cải tổ bộ máy nhà nước và doanh nghiệp. Do vậy ở vào thời điểm hiện nay các nước đó đã vượt qua được trạng thái nguy hiểm nhất đã có những tín hiệu tích cực trong việc phục hồi kinh tế và có thể tăng trưởng nhanh vào thập nhiên sắp đến.
Trong khi đó mặc dù nằm ngoài vòng xoáy của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng cho đến nay tình hình giảm sút tốc độ phát triển kinh tế của nước ta hiện chưa chăm được và khó dự báo về khả năng phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế như đã từng đạt được.
Những phân tích trên cho thấy bức tranh khá rõ ràng là toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến Việt Nam trên nhiều phương diện .Thời cơ và thuận lợi có nhiều nhưng khó khăn, thách thức cũng không ít.Tuy nhiên, không thể vì những khó khăn thách thức rất lớn đó mà Việt Nam đứng ngoài cuộc. Ngược lại phải kịp thời nắm bắt thời cơ và vận hội, phát huy những thuận lợi, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động sáng tạo theo đúng quan điểm đường lối của Đảng và chủ chương, chính sách của Nhà nước.
III. Chủ trương, nguyên tắc và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập KTQT ở Việt Nam.
1. Các chủ trương và nguyên tắc chủ đạo hội nhập KTQT.
Phương châm của chúng ta trong hội nhập kinh tế quốc tế ta luôn giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia không ngừng phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó chúng ta cũng khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế phải tiến hành từng bước với lộ trình hợp lý, phù hợp với diều kiệncủa một nước đang phát triển có nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có thể đem lại.
Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế , các điều kiện chung được quy định đối với mỗi quốc gia là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng .Cụ thể các hợp tác tổ chức kinh tế quốc tế hay khu vực nói chung đều hoạt động theo bốn nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc1: Công bằng các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước ( nghĩa là mọi hàng hoá và dịch vụ của các công ty các nước đối tác đều được hưởng một chính sách ưu đãi chung) đồng thời không phân biệt đối sử giữa các công ty, mọi chế độ chính trị liên quan đến thương mại và đầu tư trong mỗ nước đều phải bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước giữa nhập khẩu và hàng sản xuất nội địa.
Nguyên tắc 2: Tự do hoá thương mại mỗi nước chỉ được sử dụng công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình là thuế. Các biện pháp phi thuế như giấy phép, côta, hạn ngạch nhập khẩu ... đều không được sử dụng và các biểu thuế này đều phải có lộ trình rõ ràng công khai về việc giảm dần đến tự do hoá hoàn toàn ( thuế suất = 0%)
Nguyên tắc 3: Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên cơ sở có đi có lại , khi nền kinh tế thị trường của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ thái quá hoặc bị những biện pháp phân biệt đối xử gây hại thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có thể có những hành động khẩn cấp cần thiết được các thành viên khác thừa nhận để bảo vệ quyền lợi của nền kinh tế thị trường trong nước.
Nguyên tắc 4: Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư, với các điều kiện và nguyên tắc trên nước "đi sau" như nước ta sẽ có nhiều thuận lợi nhất là trong việc học hỏi các kinh nghiệm của các nước "đi trước" nhưng cũng phải chịu nhiều khó khăn thách thức mà quan trọng hàng đầu là việc bảo hộ sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp quốc doanh đang mới "chân ướt, chân giáo" bước vào nền kinh tế thị trường. Đây không chỉ là việc bảo hộ thuần tuý cho nền kinh tế, cho từng doanh nghiệp mà còn là vấn đề của yêu cầu phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Nhiệm vụ và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.1. Nhiệm vụ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 2001 - 2010 được đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX (2001) thông qua " Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng tiềm lực kinh tế quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản vị thế của nước ta trên thị trường được nâng cao"
Chính vì thế mà toàn cầu hoáđã trở thành trào lưu lịch sử của trào lưu hoạch định chiến lược và đối sách ngoại giao thích hợp là vấn đề nan giải nhưng không thể lẩn tránh được của đa số các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuân thủ một cách bị động hay bác bỏ hoàn toàn đều làm chúng tôi mất đi cơ hội lịch sử để tự phát triển trong qúa trình toàn cầu hoá. Vì vậy, tìm kiếm đối sách để hội nhập là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Tuy nhiên trõng bối cảnh lịch sử và chính trị không giống nhau mỗi quốc gia sẽ có quyết sách riêng của mình.
2.2 Các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Để tận dụng có hiệu quả mọi thời cơ thuận lợi tạo đồng thời đối phó thành công với các loại thách thức, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi điều quyết định là:
2.2.1. Chủ động hội nhập quốc tế bằng một chương trình tổng thể với những nội dung và lộ trình hợp lý, không bị động lôi cuốn chạy theo nhưng không do dự bỏ lỡ thời cơ thậm trí phải biết sử dụng hội nhập quốc tế làm động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế vừa qua cho thấy: doanh nghiệp nào chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh quốc tế, ra sức cải tiến quản lý và công nghệ thì không những làm chủ thị trường nội địa mà còn đứng vững trên thương trường quốc tế. Không ít tiến bộ trong nông nghiệp, cồng nghiệp, dịch vụ đều là kết quả của sự kết hợp nhân tố bên trong với nhân tố bên ngoài. Chương trình hội nhập phải phù hợp với chiến lược, quy hoặch phát triển kinh tế - xã hội, phải đáp ứng yêu cầu của những định chế kinh tế quốc tế mà nước ta cam kết. Đó là phải xoá bỏ chế độ sự chia cắt của thị trường nội địa thông qua việc bãi bỏ thuế luân chuyển, các khoản phí, lệ phí bất hợp lý do các bộ ngành địa phương tự đặt ra gây cản trở đối với giao lưu hàng hoá. Đi đôi với các cơ chế chính sách hỗ trợ tiêu thụ một số mặt hàng sản phẩm còn tồn đọng lớn (như than, xi măng, sắt thép, đường) cần có giải pháp khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho việc mua bán theo phương thức trả góp các mặt hàng dân dụng sản xuất trong nước (như ti vi, thiết bị vệ sinh, máy giặt, vật liệu xây dựng, đồ dùng gia đình...). Kịp thời hướng dẫn cụ thể về cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp bán hàng trả góp (như giá bán phân bổ doanh thu, thế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, phương thức xử lý khi khách hàng không có khả năng thanh toán). Miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lĩa thu được từ bán hàng trả góp, cho phép doanh nghiệp bán hàng trả góp chậm nộp thuế... nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, kích thích sự sôi động của thị trường.
Về dịch vụ cần khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ như dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, thuế, thủ tục xuất nhập khẩu, ma két tinh, quảng cáo, nghiên cứu thị trường... nhằm hỗ trợ sản xuất, lưu thông và tiêu thụ hàng hoá cho các doanh nghiệp.
2.2.2. Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với chất lượng và hiệu quả ngành càng cao.
Cùng với việc chú ý những ngành phù hợp với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới, cần chú ý những ngành kinh tế mà ta có tiềm năng nhằm tạo cơ sở xây dựng chiến lược sản phẩm đặc trưng lấp chỗ trống trên thị trường quốc tế, trong đó đặc biệt chú trọng đổi mới hệ thống tài chính tiền tệ. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua đã khẳng định phải chú trọng hệ thống dịch vụ thương mại.
Cùng với việc xác định chiến lược sản phẩm trong hội nhập chúng ta phải xây dựng chiến lược thị trường, kết hợp giữa chiến lược sản phẩm với chiến lược thị trường trong hội nhập. Trong chiến lược thị trường, chúng ta phải có sự đánh giá phân tích nhu cầu và tiềm năng phát triển của các thị trường để có cơ sở lựa chọn phù hợp từ đó có đấu sách thích ứng với từng thị trường, từng đối tác.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hương công nghiệp hoá, hiện đại hoá với chất lượng hiệu quả ngày càng cao nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, tạo ra những chuyển biến to lớn về cơ cấu lao động, ngành nghề, vùng lãnh thổ, về hiện đại hoá từng bước nền kinh tế quốc dân theo hướng kinh tế tri thức, gắn chặt thị trường trong nước với thị trường quốc tế, phân công ngày càng nhiều vào thị trường phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
2.2.3. Kiên trì đường lối đổi mới, đưa đổi mới lên bước phát triển cao hơn là xây dựng nhanh thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã.
Đó là phải củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; cải tiến chế độ phân phối, kết hợp tăng trưởng kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội; xây dựng đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường; xác lập tư duy mới về vai trò của thị trường trong xây dựng quy hoặch, kế hoặch kinh tế; kết hợp cung với câù, coi cầu là điểm xuất phát, là đối tượng của cung; lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chuẩn hàng đầu; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách thương mại, tài chính ngân hàng; tăng cường và đổi mới chức năng quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó chúng ta phải luôn giữ vững phương trâm của chúng ta trong hội nhập kinh tế, quốc tế đó là: Giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia không ngừng phát huy bản sắc dân tộc và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.4. Nâng cao không ngừng cạnh tranh trên cả 3 mặt: Sản phẩm hàng hoá, doanh nghiệp tổng thể nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng mọi thời cơ, vừa phải đối phó vỡi những thách thức to lớn. Đối với nước ta hiện nay thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu, rất dễ bị thua thiệt trên thương trường, sự thiếu hụt năng lực thu nhập và phân tích thông tin để dự báo chiếu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác cạnh tranh, từ đó kém khả năng mở rộng và phát triển thị trường của mình. Chính vì vậy mà nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh trên cả 3 mặt: sản phẩm hàng hoá (chất lượng, giá cả), doanh nghiệp (năng lực công nghệ, trình độ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh) tổng thể nền kinh tế (kinh tế vĩ mô ổn định, phát triển nhanh và bền vững; hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh thông thoáng; môi trường hấp dẫn, sự tiến nhiệm quốc tế...) là một xu thế tất yếu.
Các doanh nghiệp Việt nam có ý nghĩa hết sức quan trọng bảo đảm thành công trong hội nhập. Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là động lực của quá trình hội nhập, chú trọng nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh vươn lên lắm bắt xu thế thị trường, chiếm lĩnh thị phần, đổi mới công nghệ thiết bị, hiện đại hoá công nghệ quản lý, tổ chức lại sản xuất cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng sản phẩm giảm chi phí và hạ giá thành bảo đảm cho hàng hoá Việt nam có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Để đưa được hàng của Việt nam vào các nước cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước, điều cốt lõi là các doanh nghiệp Việt nam phải phát huy nội lực của chính mình, định ra các bước đi thích hợp và đặc biệt là phải giữ uy tín trong làm ăn, coi trọng luật lệ. Nhà nước cần xây dựng chiến lược hội nhập công khai, rõ ràng và ổn định, xây dựng lộ trình mở cửa cho từng lĩnh vực (thương mại, dịch vụ, tài chính, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, chứng khoán, tư vấn pháp luật, thuế và đầu tư) cho từng ngành cụ thể, phối hợp nhịp nhàng giữa biện pháp giảm thuế và loại bỏ các rào cản phi thuế quan, ưu tiên đầu tư vốn và kỹ thuật để tạo và củng cố thế mạnh cho các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh. Điều quan trọng là phải có cơ chế chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế, tín dụng ưu đãi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm thị trường xuất khẩu. Trong chừng mực nào đó, Nhà nước có thể không đánh thuế xuất khẩu và hỗ trợ hàng xuất khẩu thông qua cơ chế tín dụng ưu đãi, thưởng xuất khẩu, hỗ trợ tìm thị trường, quảng cáo của doanh nghiệp, giảm dần và tiến tới xoá bỏ sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền để bảo đảm sự cạnh tranh bình đẳng trong qúa trình hội nhập.
2.2.5. Ra sức xây dựng doanh nghiệp, công ty nhất là doanh nghiệp nhà nước thành những đơn vị mạnh về công nghệ, giỏi về quản lý, năng động sáng tạo trong làm ăn.
Muốn vậy, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật cần kiên quyết khẩn trương tiến hành cải cách đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước dựa trên tư duy mới về vai trò, vị trí và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, về cơ chế quản lý chứ không dừng lại ở sắp xếp đơn giản, thuần tuý về số lượng nhiều, ít.
Hiệu quả của hội nhập quốc tế phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động của doanh nghiệp và của nhà nước. Doanh nghiệp là chủ thể của hội nhập kinh tế với thế giới, sức mạnh về kinh tế của mỗi nước được quyết định bởi năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà các doanh nghiệp Nhật, những người đã làm xuất hiện sự thần kỳ của nước Nhật vào nửa cuối thế kỉ XX cho rằng nước Nhật hiện đại còn thiếu một Microsoft. Bởi vì chính công ty phần mềm khổng lồ này của Mỹ đã đi trước nhiều tập đoàn lớn khác của thế giới trong cuộc cách mạng thông tin và quản lý kinh doanh. Chính vì vậy đã đến lúc còn chưa quá muộn để báo động với các doanh nghiệp về việc phải chấp nhận luật chơi của thị trường trong nước và thị trường quốc tế là cạnh tranh và đào thải. Mỗi doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kinh doanh, phải nghiên cứu thị trường cải tiến chất lượng và kiểu dáng sản phẩm, biết lựa chọn bạn hàng, đối tác đầu tư, phải làm cho từng người lao động trong doanh nghiệp không chỉ vì thu nhập riêng của họ, mà cùng với những nhà quản lý doanh nghiệp cùng làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển nhờ đó mà lợi ích của mỗi người được đảm bảo bền vững. Các doanh nghiệp phải biết và phải được nhà nước khuyến khích tổ chức quá trình hợp tác tự nguyện cùng có lợi tạo thành sức mạnh trong cạnh tranh, cũng như trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng, dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng như hiệp hội theo ngành, theo sản phẩm, ở từng địa phương, từng nghề nghiệp, mỗi doanh nghiệp có thể tham gia nhiều tổ chức hợp pháp nếu xét tới có lợi cho kinh doanh.
2.2.6. Gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức.
Nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước trong quá trình hội nhập với thế giới là nguồn nhân lực cho tương lai, đã được nhắc đến trong nhiều văn kiện của đảng và nhà nước, cũng là vấn đề đang cần có giải pháp thích hợp với hệ thống đào tạo, giáo dục, để hình thành một đội ngũ công chức, cán bộ khoa học - kỹ thuật có đủ bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn, một đội ngũ công nhân lành nghề đáp ứng được nhu cầu về lao động của công cuộc chấn hưng đất nước trong một nền kinh tế thế giới đang có xu hướng toàn cầu hoá.
Phát triển giáo dục mầm non củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiều học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở cho cả nước. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực và quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và từ xa, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu ở nước ngoài. Đổi mới chương trình và giáo trình giảng dạy ở các cấp theo hướng thiết thực hiện đại. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tư duy sáng tạo tự học coi trọng thực hành phát triển đội ngũ giáo viên coi trọng chất lượng đào tạo và đạo đức sư phạm. Tăng đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước. Thực hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ. Đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. Đổi mới chính sách đào tạo, đãi ngộ trọng dụng và tôn vinh nhân tài.
2.2.7. Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại nhằm nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới.
Toàn cầu hoá đã trở thành trào lưu lịch sử không thể đảo ngược, nhận thức đúng đắn xu hướng lịch sử của trào lưu này, hoạch định chiến lược và đối sách ngoại giao thích hợp là vấn đề nan giải nhưng không thể lẩn tránh được của đại đa số các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuân thủ một cách bị động hay bác bỏ hoàn toàn đều làm cho chúng mất đi cơ hội lịch sử để phát triển trong quá trình toàn cầu hoá. Vì vậy tìm kiếm đối sách để hội nhập là sự lựa chọn khôn ngoan nhất. Tuy nhiên trong bối cảnh lịch sử và chính trị không giống nhau, mỗi quốc gia sẽ có chính sách riêng của mình. Song trên bình diện chung Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác cần nhận thức một số vấn đề sau:
Thứ nhất, toàn cầu hoá thúc đẩy các nước phát triển quan hệ với nhau, dựa vào nhau để tồn tại, tình hình can thiệp vào nội bộ nước khác không còn là ngoại lệ, đa phần các nước đang phát triển nên xem xét để kịp thời điều chỉnh cách thức đối nội và đối ngoại cho phù hợp trào lưu lịch sử toàn cầu hoá trong khi giữ vững độc lập tự chủ cần chú ý đến những thay đổi về khái niệm chủ quyền và an ninh quốc tế.
Thứ hai, trước tình hình các nước lớn lợi dụng hành động xuyên quốc gia để thực hiện ý đồ chính trị, kinh tế xã hội riêng, cần mạnh dạn đấu tranh đồng thời cũng cần tích cực tham gia các hoạt động của các tổ chức quốc tế trong cộng đồng cải cách liên hiệp quốc cũng như các công việc quốc tế, quyết không nhân nhượng hay ngả theo ý đồ và hoạt động của một số ít nước lớn, mọi quyết định cần xuất phát từ sự phát triển , vì sự phát triển và nhu cầu khách quan . Kiên trì phát triển mối quan hệ hữu nghị với các nước lớn cũng như các nước nhỏ, giữ vững nguyên tắc dân chủ hoá quyết sách trong cộng đồng quốc tế, không ngừng thúc đẩy hình thành cơ chế quản lý quốc tế dân chủ hoá, pháp chế hoá.
C. Kết thúc vấn đề
Đứng bên thềm thế kỷ mới điểm lại một trăm năm qua điều chúng ta thấy là sự biến đổi to lớn theo dòng thác cuồn cuộn của lịch sử thế giới. Thế kỷ XX sẽ mãi mãi được ghi vào lịch sử, là 100 năm rực rỡ nhất của loài người. Sự phát triển như vũ bão của sức sản xuất , những thành tựu huy hoàng của khoa học kỹ thuật và sự tiến bộ rõ rệt của nền văn minh xã hội trong thế kỷ XX là vượt qua thiên niên kỷ trước.
Bước sang thềm thế kỷ mới thế kỷ XXI thế kỷ của công nghệ thông tin thì xu hướng toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu.
Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới ngày nay không thể tồn tại và phát triển nếu đứng độc lập.
Vấn đề đặt ra là cần có cai nhìn khách quan về những thời cơ và thách thức do toàn cầu hoá mang lại để có thể phân định một cách đúng đắn giữa thời cơ và thách thức, cái được cái mất. Tuy nhiên việc đó không dễ dàng vì giữa chúng có quan hệ mật thiết nội tại, trong thời cơ có thách thức, trong thách thức có thuận lợi. Như vậy để tranh thủ thời cơ và vận hội phát huy thuận lợi vượt qua khó khăn thách thức chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có chiến lược đúng và những giải pháp đồng bộ hữu hiệu để nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế đất nước và sức cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm hàng hoá, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
Bước sang thềm thế kỷ mới tin chắc rằng đất nước ta sẽ tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Mại - Hội nhập kinh tế thế giới: vấn đề, giải pháp
Tạp chí cộng sản số 5- Tháng 12/2000
2. Tào Hữu Phòng - Khai thông thị trường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Tạp chí cộng sản số 9 - Tháng 5/2000
3. Đậu Xuân Ngọc - Hội nhập kinh tế quốc tế
Tạp chí cộng sản số 15 - Tháng 8/2000
4. Văn kiện đại hội đảng IX
5. Nguyễn Thúy Anh - Các nước đang phát triển trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Tạp chí cộng sản số 6 - Tháng 3/2000
6. Quan hệ hợp tác Nam - Nam và vấn đề toàn cầu hoá - Thông tấn xã Việt Nam số 3/2000
7. Văn kiện đại hội đảng IX
8. Cacmac - Anghen tuyển tập 4 - Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia - Hà Nội 1995
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0142.doc