LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính,của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển,càng khẳng định vai trò không thể thiếu của thị trường chứng khoán trong tiến trình phát triển của cả đất nước,không chỉ với các doanh nghiệp mà còn cả các cá nhân trong nền kinh tế.Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm, huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế,cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, đồng thời nó cũng là nơi đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp và tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Để thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra và tối đa hoá lợi ích khi tham gia thị trường,mỗi chủ thể tham gia đều có những chiến lược đầu tư dựa trên các phân tích riêng.Phân tích kỹ thuật là một trong nhiều cách phân tích khác nhau để lựa chọn một danh mục đầu tư hợp lý.Phân tích kỹ thuật là phương pháp mà chỉ dựa chủ yếu vào giá và khối lượng để dự đoán xu thế trong tương lai.Với những ưu thế của mình, phân tích kỹ thuật đã được sử dụng khá phổ biến và đem lại thành công cho nhiều nhà đầu tư trên thế giới.Với Việt Nam,thị trường chứng khoán vừa mới bước những bước những bước đi đầu tiên,việc sử dụng các công cụ phân tích trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư còn rất hạn chế vì nhiều lý do.Tuy nhiên,cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng về qui mô, nó cũng đòi hỏi phải có một sự đánh giá chính xác hơn về giá trị của các hàng hóa tham gia thị trường để phát huy hơn nữa vai trò của thị trường, đảm bảo một thị trường hiệu quả đối với các chủ thể tham gia.Vì lý do đó chúng em đã chọn đề tài ”Tìm hiểu về phân tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trường Việt Nam”.
Bài viết có hai chương:
-Chương 1: Lý thuyết chung về phân tích kỹ thuật
-Chương 2: Một số chỉ báo cơ bản và ứng dụng phân tích cổ phiếu ở thị trường Việt Nam.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về phân tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính,của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển,càng khẳng định vai trò không thể thiếu của thị trường chứng khoán trong tiến trình phát triển của cả đất nước,không chỉ với các doanh nghiệp mà còn cả các cá nhân trong nền kinh tế.Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm, huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế,cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, đồng thời nó cũng là nơi đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp và tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Để thực hiện thành công những mục tiêu đã đề ra và tối đa hoá lợi ích khi tham gia thị trường,mỗi chủ thể tham gia đều có những chiến lược đầu tư dựa trên các phân tích riêng.Phân tích kỹ thuật là một trong nhiều cách phân tích khác nhau để lựa chọn một danh mục đầu tư hợp lý.Phân tích kỹ thuật là phương pháp mà chỉ dựa chủ yếu vào giá và khối lượng để dự đoán xu thế trong tương lai.Với những ưu thế của mình, phân tích kỹ thuật đã được sử dụng khá phổ biến và đem lại thành công cho nhiều nhà đầu tư trên thế giới.Với Việt Nam,thị trường chứng khoán vừa mới bước những bước những bước đi đầu tiên,việc sử dụng các công cụ phân tích trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư còn rất hạn chế vì nhiều lý do.Tuy nhiên,cùng với sự lớn mạnh nhanh chóng về qui mô, nó cũng đòi hỏi phải có một sự đánh giá chính xác hơn về giá trị của các hàng hóa tham gia thị trường để phát huy hơn nữa vai trò của thị trường, đảm bảo một thị trường hiệu quả đối với các chủ thể tham gia.Vì lý do đó chúng em đã chọn đề tài ”Tìm hiểu về phân tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trường Việt Nam”.
Bài viết có hai chương:-Chương 1: Lý thuyết chung về phân tích kỹ thuật
-Chương 2: Một số chỉ báo cơ bản và ứng dụng phân tích cổ phiếu ở thị trường Việt Nam.
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
1.1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Thực tế, người Nhật là người đầu tiên dùng phân tích kỹ thuật trong phân tích các giao dịch lúa gạo vào những năm 1800. Phân tích kỹ thuật thực sự bắt đầu mở rộng sau những phát hiện của các nhà phân tích, điển hình là Charles H.Dow, chủ bút đầu tiên của tờ báo phố Wall.và là người sáng tạo ra khái niệm chỉ số trung bình của thị trường,ngày nay được biết đến dưới cái tên Chỉ số trung bình Dow Jones. Ngày nay phân tích kỹ thuật được sử dụng rộng rãi tại các sàn giao dịch trên thế giới, trở thành một công cụ hữu hiệu đối với các nhà đầu tư trên khắp thế giới. Với những phát triển vượt bậc của công nghệ tin học, đã có hàng loạt các phần mềm ra đời hỗ trợ cho công tác phân tích kỹ thuật.
1.2.KHÁI NIỆM PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Trên thực tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phân tích kỹ thuật. Rất nhiều những nhà nghiên cứu trên thế giới từ trước đến nay có những nhìn nhận khác nhau về phân tích kỹ thuật dưới những góc nhìn khác nhau.
Tuy nhiên có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về phân tích kỹ thuật như sau:
Phân tích kỹ thuật là phương pháp phân tích chỉ dựa vào diễn biến của giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ để dự đoán xu thế giá trong tương lai, và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá.
Các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng công cụ toán học và đồ thị (các hình mẫu kỹ thuật) để xác định xu thế thị trường của một loại cổ phiếu nào đó, từ đó đưa ra quyết định thời điểm thích hợp để mua bán chứng khoán.
Một lợi thế lớn trong phân tích kỹ thuật là nó không phụ thuộc nặng vào các báo cáo tài chính.Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng việc sử dụng báo cáo tài chính sẽ gặp một số vấn đề như chúng không chứa đựng đầy đủ các thông tin cho việc phân tích,các báo cáo tài chính khác nhau có thể áp dụng một số nguyên tắc kế toán khác nhau và các yếu tố tâm lý cũng như những biến số định tính khác không được thể hiện trong các báo cáo tài chính.
Hơn nữa ,nhà phân tích cơ bản phải xử lý thông tin mới một cách chính xác và nhanh chóng để tìm ra giá trị nội tại mới của các chứng khoán trước các nhà đầu tư khác.Trong khi đó các nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần nhanh chóng nhận ra xu thế dịch chuyển sang một mức giá cân bằng mới bất kể đâu là nguyên nhân của sự dịch chuyển.
Các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng họ có thể xác định được thời điểm lý tưởng để thực hiện giao dịch tốt hơn so với các nhà phân tích cơ bản.
1.3. CÁC GIẢ ĐỊNH TRONG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Các nhà phân tích kỹ thuật đưa ra các quyết định giao dịch dựa trên việc xem xét các số liệu về giá và khối lượng giao dịch nhằm xác định xu thế thị trường trong quá khứ để từ đó dự đoán xu thế trong tương lai của toàn bộ thị trường cũng như của từng chứng khoán riêng lẻ. Các nhà phân tích kỹ thuật đã đưa ra 1 vài giả định hỗ trợ cho dự đoán xu thế biến động của thị trường :
Giả định 1: Giá trị thị trường của bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đều hoàn toàn đươc xác định bởi sự tương tác của cung - cầu.
Giả định 2: Cung - cầu được xác định bởi 1 số nhân tố. Những nhân tố này bao hàm cả các nhân tố được sử dụng trong phân tích cơ bản, cũng như các quan điểm, những trạng thái và những phỏng đoán. Thị trường phản ánh tất cả những nhân tố này 1 cách tự động và liên tục .
Giả định 3: Ngoại trừ 1 số giao động nhỏ, giá của các chứng khoán và thị trường nói chung có biểu hiện biến động theo các xu thế, các xu thế này diễn ra trong những khoảng thời gian xác định.
Giả định 4: Các xu thế trội thay đổi tương ứng với những sự dịch chuyển theo quan hệ cung - cầu . Những sự dịch chuyển này bất kể do nguyên nhân nào gây ra, thì sớm hay muộn cũng đều được phát hiện dựa vào các phản ứng của chính thị trường.
Về một số phương diện, những giả định này gây nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích cơ bản hàng đầu và những người theo lý thuyết thị trường hiệu quả đặt câu hỏi về giá trị của những giả định này .
Hai giả định đầu tiên dường như được chấp nhận bởi các nhà phân tích kỹ thuật và các nhà phân tích khác. Giá chứng khoán được xác định dựa trên quan hệ cung -cầu, và quan hệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động. Thị trường liên tục phản ánh những nhân tố này. Nhưng các nhà phân tích kỹ thuật cho rằng sự ảnh hưởng của các nhân tố phi logic (trạng thái tâm lý, phỏng đoán,….) sẽ kéo dài trong 1 khoảng thời gian nhất định.Trong khi đó các nhà phân tích thị trường khác lại cho rằng các nhân tố phi logic chỉ ảnh hưởng trong ngắn hạn, còn các nhân tố logic mới tác động trong dài hạn.
Với giả định 3, các nhà phân tích kỹ thuật kỳ vọng giá chứng khoán biến động theo các xu thế diễn ra theo những khoảng thời gian dài bởi vì những thông tin cập nhật có thể tác động đến quan hệ cung - cầu không xuất hiện trên thị trường tại 1 thời điểm, mà trong 1 khoảng thời gian. Các nhà phân tích kỹ thuật không kỳ vọng giá sự điều chỉnh giá diễn ra đột ngột như các nhà phân tích cơ bản và những người theo lý thuyết thị trường hiệu quả, mà họ kỳ vọng một sự điều chỉnh giá dần dần phản ánh sự xuất hiện từ từ của các luồng thông tin.
1.4.CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT.
Có rất nhiều trường phái lý thuyết khác nhau nghiên cứu về phân tích kỹ thuật,nhưng hai lý thuyết được sử dụng phổ biến nhất là lý thuyết Dow và lý thuyết Sóng.Bài viết này chỉ tập trung vào phân tích một số nghiên cứu của lý thuyết Dow trong phân tích kỹ thuật.
1.4.1. Lịch sử hình thành lý thuyết Dow.
Lý thuyết Dow được đặt tên theo tên của Charles Dow, chủ bút đầu tiên của tờ thời báo phố Wall và là người sáng tạo ra khái niệm chỉ số trung bình của thị trường, ngày nay được biết đến dưới cái tên Chỉ số trung bình Dow Jones. Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kỹ thuật trên thị trường chứng khoán.
Dow đã đưa ra khái niệm chỉ số trung bình thị trường khi nhận thấy giá của hầu hết các cổ phiếu lên ,xuống cùng với sự biến động của thị trường.
Có thể coi lý thuyết Dow là một lý thuyết khởi đầu trong các kỹ thuật liên quan đến giá và khối lượng giao dịch bởi vì đây là một trong những lý thuyết xuất hiện sớm nhất và cho đến nay vẫn là nền tảng của nhiều chỉ báo kỹ thuật.
1.4.2. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow.
1.4.2.1. Trung bình giá thị trường không phụ thuộc vào yếu tố nào
Giá cả của các chứng khoán trên thị trường biến động một cách ngẫu nhiên chỉ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường.
1.4.2.2.Thị trường luôn có 3 luồng vận động
Có 3 luồng vận động của mức giá trung bình của thị trường, tất cả có thể diễn ra ngay lập tức và cùng một thời điểm.
Luồng vận động thứ 1, và cũng là quan trọng nhất, là xu hướng chính của thị trường: xu hướng vận động đi lên hoặc xuống với biên độ rộng được gọi là thị trường giá lên và thị trường giá xuống. Xu hướng này có thể tồn tại một vài năm.
Luồng vận động thứ 2, luồng vận động dễ gây hiểu lầm nhất, chính là luồng phản ứng điều chỉnh phụ của thị trường:một đợt giảm giá đáng kể trong thị trường mà xu hướng chính là lên giá hoặc ngược lại trong 1 thị trường gía xuống. Thường thì những phản ứng như vậy kéo dài từ 3 tuần đến vài tháng.
Luồng vận động thứ 3, và thường là không quan trọng, chính là sự biến động của giá theo ngày.
Đồ thị biểu diễn các luồng vận động chủ yếu
Giá trung bình
thời gian
thị trường giá lên
thị trường giá xuống
*/Luồng vận động chủ yếu
Luồng vận động này là nội dung trọng tâm của Lý thuyết Dow
Nói chung luồng vận động chủ yếu là xu hướng chính có biên độ rộng, được biết đến với tên gọi là thị trường bò hay thị trường gấu, có thể kéo dài trong khoảng thời gian vài năm.
Hoạt động đầu cơ muốn thành công phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định đúng hướng cuả luồng vận động này. Chưa có phương pháp nào dự báo được luồng vận động chủ yếu này của thị trường diễn ra trong bao lâu.
Thị trường bò là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi lên có biên độ rộng, bị gián đoạn bởi một xu hướng phụ có hướng ngược lại và trung bình thường kéo dài lâu hơn 2 năm. Trong suốt quá trình này, giá cổ phiếu đi lên bởi nhu cầu mua của cả nhà đầu tư lẫn nhà đầu cơ khi hoạt động kinh doanh phát triển và hoạt động đâu cơ trở nên sôi động .
Thị trường gấu là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi xuống có biên độ rộng, bị gián đoạn bởi xu hướng phụ đáng kể có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân là do những điều kiện kinh doanh khó khăn và xu hướng này sẽ kéo dài cho đến khi giá cổ phiếu giảm đến mức thấp nhất.
*/Luồng vận động phụ
Giá trung bình
thị trường giá lên
thị trường giá xuống
Thời gian
biến động giá phụ
Luồng vận động phụ là một sự phản ứng phụ của thị trường, đó là một sự đi lên đáng kể trong một thị trường giá xuống và ngược lại: một sự đi xuống đáng kể trong một thị trường giá lên.
Xu hướng này tồn tại khoảng từ vài tuần đến vài tháng
Trong suốt quá trình diễn ra xu hướng phụ,nó khiến giá lệch từ 33% đến 66% so với giá trong xu hướng chính kể từ khi kết thúc lần điều chỉnh giá cuối cùng
Những phản ứng điều chỉnh giá của thị trường hay những xu hướng phụ này khiến người ta hiểu nhầm là xu hướng chính đã thay đổi.
*/ Dao động giá hàng ngày
thị trường giá lên
thị trường giá xuống
Theo lý thuyết dao động hàng ngày của giá không đóng vai trò quan trọng trong việc xác
định xu hướng biến động của toàn bộ thị trường.
(*) Một vài dấu hiệu nhận biết để xác định giai đoạn đang diễn ra của thị trường:
Chỉ số Giá trên thu nhập trung bình của thị trường
Mức cổ tức trung bình của thị trường
Phản ứng của thị trường đối với các tin tức
Mức độ huy động vốn mới và mức độ phát hành lần đầu ra công chúng
Các xu hướng của thị trường(xu hướng lên hoặc xuống)
Mức độ tham gia của công chúng vào thị trường
Mức độ quan tâm của các phương tiện truyền thông chính đối với thị trường-truyền hình ,báo chí,và internet.
Số lượng các nhân viên mô giới ,các hoạt động củng cố hoặc phá sản,và mối quan tâm đối với các khách hàng riêng
Mức độ hoạt động ,tuyển dụng nhân lực,thua lỗ trong kinh doanh…..trong nền kinh tế.
1.4.2.3. Luồng vận động chính có 3 giai đoạn phát triển.
Ba giai đoạn phát triển này chính là các phản ứng của thị trường thông qua việc nghiên cứu các đồ thị biểu diễn các mức giá trung bình của thị trường.Nhưng không thể nào xác định chính xác được vì thời điểm khởi đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn phát triển luôn giao thoa với nhau.Theo lý thuyết,ba giai đoạn phát triển của luồng vận động chủ yếu có thể được biểu diễn dưới dạng đồ thị như sau:
thị trường giá lên
thị trường giá xuống
đầu cơ
Tăng thu nhập
tự tin
hết hy vọng
giảm thu nhập
buộc phải bán
Ba giai đoạn phát triển của thị trường giá lên
Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đầu tư lấy lại niềm tin vào tương lai của thị trường;
Giai đoạn thứ 2 là phản ứng của giá khi có thông tin làm ăn có lãi của các công ty ,và:
Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn khi hoạt động đầu cơ vượt ra khỏi vòng kiểm soát và lạm phát xảy ra –giai đoạn giá cổ phiếu tăng vì có sự kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Ba giai đoạn phát triển cuả xu hướng thị trường giá xuống
Giai đoạn đầu tiên cho thấy nhà đầu tư không có kỳ vọng vào thị trường do cổ phiếu được mua với giá bị thổi phồng.
Giai đoạn thứ 2 phản ánh hoạt động bán do có sự sụt giảm lợi nhuận trong kinh doanh của các công ty,và;
Giai đoạn 3 diễn ra là do người ta bán ra ồ ạt các chứng khoán làm giá sụt giảm nhanh chóng .
1.4.2.4. Xác định xu hướng
Xu hướng thị trường lên giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị có một đỉnh cao hơn và một một điểm đáy cao hơn. Xu hướng thị trường lên giá kết thúc khi ta thấy trên đồ thị có một đỉnh thấp hơn và sau đó là 1 điểm đáy thấp hơn.
Xu hướng thị trường xuống giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị một điểm đỉnh thấp hơn và sau đó là một điểm đáy thấp hơn. Xu hướng thị trường xuống giá kết thúc khi ta thấy trên đồ thị xuất hiện một điểm đáy cao hơn và sau đó là một điểm đỉnh cao hơn.
1.4.2.5. Khối lượng giao dịch cũng là một dấu hiệu khẳng định xu hướng
Các nhà phân tích kỹ thuật xem xét sự thay đổi về khối lượng giao dịch cùng với diễn biến giá như là một chỉ báo về thay đổi quan hệ cung-cầu đối với một số chứng khoán nào đó hoặc các cổ phiếu nói chung. Sự thay đổi giá cổ phiếu theo hướng nào đó thể hiện các nhân tố ảnh hưởng,nhưng chỉ riêng thay đổi vể giá thì chưa phản ánh quan hệ cung-cầu tại thời điểm đó.Vì vậy ,các nhà phân tích kỹ thuật thường tìm kiếm một sự tăng giá kèm theo khối lượng giao dịch tương đối lớn so với khối lượng giao dịch thông thường như là một chỉ báo về xu hướng giá lên ,còn nếu giá giảm kèm theo khối lượng giao dịch lớn đồng nghĩa với xu thế giá xuống.
Các nhà phân tích kỹ thuật cũng sử dụng tỷ lệ khối lượng giao dịch Giá lên/giá xuống như là một chỉ báo ngắn hạn của thị trường nói chung. Khối lượng giao dịch của các cổ phiếu tăng giá và khối lượng giao dịch của các cổ phiếu giảm giá được coi là một thước đo về trạng thái tâm lý của người đầu tư và sử dụng nó để xác định quan hệ cung-cầu trên thị trường.
Khối lượng giao dịch là một đại lượng đo mức độ của giao dịch trên TTCK.Có một số cách để đo lường khối lượng ,dựa vào số liệu có được trên thị trửờng :
Khối lượng giao dịch được tính bằng số lượng thực tế chứng khoán được giao dịch trong một khoảng thời gian nào đó. Đây là đại lượng tốt nhất để đo khối lượng nếu số liệu đó có sẵn trên thị trường
Cách khác để xác định là dựa trên giá trị các chứng khoán được giao dịch trong 1 khoảng thời gian nhất định.Cách này được sử dụng chủ yếu cho các chỉ số thị trường,khi mà tỷ trọng vốn hoá có thể khiến cho ngta hiểu sai về số lượng chứng khoán.
Khi không có số liệu về số lượng hay giá trị chứng khoán được giao dịch ,số lượng các giao dịch được thực hiện có thể được sử dụng thay thế.Một trong những bất lợi của việc sử dụng dữ liệu này là nó không phản ánh đúng tỷ trọng của một giao dịch 10000 chứng khoán với giao dịch chỉ có 100 chứng khoán.
Các nhà phân tích có thể sử dụng “bước nhảy về khối lượng”(tick volume)là số lần thay đổi về giá trong suốt khoảng thời gian đó .Thay đổi về giá là một đại lượng cơ bản để đo lường cường độ giao dịch.
Lý thuyết Dow đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc phân tích cổ phiếu, đặt nền tảng cho việc so sánh chiến lược xác định thời điểm của thị trường với chiến lược “mua và nắm giữ”trong đầu tư chứng khoán.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ CHỈ BÁO CƠ BẢN
VÀ ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU Ở VIỆT NAM.
Trong vài thập kỉ phát triển của phân tích kỹ thuật, người ta đã đưa ra rất nhiều dấu hiệu, chỉ báo để phân tích và đánh giá các xu hướng dựa trên sự biến động của giá và khối lượng. Đã có rất nhiều các chỉ báo được đưa ra và ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên có thể chia làm hai loại dấu hiệu cơ bản : Dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường và đà dao động giá.
Thứ nhất, dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường là một nhóm các dấu hiệu được sử dụng để xác định xu hướng thị trường một các khách quan. Mục đích của việc sử dụng nhóm này là nhằm xác định sự mở đầu và kết thúc của các xu hướng thị trường.
Thứ hai, đà dao động của giá là một nhóm các dấu hiệu thị trường được sử dụng để đo lường tốc độ biến động của giá cả. Các dấu hiệu này được coi là các dấu hiệu dẫn đường hoặc dấu hiệu ngẫu nhiên, chúng đựoc thiết kế nhằm phát hiện những giao động của giá trong phạm vi một khoảng giao động giá hay trong phạm vi của một xu hướng. Mục đích là để xác định thời điểm giao dịch khi giá thay đổi do việc định giá quá cao hay quá thấp.
Bài phân tích này tập trung vào một số chỉ báo cơ bản như : đường trung bình động (Moving Average - MA), hội tụ và phân kì của đường trung bình động ( Moving Average Convergence Divergence - MACD), chỉ số cường độ tương đối (Relative strength Index- RSI), dải Bollinger …
2.1. ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (Moving Average _ MA).
Phân tích kĩ thuật cổ điển tiếp cận với khái niệm về xu huớng giá thông qua điểm cận trên (điểm giá cao) và điểm cận dưới (điểm giá thấp) trong pha thời gian ngắn hạn; cũng như các đỉnh và đáy trong pha thời gian dài hạn. Với cách tiếp cận này, người ta sử dụng dấu hiệu chỉ báo là đường xu hướng giá. Tuy nhiên phương thức này mang tính chủ quan cao, do đó các nhà phân tích chuyển hướng sang nghiên cứu xu hướng giá theo phương thức toán học. Đường trung bình động là công cụ rất quan trọng của phương thức này.
2.1.1.Khái niệm đường trung bình động
2.1.1.1. Khái niệm - Mục đích - Phân loại:
Đường trung bình động là một dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường được xác định bằng giá trị trung bình của mức giá đóng cửa trong một khoảng thời gian nhất định, tại các thời điểm khác nhau.
Mục đích của đường trung bình động là giản lược dữ liệu về giá đóng cửa bằng cách xây dựng một đường đồ thị biểu hiện xu hướng giá. Thay vì lập đồ thị giá trực tiếp cho từng kỳ giao dịch, giá đóng cửa trung bình cho một số kỳ giao dịch nhất định được tính toán và đưa vào đồ thị.
Có 4 loại đường trung bình động : đường trung bình động giản đơn (SMA), đường trung bình động tuyến tính có trọng số, đường trung bình động tính theo hệ số mũ, đường trung bình động biến đổi (VMA). Trong phần nghiên cứu này chỉ nghiên cứu về đường trung bình động giản đơn.
2.1.1.2. Cách xây dựng đường trung bình động
Để thiết lập đường trung bình động 5 kỳ, chúng ta cần dữ liệu giá cả cho tối thiểu 5 kỳ. Khi có đủ số liệu của 5 kỳ đầu tiên, ta sẽ xác định được điểm đầu tiên của đồ thị đường trung bình động. Dưới đây là bảng ví dụ:
Kỳ
Giá đóng cửa
Tổng 5 kì cuối
Trung bình của 5 kì cuối
1
100
-
-
2
102
-
-
3
106
-
-
4
104
-
-
5
102
514
102,8 (= 514/5)
Để tính trung bình động của kì thứ 6, có hai cách:
- Cách 1: cộng giá đóng cửa từ kì thứ 2 đến kì thứ 6, sau đó chia cho 5.
- Cách 2: Lấy tổng của 5 kì trước, trừ đi giá trị của một kỳ, sau đó chia cho 5.
Kỳ
Giá đóng cửa
Tổng 5 kì cuối
Trung bình của 5 kì cuối
6
108
522
104,4
hoặc
106
514-100+108 = 522
104.4
Với những kì xảy ra tiếp theo, chúng ta sẽ làm tương tự như trên. VD:
Kỳ
Giá đóng cửa
Tổng giá của 5 kì cuối
Trung bình của 5 kì cuối
1
100
-
-
2
102
-
-
3
106
-
-
4
104
-
-
5
102
514
102,8
6
108
522
104,4
7
110
530
106
8
113
537
107,4
9
119
552
110,4
10
114
564
112.8
Sau khi tính toán được các giá trị của đường trung bình động, người ta sẽ xây dựng được đồ thị của đường trung bình động và sử dụng đồ thì này cùng với đồ thị về giá đóng cửa để tiến hành phân tích.
2.1.2. Cách sử dụng đường trung bình động
2.1.2.1. Sử dụng một đường trung bình động
Nguyên tắc sử dụng đường trung bình động: khi có xu hướng giá lên, đường trung bình động có xu hướng lên trễ hơn đường giá; khi đường xu hướng giá lên kết thúc và bắt đầu xu hướng giá xuống thì giá có xu hướng chuyển xuống thấp hơn và nằm dưới đường trung bình động trễ. Điều này có nghĩa đường trung bình động được coi như một dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường.
Căn cứ vào dấu hiệu này có 3 trường hợp xảy ra:
- Đường trung bình động đi lên, chúng ta đang ở xu hướng tăng giá
- Đường trung bình động đi xuống, chúng ta đang ở xu hướng giảm giá
- Đường trung bình động nằm ngang chúng ta không ở xu hướng nào cả mà nằm trong khoảng giao động giá.
Nguyên tắc là chúng ta chỉ sử dụng đường trung bình động để giao dịch khi thị trường có xu hướng rõ ràng , còn khi thị trường nằm ngang không theo xu hướng thì tốt nhất nên dùng công cụ khác ( công cụ đo đà giao động giá chẳng hạn). Chính vì vậy khi sử dụng đường trung bình động chúng ta thực hiện theo quy tắc sau:
- Chỉ thực hiện mua khi đường trung bình động di chuyển lên trên
- Chỉ thực hiện bán khi đường trung bình động di chuyển xuống dưới
Theo quy tắc này thì chúng ta có thể thực hiện một kế hoạch giao dịch như sau:
- Mua tại điểm đường đồ thị giá cắt đường trung bình động theo hướng từ dưới lên trên. Tất toán giao dịch mua khi đường giá cắt đường trung bình động từ trên xuống dưới
- Bán tại điểm đường giá cắt đường trung bình động theo hướng từ trên xuống dưới. Tất toán giao dịch bán khi đường giá cắt đường trung bình động theo hướng từ dưới lên trên.
Kế hoạch này được minh hoạ trong hình vẽ sau
Giá
Bán
Đường giá
Đường MA
Mua
Ta thực hiện phân tích cổ phiếu của CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển (GMD) để thấy rõ hơn những dự báo này trong những biến động của xu hướng giá theo chỉ báo SMA.
Hình 1 cho ta thấy biểu đồ giá của GMD trong 3 tháng trở lại đây(từ giữa tháng 10/2006 đến giữa tháng 1/2007).Ta sử dụng đường SMA 9 ngày và đường giá đóng cửa của GMD.
Nhìn vào đồ thị ta thấy trong tháng 10 đường giá của GMD không có biến động lớn, đường SMA và đường giá dao động gần nhau, đường giá vẫn nằm trên SMA.Sang tháng 11,bắt đầu có những biến động rõ nét hơn. Đường giá bắt đầu chuyển động lên trên đường SMA,kèm theo khối lượng tăng dần,thể hiện dấu hiệu của xu hướng tăng giá.Theo dấu hiệu này ta nên tiến hành mua vào.Trên thực tế giá của GMD đã liên tục tăng từ mức 90.000đ/cp (đầu tháng 11/2006) lên đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp vào giai đoạn cuối tháng 11.Khối lượng giao dịch liên tục tăng mạnh.
Sau giai đoạn giá tăng đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp,ta thấy giá cổ phiếu bắt đầu giảm, đường giá đi xuống và cắt đường SMA.Thể hiện xu hướng bán ra.
Hình1 Nguồn:www.ssi.com.vn
2.1.2.2. Sử dụng hai đường trung bình động:
Khi sử dụng một đường trung bình động, chúng ta thường gặp phải một vấn đề là rất khó xác định thời điểm đưòng giá cắt đường trung bình động. Để giải quyết vấn đề này, người ta có thể sử dụng các "bộ lọc" hoặc sử dụng hai đường trung bình động. Phần này chỉ đề cập đến phương pháp sử dụng hai đường trung bình động.
Theo phương pháp này người ta sẽ sử dụng hai đường trung bình động với hai độ dài một kỳ phân tích là khác nhau (như ví dụ trên , ta sử dụng độ dài kỳ phân tích là 5 ngày). Đường trung bình động có độ dài kỳ phân tích ngắn hơn được gọi là đường trung bình nhanh, đường trung bình động có độ dài kỳ phân tích dài hơn được gọi là đường trung bình chậm. Đường trung bình nhanh được sử dụng thay cho đường giá thô.
Quy tắc sử dụng hai đường trung bình động tương tự như quy tắc sử dụng một đường trung bình động, trong đó đường trung bình động nhanh được sử dụng thay thế cho đường giá:
- Khi đường trung bình động nhanh cắt đường trung bình chậm theo hướng từ dưới lên thì thực hiện mua vào.
- Và thực hiện bán ra khi đường trung bình nhanh cắt đường trung bình chậm theo hướng từ trên xuống.
Hình 2 cho ta ví dụ về sử dụng 2 đường SMA: đường trung bình nhanh là đường SMA 5 ngày, đường trung bình chậm là đường SMA 20 ngày. Vẫn với ví dụ về GMD như trên, ta thấy dấu hiệu của hai đường trung bình động chậm hơn dấu hiệu khi sử dụng một đường trung bình động tuy nhiên dấu hiệu này chính xác hơn khi xác định điểm bán muộn hơn do vậy khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Qua ví dụ này ta có thể thấy một nguyên tắc khi sử dụng đường trung bình động, đó là: với kỳ thời gian càng dài thì đường trung bình phản ứng với biến động giá càng chậm tuy nhiên lại đem đến dấu hiệu chính xác hơn.
Hình2
2.2. CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ TƯƠNG ĐỐI (RSI)
2.2.1. Khái niệm:
Chỉ số cường độ tương đối được Welles Wilder xây dựng để đo lường đà dao động của giá. Đây là một công cụ khá phổ biến với các nhà phân tích kỹ thuật.
2.2.2. Phương pháp tính
Welles Wilder đã sử dụng công thức sau để tính điểm đầu tiên của đường RSI.
(*)
A: giá đóng cửa trung bình tăng của n ngày
B :giá đóng cửa trung bình giảm của n ngày
RSI nằm trong khoảng (0, 100).
Khi RS = 0 thì RSI = 0
Khi RS = ∞ thì RSI = 100.
Để tính được RS cho các điểm tiếp theo, Wilder đã sử dụng cách tính sau:
(a) Để có được mức giá đóng cửa trung bình tăng tiếp theo,ta nhân mức giá đóng cửa trung bình tăng trước đó với (n-1),cộng kết quả này với mức giá đóng cửa tăng của ngày hôm nay, rồi chia cho (n).
(b) Để có được mức giá đóng cửa trung bình giảm tiếp theo, ta nhân mức giá đóng cửa giảm trước đó với (n-1),rồi cộng kết quả này với mức giá đóng cửa giảm của ngày hôm nay, rồi chia cho (n).
(c ) Chia (a) cho(b) ta được giá trị RS của điểm tiếp theo.Thay vào công thức (*)để tính RSI.
2.2.3.Quy tắc giao dịch
2.2.3.1.Khái niệm sử dụng trong quy tắc giao dịch:
a, Mức mua quá lớn và bán quá lớn.
RSI biến động trong khoảng 0 đến 100. Khi RSI dưới 30 tạo thành mức bán quá lớn, ngược lại RSI trên 70 tạo thành mức mua quá lớn.
-Trong xu hướng giá tăng, RSI biến động chủ yếu ở mức mua quá lớn nó hiếm khi dao động sang bên bán quá lớn
-Tương tự như vậy, trong một xu hướng giảm, RSI biến động chủ yếu ở mức bán quá lớn, hiếm khi dao động sang mức mua quá lớn.
b, Phân kì:
Phân kì xảy ra khi giá đạt đỉnh mới hoặc đáy mới nhưng đà dao động không đạt đỉnh mới hoặc đáy mới tương ứng mới tương ứng.
- Phân kì thị trường giá lên xuất hiện vào cuối giai đoạn giảm và có một dự báo về thị trường giá lên.
- Phân kì thị trường giá xuống xuất hiện vào cuối giai đoạn tăng và có một dự báo về thị trường giá xuống.
Tuy nhiên độ tin cậy của phân kì rất nguy hiểm nên phải sử dụng kết hợp với các công cụ khác. Người ta thường sử dụng phân kì như một dấu hiệu cảnh báo sớm hoặc bằng chứng xác nhận thêm về khả năng thay đổi trong xu hướng.
C, Các dao động thất bại.
Hình dưới đây cho thấy các dạng của dao động thất bại:
100
70
điểm thất bại
điểm thất bại
30
0
-Dạng 1: Đỉnh tăng thứ hai thấp hơn đỉnh tăng thứ nhất sau đó RSI giảm xuống thấp hơn vùng lõm giữa hai đỉnh
-Dạng 2: Đáy thứ hai cao hơn đáy thứ nhất, sau đó RSI tăng cao hơn đỉnh giữa hai đáy.
Một dao động thất bại có giá trị là đỉnh đầu tiên phải nằm trên mức 70, đáy đầu tiên phải năm dưới mức 30. Dao động thất bại không sử dụng như một dấu hiệu riêng tách tách rời mà phải kết hợp với các dấu hiệu khác để khằng định xu hướng.
2.2.3.2. Qui tắc giao dịch.
-Quy tắc 1: Mua vào khi RSI xuống dưới đường bán quá lớn và hướng lên trên đường đó.
Quy tắc này được thể hiện rõ trên biểu đồ giá của VNM trong khoảng 5 tháng (từ tháng 5/2006 đến tháng 10/2006).Giá của VNM cũng theo xu hướng giá xuống của thị trường trong khoảng tháng 7,tháng 8. Mức giá đi xuống vùng bán quá lớn lần thứ nhất vào khoảng cuối tháng 6 và lần thứ hai vào khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8.
Dấu hiệu để mua vào được đánh dấu ở điểm A, B sau khi RSI vượt qua vùng bán quá lớn . Tuy nhiên mua ở điểm B tốt hơn vì sau đó là một xu hướng tăng giá mạnh hơn.
Hình3
-Quy tắc 2: Bán ra khi RSI tăng trên đường mua quá lớn và đang giảm lại xuống phía dưới đường đó.
Hình4
Trong hình trên chúng ta vẫn sử dụng biểu đồ GMD 3 tháng (từ tháng 10/2006 đến tháng 1/2007).Giá GMD tăng liên tục trong giai đoạn này từ mức 90.000đ/cp lên đến đỉnh ở mức 156.500đ/cp.Mức giá bắt đầu lên trên vùng mua quá lớn vào đầu tháng 11,và liên tục ở trên vùng mua quá lớn trong suốt tháng 11. Đến cuối tháng 11 có xu hướng giảm,kèm theo một khối lượng giao dịch lớn. Dấu hiệu để bán được đánh dấu ở điểm A, khi mà RSI đi qua vùng bán quá lớn và đang giảm xuống dưới mức đó.Tuy nhiên, đây chỉ là một biến động giả tạo trong xu thế giá lên của GMD.
-Quy tắc 3: Mua vào trên các phân kì thị trường giá lên, khi vùng lõm đầu tiên nằm dưới mức 30. Nếu phân kỳ hình thành một dao động thất bại, đó chính là dấu hiệu mạnh hơn..
Hình 5
Hình 5 cho thấy một phân kì thị trường giá lên trong giai đoạn đầu tháng 8/2006,giá VNM có xu hướng đi xuống trong ngắn hạn, đỉnh bán quá lớn thứ hai ở mức cao hơn đỉnh bán quá lớn thứ nhất và RSI có xu hướng đi lên từ vùng bán quá lớn,vượt qua đường 30 từ phía dưới lên, và liên tục tiến lên đường 70. Do đó theo quy tắc thì chúng ta nên mua vào tại điểm A. Và trên thực tế, đã có một đợt tăng giá liên tục đến đầu tháng 9 của VNM.
-Quy tắc 4: Bán ra trên các phân kỳ thị trường giá xuống khi đỉnh đầu tiên nằm trên mức 70. Nếu phân kỳ hình thành nên một dao động thất bại, nó chính là một dấu hiệu mạnh hơn.
Ta tiếp tục xét sự biến động giá của VNM trong giai đoạn từ tháng 3/2006 đến tháng 7/2006 để thấy được ví dụ về sự phân kỳ thị trường giá xuống.
Hình 6
Hình 6 là đồ thị VNM, ta có thể thấy phân kì thị trường giá xuống vào giai đoạn cuối tháng 4,trong giai đoạn đây là một dấu hiệu mạnh tồn tại cùng với một dao động thất bại ở điểm A. Dấu hiệu rất rõ ràng vì thế B là cơ hội tốt để bán cổ phiếu ra.
2.3. HỘI TỤ VÀ PHÂN KỲ CỦA ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (MACD)
2.3.1. Khái niệm:
MACD là một loại dấu hiệu dự báo thị trường kép, bởi vì bản thân nó là một công cụ đo độ dao động giá nhưng lại được sử dụng như là một phương tiện cơ bản để xác định các xu hướng giao dịch trên thị trường. MACD được xác định dựa trên các đường trung bình động. Nó chính là khoảng cách giữa hai đường trung bình động. MACD dao động không giới hạn và không được xem như là một dấu hiệu thị trường mua quá mức hoặc bán quá mức.
2.3.2. Phương pháp tính:
Đường MACD được xác định như sau:
Bước 1: Xác định theo hàm số mũ 12 kỳ của giá đóng cửa.
Bước 2 :Xác định theo hàm số mũ 26 kỳ của giá đóng cửa.
Bước 3 :Lấy khoảng chênh lệch giữa đường trung bình động 12 kỳ và 26 kỳ. Đây là đường MACD cơ bản.
Bước 4 :Xác định đường trung bình động theo hàm số mũ 9 kỳ giá đóng cửa từ đường MACD đã tính được ở bước 3. Đây là đường tín hiệu.
Như vậy, phương pháp MACD bao gồm đường MACD cơ bản và đường tín hiệu.
2.3.3.Quy tắc giao dịch
MACD chỉ thực sự hữu ích đối với việc xác định các xu hướng giao dịch.
Quy tắc 1:Thực hiện giao dịch mua vào khi đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu từ dưới lên.Tất toán giao dịch mua khi đường MACD thể hiện tín hiệu thị trường bán ra.
Hình7
Trong hình 7, ta thấy trong giai đoạn đầu tháng 11/2006, với đồ thị cổ phiếu GMD, đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu theo hướng từ dưới lên, báo hiệu một xu hướng tăng giá, lúc này nên tiến hành giao dịch mua vào. Nhìn vào đồ thị ta cũng thấy rằng sau đó giá tăng đi kèm với khối lượng giao dịch lớn.
Quy tắc 2: Bán ra khi đường MACD cắt đường tín hiệu từ trên xuống.Tất toán giao dịch bán khi đường MACD có dấu hiệu mua vào.
Cũng vẫn theo đồ thị hình 7, ta thấy và thời điểm cuối tháng 11, đầu tháng 12, giá cổ phiếu GMD có xu hướng giảm, đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu theo hướng từ trên xuống. Theo quy tắc 4 thì ta nên thực hiên bán ra tại điểm này để tránh thua lỗ. Tuy nhiên, nhìn vào đồ thị ta thấy vào giai đoạn đầu tháng 12 thị trường vẫn còn rất nhập nhằng, trong giai đoạn này tốt nhất là kết hợp mua vào bán ra một cách hợp lý và phải kết thúc giao dịch mua, tiến hành bán ra ở điểm C. Dấu hiệu này cũng cho kết quả tương từ như ta sở dụng hai đương trung bình động để phân tích.
2.4. DẢI BOLLINGER
2.4.1. Khái niệm
Dải Bollinger được đặt tên theo nhà phân tích thị trường John Bollinger, công cụ này thay đổi phụ thuộc vào độ biến động của thị trường.
2.4.2. Cách xác lập dải Bollinger
Để xác lập một dải Bollinger, trước tiên ta phải xác định đường trung bình động, rồi từ đường này xác định các đường biên 2 bên của dải Bollinger bằng cách áp dụng một số độ lệch chuẩn nhất định.
Đối với xu hướng trung hạn - đường trung bình động 20 ngày: các đường biên hai bên cách đường trung bình động 2 độ lệch chuẩn.
Đối với xu hướng ngắn hạn - đường trung bình 10 ngày: các đường biên 2 bên cách đường trung bình động 1,9 độ lệch chuẩn.
Đối với xu hướng dài hạn - đường trung bình động 50 ngày: cách đường trung bình động 2,1 độ lệch chuẩn.
Như vậy, nếu thị trường biến động khoảng cách giữa các đường biên của dải Bollinger sẽ rộng. Và nếu thị trường ổn định thì khoảng cách này sẽ hẹp.
2.4.3.Cách sử dụng dải Bollinger
Dải Bollinger, bản thân nó không nhằm đưa ra các tín hiệu giao dịch trên thị trường mà nhằm hỗ trợ cho việc xác định xu hướng giá lên cao hay thấp hơn dựa trên các dấu hiệu khác.
Dải Bollinger cho chúng ta biết các dấu hiệu sau:
Dấu hiệu 1:
Khi khoảng cách giữa các đường biên độ co hẹp lại, ngườI ta có thể dự kiến một đợt biến động giá mạnh sắp xảy ra. Biến động này thường dưới dạng một biến động giá hình thành xu hướng. Tuy nhiên, có một điều cần ghi nhớ: thị trường thường bắt đầu với những biến động giả tạo trước khi nó đảo chiều theo một xu hướng khác.
Hình8
Trong hình 8 ta có thể thấy các đường biên của dải Bollinger thu hẹp khoảng cách giữa chúng một cách đáng kể vào cuối tháng 10 đầu tháng 11. Khi chúng dãn rộng ra giá tăng mạnh, thị trường hình thành xu hướng đi lên. Nhìn vào đương RSI trong đồ thị trên ta cũng thấy vào đầu tuần thứ tư của tháng 11, RSI có xu hướng chạm đường 30, và sau đó lại đi lên, đây là một dấu hiệu nên mua vào, đây cũng là kết quả có được khi sử dụng đường SMA và MACD để phân tích (như phần trên đã trình bày). Tín hiệu của dải Bollinger xuất hiện sau đó một lần nữa khẳng định dấu hiệu của các chỉ báo trên.
Dấu hiệu 2:
Những biến động xuất giá phát ở một đường biên này có xu hướng tiến về đường biên khác trong dải Bollinger. Điều này có thể giúp chúng ta đưa ra quyết định mua bán kiếm lời.
Trong hình 8, ta có thể thấy vào cuối tháng 11 đường giá nằm gần đường biên trên của dải Bollinger, sau đó tiến dần đến đường biên dưới và chạm vào đường biên dưới vào cuối tháng 12 . Một lần nữa ta có thể thấy tín hiệu của dải Bollinger đã khẳng định dấu hiệu của đường SMA và RSI khi hai dấu hiệu này đưa ra quyết định nên mua vào (đường giá cắt đường SMA theo hướng từ dưới lên, RSI gần chạm mức mua bán quá lớn)
Dấu hiệu 3:
Biến động giá vượt ra khỏi giới hạn của các đường biên là dấu hiệu về động lực thị trường và chỉ ra rằng thị trường sẽ tiếp tục xu hướng giá hiện thời. Mặc dù vậy, dấu hiệu này sẽ vô nghĩa nếu giá chứng khoán ngay sau đó lập tức đảo chiều và quay lại khung giới hạn được tạo bởi các đường biên.
Trong hình 8 ta thấy vào đầu tháng 11 sau khi dải Bollinger thu hẹp khoảng cách báo hiệu một xu hướng tăng giá mới, đưồng giá đã vượt ra khỏi đường ra khỏi đưồng biên trên và tăng mạnh. Đây là một dấu hiệu chỉ rằng giá sẽ tiếp tục xu hướng tăng, và ta thấy sau đó đường giá bám sát đường biên trên và tăng mạnh.
Dấu hiệu 4:
Nếu giá bám vào một trong hai đường biên trong một biến động hình thành xu hướng thị trường nào đó, biến động này chắc chắn tiếp diễn. Tuy nhiên, nếu sự phân kỳ xuất hiện, thì đó chính là dấu hiệu để kết thúc bất kỳ giao dịch mua hay bán nào theo xu hướng thị trường.
Trong hình 8 ta thấy rằng giai đoạn tháng 8/2006 đến tháng 10/2006, giá bám sát vào đường biên trên, trong xu hướng thị trường tăng nhẹ, dấu hiệu này khẳng định giá sẽ tiếp tục xu hướng này của thị trường. Tiếp đến, sang cuối tháng 11 đường giá một lần nữa lại bám sát đường biên trên trong xu hướng tăng mạnh.
2.5. ÁP DỤNG 4 CHỈ BÁO SMA, RSI, MACD, DẢI BOLLINGER CHO CỔ PHIẾU GMD TRONG GIAI ĐOẠN SẮP TỚI
Hình9
Đồ thị hình 9 là biểu đồ phân tích kĩ thuật của cổ phiếu GMD trong vòng 6 tháng trở lại đây, kết thúc vào ngày 15/1/2007. Như đã phân tích, theo dõi từ tháng 11 trở lại đây cổ phiếu GMD đang ở trong xu hướng tăng giá mạnh. Dải Bollinger mở rộng từ đầu tháng 11 và chưa có dấu hiệu chứng tỏ sẽ thu hẹp lại, điều này cho thấy trong thời gian tới sẽ không có biến động lớn về xu hướng thị trường đối với GMD.
Vào cuối tháng 12, đường giá lại cắt đường SMA 5 ngày theo hướng từ dưới lên, sau đó vào đầu tháng 1 đường SMA 5 ngày cắt đường SMA 10 ngày cũng theo hướng từ dưới lên. Đường RSI từ đầu tháng 1 đi lên từ mức 30 đến nay cũng đã sáng mức mua qua lớn ( trên 70). Tất cả các dấu hiệu này đều chỉ ra rằng giai đoạn này là giai đoạn nên mua cổ phiếu để thu lợi nhuận.
Tại thời điểm sát ngày 15/1/2007, ta thấy dải Bollinger mở rộng nhất, điều này chứng tỏ thị trường đang ở giai đoạn biến động giá lớn. Đường giá vượt lên trên đường biên trên của dải Bollinger , đây là một tín hiệu chứng tỏ động lực của thị trường, Giá cổ phiếu GMD có thể tiếp tục sẽ vẫn giữ vững xu hướng hiện tại. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý thị trường hiện nay đang quá nóng và có thể đảo chiều bất cứ lúc nào, do đó cần phải theo dõi động thái thị trường thường xuyên để có thể kịp thời ra quyết định bán để tránh thua lỗ.
KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có 6 năm phát triển. Từ những buổi đầu thành lập (ngày 28/07/2000) đến nay thị trường đã có những bước phát triển đáng khích lệ,cả về số lượng cũng như chất lượng.Tính đến nay thị trường đã có khoảng 200 công ty niêm yết trên cả hai trung tâm, tổng giá trị vốn hoá thị trường đã đạt 24,4% GDP năm 2006,vượt chiến lược phát triển thị trường đến năm 2010.Chất lượng hàng hoá ngày càng được khẳng định,tính minh bạch của thị trường cũng được nâng cao…Cùng với việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước,việc mở cửa hội nhập,các cam kết gia nhập WTO, số lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng gia tăng,kèm theo đó là mức độ rủi ro cũng lớn hơn.Thị trường Việt Nam đã bước đầu làm quen với phương pháp phân tích kỹ thuật.Một số các trang Web liên quan đến chứng khoán cũng đã cung cấp các phần mềm phân tích kỹ thuật hỗ trợ khách hàng trong việc ra quyết định đầu tư.Các phân tích kỹ thuật ngày càng thể hiện được những ưu điểm của nó, và được sử dụng nhiều hơn trong quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư. Để tạo ra một thị trường hiệu quả,an toàn hơn cho các nhà đầu tư,ngoài việc nâng cao chất lượng hàng hoá,tăng tính minh bạch của thị trường….việc áp dụng các phương pháp phân tích để lựa chọn một danh mục đầu tư hiệu quả càng trở nên cần thiết.Chính vì vậy mà phân tích kỹ thuật càng khẳng định vai trò không thể thiếu của nó đối với thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam
2. Giáo trình phân tích và đầu tư chứng khoán của UBCKNN
3. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐH Kinh tế Quốc dân
4. Giáo thị trường chứng khoán - ĐH Kinh tế Quốc dân
5. Trang web: www.vcbs.com.vn
www.ssi.com.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72753.DOC