Đề tài Tình hình quản lý dự án tại ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả

Giới thiệu chung về các dự án mà BQL đã tham gia Từ khi được thành lập năm 2001, BQLDA chè-quả đã thực hiện quản lý 2 dự án đó là dự án “phát triển chè và cây ăn quả„ và dự án “phát triển sản xuất khoai tây„. Trong cả 2 dự án này, BQLDA chè-quả đều đóng vai trò là CPMU, chịu trách nhiệm điều hành chung toàn bộ dự án. Dự án phát triển chè và cây ăn quả được thực hiện trong 6 năm (từ năm 2001 đến tháng 12 năm 2007) với tổng vốn đầu tư là 61,4 triệu USD trong đó vốn vay ADB là 43,3 triệu, vốn đối ứng là 18,1 triệu USD. Đây là dự án nhằm phát triển 2 ngành sản xuất chè và trồng cây ăn quả ở 13 tỉnh trung du và miền núi phía bắc Việt Nam thông qua việc hỗ trợ kỹ thuật canh tác, cho vay tín dụng và xây dựng hệ thống thông tin thị trường, tiêu thụ sản phẩm.

doc103 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình quản lý dự án tại ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững thuận lợi như khí hậu và thời tiết, tiềm năng đất đai và nguồn nhân lực, các tiến bộ về khoa học và công nghệ, hệ thống thuỷ lợi khá hoàn chỉnh và thị trường đầy tiềm năng, sản xuất khoai tây ở Việt Nam nói chung và miền Bắc nói riêng cũng gặp phải nhiều khó khăn và thách thức như việc thiếu giống tốt vào thời điểm gieo trồng, sản xuất nhỏ lẻ manh mún và không mang tính hàng hoá, chủ yếu là lao động thủ công và công tác tiếp thị yếu Không những thế, khoai tây thương phẩm nhập từ Trung quốc được sử dụng làm giống do có 2 ưu điểm chính là giá rẻ và sẵn có trên thị trường. Việc sử dụng khoai tây thương phẩm làm khoai tây giống đã dẫn đến việc lây lan một số dịch bệnh và rủi ro về vấn đề này là rất lớn. Trong những khó khăn và thách thức kể trên thì việc thiếu giống tốt được coi là một trở ngại chính đối với sản xuất khoai tây ở Miền Bắc. - Kiểm định và kiểm nghiệm chất lượng còn tốn nhiều thời gian và chi phí cao do đó số lượng đăng ký và được thực hiện năm 2008 thấp hơn so với năm 2007. Điều này một phần là do dự án đã nhập một số giống khoai tây mới từ Đức, Trung Quốc và Phần Lan đồng thời mở rộng quy mô nhân giống do đó cần nhập thêm các thiết bị, hóa chất kiểm nghiệm từ nước ngoài nên đã làm tăng chi phí kiểm nghiệm giống. - Việc tập huấn cho nông dân chưa đồng bộ, thực hiện không đúng thời gian, thời lượng đã gây ra một số sự không thống nhất trong phương pháp sản xuất ở một số hợp tác xã và làm chất lượng khoai thương phẩm không đồng nhất, dễ bị nhiễm bệnh. - Các quy định, hướng dẫn chi tiết của nhà nước về đăng ký và xác nhận giống cũng như yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ làm công tác này vẫn chưa có. Các biện pháp kiểm dịch hiện tại còn chưa đáp ứng yêu cầu. - Các mục tiêu của dự án chưa được xác định rõ ràng và có các chỉ tiêu đánh giá cụ thể do đó gây khó khăn cho công tác quản lý chất lượng. (*) Một số bài học rút ra từ việc thực hiện dự án chè-quả và giai đoạn 1 của dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Các quy định và thủ tục về thực hiện dự án ở địa phương đã được hình thành ngay từ đầu, điều này đóng góp rất quan trọng cho sự thành công của dự án. Tiến độ về tăng cường xây dựng năng lực được triển khai kết hợp với quá trình thực hiện dự án rất hữu ích trong việc đẩy nhanh tiến độ dự án. Việc phân cấp thực hiện dự án đã giúp địa phương có tính chủ động ở mức nào đó. PPMU đóng vai trò then chốt trong công tác theo dõi và giám sát dự án, giúp tạo ra rính tự chủ, linh hoạt và tinh thần trách nhiệm của các tỉnh. - Các chương trình đào tạo, thăm quan học tập nên được thiết kế nhằm hỗ trợ thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, nên phân cấp thực hiện cho tỉnh, tuy nhiên, Ban quản lý dự án Trung ương (CPMU) nên xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá, tiến hành các đoàn công tác theo dõi kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. - Công tác cải cách chính sách và thể chế cũng được triển khai một cách hiệu quả hơn vì có sự thống nhất giữa VBARD, CPMU, các PPMU, các viện nghiên cứu và các cơ quan của Chính phủ ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Một kế hoạch hành động có khung thời gian rõ ràng cho công việc thực hiện công tác cải cách này và các điều kiện giải ngân cũng đã được thống nhất ngày từ thời điểm ban đầu của dự án. - Việc áp dụng lãi suất thương mại dựa vào thị trường dành cho các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa đã được thiết kế với sự kết hợp thêm với chương trình cho vay xoá đói giảm nghèo khác sẵn có trong vùng. Mức lãi suất thị trường được họat động một cách có hiệu quả hơn khi kết hợp với các nỗ lực khác nhau nhằm hỗ trợ cho các chi phí họat động của nhiều bên tham gia trong việc giảm nghèo đói. Mức lãi suất thị trường và sự linh hoạt trong việc tạo ra năng lực đối với các cá nhân là đối tượng thuộc dự án có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định bền vững của dự án. Một số giải pháp và kiến nghị Từ việc phân tích thực trạng và các ưu, nhược điểm của công tác QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả, đề tài xin trình bày một số giải pháp nhằm phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế kể trên như sau: QLDA theo chu kỳ Huy động và giải ngân vốn - Cần tập trung hơn nữa vào việc tăng cường năng lực và nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ tham gia quản lý tài chính vì đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định tiến độ giải ngân của dự án. Một trong những bộ phận cần có biện pháp tăng cường năng lực và kiện toàn bộ máy là các cán bộ tài chính kế toán của các Ban PPMU tỉnh. Do số lượng cán bộ tài chính kế toán của các Sở NN& PTNT có hạn nên các tỉnh cần phải có chính sách để đào tạo, thành lập một đội ngũ chuyên quản lý tài chính kế toán của các dự án. - Do mức lương cơ bản đã được điều chỉnh tăng từ năm 2009 nên cần có sự điều chỉnh về chi phí nhân sự của dự án, đặc biệt là cần xin cấp thêm vốn từ GTZ và Bộ NN&PTNT. Hiện nay BQL đã có công văn gửi lên Bộ nhưng vẫn còn đang trong tình trạng chờ phê duyệt. Tuy nhiên mức lương sau khi tăng chắc chắn vẫn không thỏa đáng, đặc biệt là mức phụ cấp của các cán bộ tỉnh do đó thường gây khó khăn cho việc tuyển dụng và thu hút nhân tài cho dự án. Do đo cần có các quy định linh hoạt hơn về mức phụ cấp, đặc biệt là với các tỉnh vùng sâu vùng xa. Các vùng này cần có mức phụ cấp cao hơn nữa để có thể thu hút cán bộ có năng lực từ các nơi khác đến. - Cần đơn giản hóa cơ chế lựa chọn nhà thầu và xét duyệt các khoản tín dụng, không nên kéo dài tình trạng có quá nhiều cơ quan cùng tham gia xét duyệt như hiện nay. Có thể hạn chế bớt sự tham gia của ban chỉ đạo dự án và yêu cầu sở xây dựng tỉnh phối hợp cùng với ngân hàng để cùng đánh giá và thống nhất về hồ sơ kỹ thuật của nhà thầu trước khi để ngân hàng đánh giá mảng tài chính và ngân hàng sẽ là người quyết định cuối cùng. - Cần thống nhất phương pháp quản lý tài chính cho từng PPMU trước khi triển khai dự án sao cho phù hợp với yêu cầu của nhà tài trợ. Do các dự án thường có các dòng chi có tính chất đặc thù và theo các tỷ lệ rất khác nhau như các cam kết của Chính phủ Việt Nam với nhà tài trợ cho từng dự án. Tính đặc thù của các dòng chi đòi hỏi cán bộ tài chính kế toán phải đầu tư thời gian và công sức để tìm hiểu nội dung của từng dự án. - Bộ NN&PTNT cần ủy quyền hơn nữa cho BQLDA trung ương để giám đốc dự án có thể tự phê duyệt và quyết định các khoản chi không quá lớn để có thể tiết kiệm thời gian, đẩy nhanh tốc độ giải ngân do đặc điểm dự án nông nghiệp là có nhiều khoản chi nhỏ, khó hạch toán chi tiết. Với các khoản chi phát sinh ngoài thiết kế ban đầu của dự án thì tùy theo quy mô có thể cho phép PPMU, CPMU tự quyết định trước và báo cáo lên cấp trên sau. Bộ NN&PTNT cần định ra hạn mức này để tạo sự linh hoạt trong quản lý và giảm bớt khối lượng công việc cho các cấp trung ương. Điều này là cần thiết vì với các khoản phát sinh nhỏ như vậy thì các cấp trung ương cũng khó hiểu rõ sự cần thiết và mức độ phù hợp với dự án, nếu cố quản lý quá nhiều sẽ dẫn đến việc tốn quá nhiều công sức cho các khoản nhỏ mà không đủ sức làm các vấn đề vĩ mô quan trọng hơn như lập kế hoạch hàng năm, xác định phạm vi dự án, đánh giá dự án - Do hầu hết các dự án gần đây đều gặp khó khăn do trượt giá, việc thỏa thuận bù giá cho nhà thầu luôn tốn thời gian nên có thể khuyến khích chính quyền địa phương tạm ứng bằng ngân sách tỉnh để nhà thầu có thể tiếp tục thi công trong lúc chờ các cấp trung ương xét duyệt tỷ lệ bù giá. Tuy nhiên với các tỉnh không dư giả về ngân sách hoặc không nhiệt tình với dự án thì khi Bộ đã đồng ý sẽ có bù giá và đang chờ quyết định về tỷ lệ cụ thể thì dự án có thể bảo lãnh để các ngân hàng nhà nước (như ngân hàng phát triển Việt Nam, ngân hàng chính sách) đứng ra cho các nhà thầu vay tạm để có thể tiếp tục thi công trong lúc chờ quyết định bù giá. - Tiến hành các cuộc họp, hội thảo với sự có mặt của Bộ NN&PTNT, Bộ Tài Chính, đơn vị tài trợ vốn và các cơ quan quản lý khác để bàn về các biện pháp hài hòa hóa thủ tục hành chính và các cơ chế QLDA vốn có nhiều điểm mâu thuẫn giữa chính phủ Việt Nam và đơn vị tài trợ cũng như khả năng vận dụng có hạn của các tỉnh. Một trong các vấn đề cần làm ngay là việc giảm bớt sự tham gia quản lý của các cơ quan trung ương vào các khoản chi quá nhỏ để vừa tăng tính tự chủ của các tỉnh, vừa giảm bớt gánh nặng công việc cho các cơ quan trung ương, giúp họ tập trung hơn vào việc quản lý vĩ mô, định hướng cho dự án nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ cần có đối với việc quản lý các dự án sử dụng vốn ODA. - Để có thể đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay cho các hộ nông dân và các đơn vị thực hiện dự án thông qua hợp phần tín dụng thì trước hết BQLDA trung ương cần xúc tiến việc thành lập sổ tay hướng dẫn cho vay với các quy định cụ thể về tiêu chuẩn cho vay, thời hạn và lãi suất ưu đãi. Sổ tay này cần được ngân hàng NN&PTNT, Bộ Tài Chính, Ban chỉ đạo dự án và BQLDA trung ương thống nhất quan điểm để không chỉ phù hợp với các điều khoản vay vốn đã ký với GTZ mà còn đảm bảo khả năng thu hồi vốn để có thể lập quỹ quay vòng trong tương lai. Điều này là rất cần thiết vì trong dự án này và cả dự án phát triển chè và cây ăn quả đều từng gặp khó khăn trong việc xác định cơ chế quản lý khoản vốn của hợp phần tín dụng nên đã dẫn đến những chậm trễ không đáng có. Về cơ bản, các khoản cho vay đối với hộ nâng dân thường là các khoản vay không quá lớn nên việc quy định tài sản thế chấp gây nhiều phiền toái và chậm trễ do đó có thể lập ra các quỹ tín dụng do hợp tác xã, hội phụ nữ, hội sản xuất khoai tây quản lý và thực hiện việc quay vòng vốn thay vì để cho ngân hàng thẩm định toàn bộ việc cho vay như hiện nay. Tại những địa bàn nghèo, cả ngân hàng NN&PTNT và Quỹ tín dụng nhân dân nên tiến hành nghiên cứu chi tiết nhằm khai thác các tiềm năng, giảm đi các tài sản thế chấp quy định đối với nông dân nghèo và/hoặc nâng cao quyền sử dụng đất nhằm biến các vùng đất canh tác của họ thành các tài sản có thể thế chấp cho ngân hàng. Trang bị thêm cho nông dân về kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và giám sát chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo rằng họ có thể phát triển vụ mùa bội thu và giúp họ tiếp thị các sản phẩm của mình và cũng việc trả nợ tiền vay ngân hàng. Mặt khác, đối với việc cho vay với các nhà thầu cũng cần đơn giản hóa cơ chế thẩm định và can thiệp đối với quyết định cho vay. Nếu tiếp tục cơ chế hiện nay thì sẽ gây ra nhiều mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ quan quản lý: Ban chỉ đạo dự án lựa chọn dựa vào đánh giá của các chuyên viên kỹ thuật của mình; sở xây dựng xem xét dựa vào hồ sơ thiết kế kỹ thuật của nhà thầu; ngân hàng NN&PTNT đánh giá dựa trên khả năng tài chính; ngoài ra còn có ủy ban nhân dân tỉnh. - Với dự án phát triển chè và cây ăn quả có đặc điểm là có nhiều các khoản vay trung và dài hạn dẫn đến khó xác định khả năng thu hồi vốn cho ngân hàng nhưng ở dự án phát triển sản xuất khoai tây, phần lớn các khoản vay đều là vay ngắn và trung hạn nên có thể áp dụng rộng rãi hình thức cho các quỹ tín dụng nhân dân, hội phụ nữ, hợp tác xã đứng ra vay của ngân hàng NN&PTNT sau đó cho vay lại với các hộ nông dân. Thời hạn cho vay ngắn là một yếu tố giúp dễ dàng hình thành và quản lý quỹ quay vòng. Do đó, trong thời gian tới có thể tăng cường áp dụng phương thức này để góp phần đẩy nhanh tiến độ giải ngân hợp phần tín dụng. - Về vấn đề định mức chi tiêu, mặc dù định mức này là do Bộ tài chính và bộ NN&PTNT đề ra, việc kiến nghị và thay đổi sẽ khó khăn và mất thời gian, tuy nhiên BQLDA trung ương có thể đề xuất tăng quỹ lưu động dùng để tạm ứng cho các khoản chi đột xuất vượt quá định mức và cho phép các địa phương được tự quyết với những khoản chi quá nhỏ dưới một mức nào đó và tổng chi vẫn nằm trong mức quỹ lưu động hàng kỳ cấp cho địa phương đó. Phối hợp với các đơn vị khác - Nên giảm bớt số đơn vị chịu trách nhiệm và tham gia quản lý chung của dự án vì như vậy sẽ không xác định rõ trách nhiệm thuộc về ai và việc quản lý sẽ bị chồng chéo. Như cơ chế hiện nay thì chịu trách nhiệm chung, toàn diện về việc thực hiện dự án gồm có Bộ NN&PTNT, ban chỉ đạo dự án, BQL các dự án nông nghiệp, BQLDA trung ương do đó việc phối hợp, báo cáo giữa các cơ quan này rất mất thời gian và không hiệu quả. Do đó, khi Bộ NN&PTNT đã ủy quyền cho BQLDA trung ương thì nên giao quyền quyết định cho giám đốc dự án để BQL có thể tự chủ hơn và phản ứng kịp thời với các yêu cầu của dự án. - Tăng cường trách nhiệm cho các đơn vị tham gia thực hiện dự án, đặc biệt là trong khâu lập kế hoạch của các PPMU. Các PPMU là đơn vị giám sát trực tiếp việc thực hiện dự án ở địa phương mình nên nắm rõ được các khó khăn của địa phương tuy vậy khi lập kế hoạch cần có sự phối hợp với các PPMU khác chứ không phải chỉ trình kế hoạch giải ngân của địa phương mình rồi ngồi chờ CPMU điều phối nguồn lực giữa các tỉnh. - Cần tiếp tục quan điểm giúp đỡ cả khối nhà nước (xác nhận, kiểm định chất lượng, đăng ký -cấp phép) và tư nhân (thương mại, nhập khẩu và nhân giống) song cần chú ý hơn tới khối tư nhân. Từ quan điểm trên cho thấy cần điều chỉnh số đơn vị hợp phần tham gia dự án cho phù hợp ví dụ như cần có thêm sự phối hợp của Viện Kinh tế nông nghiệp, Phòng kiểm dịch-cục bảo vệ thực vật, Cục chế biến và ngành nghề nông thôn và trường Đại Học Nông Nghiệp I tham gia vào cơ cấu thực hiện dự án. - PPMU nên có thể thay đổi các quy định và các thủ tục đối với việc thực hiện dự án tại địa phương mình càng sớm càng tốt. Các chương trình đào tạo và chuyến thăm quan học tập nên được thực hiện để hỗ trợ trợ cho công việc thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, dự án nên phân quyền cho cấp tỉnh. Tuy nhiên, Ban quản lý dự án của tỉnh nên thiết lập một hệ thống chỉ đạo và đánh giá, tiến hành các đoàn kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. - Việc quản lý, phê duyệt các hoạt động chung của dự án cần tập trung thống nhất vào BQLDA trung ương, Bộ NN&PTNT khi đã giao trách nhiệm quản lý chung toàn bộ dự án cho CPMU thì cũng nên nên tin tưởng và ủy quyền hơn nữa cho đơn vị này để có thể tự quyết một số hạng mục không lớn thay vì phải giải trình chi tiết và chờ phê duyệt trước khi được Bộ đồng ý cho thực hiện như hiện nay. Như vậy có thể tiết kiêm được rất nhiều thời gian và tạo ra tính linh hoạt, chủ động trong việc thiết kế và thực hiện dự án. - Tăng cường hơn nữa tính tự chủ ở địa phương, BQLDA trung ương nên tiến hành thực hiện một bản ghi nhớ giữa các Ban quản lý dự án tỉnh, Viện Nghiên cứu, VBARD và hoặc đơn vị tài chính tham gia dự án và hệ thống hành chính Nhà nước ngay từ khi bắt đầu dự án. Một kế hoạch hành động khung thời gian để thực thi những cải cách này nên được miêu tả một cách rõ ràng và thống nhất giữa các bên, và các hành động cụ thể nên được xác định một cách rõ ràng thêm các điều kiện giải ngân các quỹ vay. - Cải cách thủ tục hành chính hiện nay đang theo hướng phi tập trung hóa, tức là phân quyền về cho các cấp quản lý cơ sở và địa phương. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ NN&PTNT vẫn còn rất lúng túng trong công tác cải cách hành chính và phân quyền đối với các dự án. Điều này đòi hỏi Bộ phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác nghiên cứu về tổ chức, phân rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cá nhân và tổ chức tham gia quản lý và thực hiện dự án để tránh tình trạng rất nhiều cán bộ có quyền lực đối với dự án nhưng lại không có trách nhiệm khi dự án chậm giải ngân. Do các thủ tục hành chính trong quản lý tài chính của nước ta hiện nay còn mang nặng tính hình thức, thủ tục giấy tờ rườm rà, có quá nhiều quy định và khâu trung gian nên nảy sinh nhiều tiêu cực dẫn đến các khâu chạy thủ tục giấy tờ còn quan trọng hơn các công việc kỹ thuật phục vụ thực hiện dự án. Do đó trong công tác xây dựng cơ chế, chính sách cần có sự phối hợp và lấy ý kiến của nhiều đơn vị tham gia dự án cũng như của các cơ quan quản lý ngành để đưa ra những quy định nhất quán, hợp lý và có thể linh hoạt với hoàn cảnh hiện tại của từng địa phương. Các văn bản hướng dẫn này cũng cần được rà soát cẩn thận, tránh tình trạng văn bản cũ và văn bản mới quy định chồng chéo, cản trở lẫn nhau gây khó khăn cho việc áp dụng. Các quy định này cũng cần cố gắng hài hòa hóa các thủ tục hành chính với tổ chức tài trợ bằng cách tuân theo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO và các tổ chức quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên. - Dự án cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với nhiều dự án khác do GTZ quản lý ở Việt Nam, Trung Quốc và Đức và với trung tâm khoai tây quốc tế ở Peru; các hợp phần giống khác được tài trợ bởi DANIDA. - Rút kinh nghiệm từ dự án phát triển chè và cây ăn quả, dự án cần có sự phối hợp với các chương trình khuyến nông của địa phương. Ngoài việc trao đổi thông tin về chương trình và kỹ thuật canh tác còn cần lồng ghép các nội dung, thông tin tuyên truyền của dự án với các chương trình khuyến nông của địa phương. Các cán bộ khuyến nông tỉnh cần được biết thông tin về dự án và phối hợp với dự án. Việc phối hợp giữa hai hoạt động này sẽ tiết kiệm được chi phí truyền thông, tập huấn cho nông dân đồng thời cũng sẽ phù hợp với các chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây nông nghiệp của địa phương. - Để có thể có các tư vấn về chính sách giống, chính sách nông nghiệp như kế hoạch năm 2009 đã đề ra thì cần tiến hành các hoạt động sau: 1/ đánh giá về kinh tế khả năng cung cấp các giống khoai tây khác nhau; 2/ phát triển cơ sở dữ liệu để giám sát và đánh giá nội bộ; 3/ cập nhật các khuyến nghị đối với khoai tây giống và marketing khoai tây thương phẩm; 4/ đào tạo nhân viên trên các lĩnh vực thích hợp, phân tích và cụ thể hóa các kết luận rút ra khi phổ biến các phương pháp áp dụng tại vùng dự án; 5/ hợp tác với các cơ quan và đơn vị có liên quan để cải thiện việc marketing và chế biến khoai tây; 6/ trợ giúp kết hợp với việc phổ biến các khía cạnh liên quan đến khoai tây giống vào hoạt động khuyến nông (đối với các đơn vị nhà nước cũng như tư nhân); 7/ cung cấp các phương tiện khuyến nông (tờ rơi, sách giới thiệu) cho các đơn vị khuyến nông thích hợp). - Ngoài ra, với dự án phát triển chè và cây ăn quả, để có thể phát huy các thành quả mà dự án đã tạo ra, Bộ NN&PTNT nên lập một kế hoạch dài hạn cho dự án phát triển chè quả, đề ra một chiến lược lâu dài đến năm 2020 nhằm hướng dẫn họ trong việc thúc đẩy sản xuất các cây ăn quả khác nhau trong các khu vực khác nhau chủ yếu dựa vào các điều kiện đất, địa hình và khí hậu. Trong kế hoạch này cần bao gồm một khoản bổ sung uớc tính chi phí cần thiết cho cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và thúc đẩy thị trường. Quản lý vi mô thực hiện dự án - Để có thể giảm thiểu sự chậm trễ trong giai đoạn đầu dự án (do sự không thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong việc xác định cơ chế quản lý tài chính và cơ chế ra quyết định), cần có sự tham gia và thống nhất của các cơ quan có liên quan như Bộ Tài Chính, Kho Bạc, Bộ Xây Dựng, chính quyền địa phương... ngay từ khi nghiên cứu, lập hồ sơ dự án trong đó có sự chú trọng đúng mức hơn vào việc nghiên cứu cơ cấu quản lý dự án cấp trung ương. - Cần tập trung phát triển sản xuất khoai tây ở từng vùng trọng điểm để có thể có các hộ, hợp tác xã có quy mô đủ lớn với chất lượng bảo đảm, đồng nhất để giảm chi phí sản xuất, xây dựng thương hiệu, tăng khả năng cạnh tranh với khoai tây nhập khẩu đồng thời rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng ra các địa phương khác. Hơn nữa khi tập trung vào một vùng nhất định thì sẽ xây dựng được các nhóm, tổ, hiệp hội sản xuất có thể giúp đỡ lẫn nhau, làm giảm chi phí đào tạo, chuyển giao công nghệ và cũng có thể xây dựng được thương hiệu theo vùng địa lý từ đó có thể tạo ra sự khác biệt trên thị trường và nâng cao giá bán, tăng thu nhập của nông dân từ việc sản xuất khoai tây chất lượng cao. Đó sẽ là tiền đề để có thể nhân rộng mô hình sản xuất ra các địa phương khác và xây dựng phương pháp sản xuất hàng hóa sau này. - Cần thiết phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Hệ thống này sẽ liên kết giữa các cơ quan quản lý của địa phương với mạng máy tính ở các cơ quan điều phối quản lý cấp trung ương như Bộ KH-ĐT, Bộ Tài chính, văn phòng Chính phủ,... với các Ban QLDA và với nhà tài trợ. Ngoài ra, cần thống nhất các phần mềm được sử dụng giữa các cơ quan trung ương và địa phương. - Do lượng giống sản xuất còn hạn chế mà một trong những khâu quan trọng là nuôi cấy mô nên cần tăng cường cung cấp trang thiết bị cho các phòng nuôi cấy mô, cung cấp nhà lưới, kho lạnh và lưới. - Nhằm hỗ trợ nông dân ổn định về giá, trong dự án phát triển chè và cây ăn quả thì một số tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tổ chức cho các thương nhân và bà con nông dân gặp mặt trước vụ mùa để ký kết các hợp đồng mua bán chè (tỉnh Thái Nguyên) và quả (tỉnh Bắc Giang). Mục đích này là nhằm làm ổn định về giá trong suốt thời gian vụ mùa. Đây cũng là một gợi ý có thể áp dụng được cho dự án phát triển sản xuất khoai tây giai đoạn 2 vì hiện nay giá cả khoai thương phẩm vẫn phụ thuộc nhiều vào giá khoai nhập từ Trung Quốc nên không ổn định. Nếu có thể thành lập một vùng chuyên canh về khoai tây thì các hộ nông dân có thể hỗ trợ nhau bình ổn giá cả. - Cần tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường bổ sung vì lần điều tra trước không đạt yêu cầu của các chuyên gia. Lần điều tra này cần tập trung xác định hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của 2 phương pháp nhân giống so với các giống khoai tây nhập khẩu từ Trung Quốc để từ đó quyết định xem có nên tiếp tục áp dụng 2 phương pháp này trong giai đoạn 2 hay không. Ngoài ra việc xác định nhu cầu thị trường trong 10 năm tới cũng là một yêu cầu của GTZ và cần phải được triển khai trước khi thực hiện giai đoạn 2. Để tránh lạp lại các sai sót như trong lần điều tra thị trường lần trước và mở rộng phạm vi nghiên cứu, đảm bảo tính tin cậy và tính dự báo thì cần chú trọng hơn nữa vào tính tin cậy của nguồn thông tin và phương pháp thu thập số liệu, cần có thêm các ý kiến tham khảo của các chuyên gia trong ngành ngay từ khi thu thập thông tin. Ngoài ra có thể thuê dịch vụ tư vấn nghiên cứu thị trường để đảm bảo tính trách nhiệm và chính xác trong nghiên cứu. Công tác này cần được tiến hành càng sớm càng tốt để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và xác định phạm vi dự án cho giai đoạn 2. - Ngoài điều tra thị trường thì dự án cũng cần có điều tra kinh tế xã hội để có thể phân loại vùng dự án, xác định đối tượng thụ hưởng để từ đó có thể tập trung vào một số vùng sản xuất trọng điểm, có thể thu hẹp vùng dự án và tập trung vào địa phương có tiềm năng phát triển sản xuất hoặc nhu cầu tiêu thụ thuận lợi để mở rộng sản xuất. Giám sát, đánh giá dự án - Cần cụ thể nguồn và phương pháp thu thập dữ liệu giám sát với từng mục tiêu cụ thể ví dụ như: (*) Với mục tiêu “đưa thâm canh khoai tây vào hệ thống canh tác“ cần áp dụng các phương pháp: Điều tra mẫu chuẩn hóa, ngẫu nhiên đối với nông dân trồng và không trồng khoai tây trong vùng dự án; Thăm dò ý kiến một cách chuẩn hóa từ những người có vị trí như Chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng thôn...; Phỏng vấn theo cơ cấu khuyến nông viên (cả nhà nước và tư nhân). (*) Với mục tiêu “Triển khai phương thức nhân giống“ cần áp dụng các phương pháp: In sẵn các bảng dữ liệu điều tra để các hợp tác xã và các đơn vị có hợp đồng điền vào; kiểm tra chéo. (*) Với mục tiêu “Tăng cường quy trình xác nhận khoai tây giống“ cần áp dụng các phương pháp: Cho các nhân viên liên quan điền vào bảng biểu; Kiểm tra chéo giữa các nhân viên dự án và khách hàng được chọn. - Không nên đánh giá hiệu quả của hợp phần đào tạo và cung cấp thông tin thị trường chỉ bằng chỉ tiêu số lượng người được tham gia đào tạo, số hội nghị-hội thảo được tổ chức mà cần kết hợp với chỉ tiêu chất lượng thông tin được cung cấp, mức độ phù hợp và tính ứng dụng với điều kiện địa phương, mức độ cập nhật của thông tin cũng như chi phí cho hợp phần này. Từ các cơ sở đánh giá trên sẽ có thể giảm bớt các chi phí cho hội nghị, hội thảo, tập huấn quá lớn như hiện nay và các tỉnh cũng sẽ cân nhắc cẩn thận hơn khi đưa ra các kiến nghị về tăng cường đào tạo, hội thảo tại địa phương mình. - Khi đánh giá dự án thì các mục tiêu về bảo vệ môi trường, chống xói mòn đất, thường ít được chú ý đến mặc dù trong thiết kế ban đầu luôn nói rõ các chỉ tiêu, mục tiêu cụ thể. Rõ ràng đây lại là chỉ tiêu quan trọng phản ánh tính bền vững của dự án, do đó trong các đợt đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ cần chú ý hơn nữa tới các tiêu chuẩn này và phản ánh trong các báo cáo đánh giá gửi cho tổ chức tài trợ. Ngoài ra, các ảnh hưởng của dự án tới phát triển cộng đồng như quyền bình đẳng giới, nhận thức của người dân về môi trường và phát triển bền vững, cải cách thể chế cũng cần được chú trọng hơn và có các chỉ tiêu đánh giá cụ thể hơn nữa vì đây cũng là một trong các mối quan tâm của các tổ chức tài trợ, đặc biệt là tài trợ ODA. - Cần cụ thể hóa hơn nữa các chỉ tiêu đánh giá dự án trong ma trận dự án và kế hoạch hoạt động hàng năm để có thể giám sát tốt hơn tiến độ dự án và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ sau này. Ví dụ như chỉ tiêu thị phần của khoai tây sản xuất trong nước, của khoai tây cung cấp bởi dự án, so với khoai nhập khẩu vẫn chưa có số liệu cụ thể. Ngoài ra có một số chỉ tiêu không thật cần thiết hoặc khó xác định chính xác thì cũng nên bỏ qua ví dụ như chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ khoai tây trong tổng thu nhập của các hộ dân là một chỉ tiêu không có nhiều ý nghĩa. Ngoài ra cũng cần xác định các chỉ tiêu quan trọng cần phải đạt được ví dụ như tỷ lệ nhiễm bệnh của khoai tây thương phẩm, lượng khoai tây giống sản xuất được để từ đó có thể đánh giá chính xác mức độ hoàn thành cũng như tiến độ của dự án. - Cần tạo điều kiện cho các hộ dân và các đơn vị thực hiện dự án có thể tự giám sát chất lượng và tiến độ dự án vì các hợp phần đều có liên quan tới nhau, ví dụ như người nông dân trồng khoai thương phầm có thể giám sát chất lượng giống được cung cấp bởi đơn vị nhân giống. Do đó cần cung cấp thông tin đầy đủ về các hợp phần có liên quan và các tiêu chuẩn chất lượng cho các hộ dân và BQLDA có thể thường xuyên đi lấy ý kiến các hộ dân thay vì chỉ có 1-2 đợt đánh giá định kỳ theo yêu cầu của đơn vị tài trợ như hiện nay. Cách thức thu thập ý kiến đánh giá của các đơn vị thực hiện dự án cũng cần được xác định rõ để có thể tạo ra một hệ thống tự giám sát liên tục, khách quan và có hiệu quả. Tuy nhiên việc tổ chức các đoàn đánh giá đi các tỉnh thường là tốn kém và khó được chấp nhận nếu không có trong thiết kế của dự án. Do đó BQLDA trung ương và đơn vị tài trợ cần thảo luận và cân nhắc về việc tăng số lần tự đánh giá của phía Việt Nam. - Tiêu chuẩn hóa các tiêu chuẩn, quy trình đăng ký - kiểm tra – giám sát chất lượng. Ví dụ như với mục tiêu “Đẩy mạnh quy trình đăng ký giống khoai tây“ cần áp dụng các chuẩn quốc tế như DUS, VCU và các quy định của WTO, TRIPS. Để làm được điều này cần đầu tư hơn nữa cho các trung tâm, viện nghiên cứu và kiểm định chất lượng để các đơn vị này có đủ các trang thiết bị cần thiết để tiến hành đánh giá theo các tiêu chuẩn kể trên. QLDA theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi - Cần có kiến nghị giới hạn lĩnh vực can thiệp vào các nội dung: Nhân giống, xác nhận, đăng ký, kiểm dịch, chính sách giống và kinh tế nông nghiệp. Không nên chú trọng vào các hoạt động khuyến nông chung mà cần tập trung đặc biệt vào hoạt động nhân giống. Về việc này cần chú ý tới các quy định của WTO. Để có thể tuân thủ tốt cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật - SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures Agreement) cần hoàn thiện các tiêu chuẩn kiểm định giống và chất lượng trong nước cho đạt các tiêu chuẩn quốc tế do đó sẽ tránh được các khó khăn về xuất khẩu sau này. Thêm vào đó,trong xu thế hội nhập như hiện nay, việc hài hòa các biện pháp kiểm dịch thực vật nhằm phát triển thương mại Việt Nam chưa làm được nhiều nên rất cần hỗ trợ về kỹ thuật của các nước tiên tiến. Vì thế BQLDA trung ương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương và các đơn vị thưc hiện dự án để quán triệt các tiêu chuẩn kiểm định vào sản phẩm. - Dự án cần tập trung nguồn lực hạn chế của mình vào quy trình nhân giống được lựa chọn và hứa hẹn nhất chứ không thể và không nên cố gắng cung cấp hoặc thu xếp để cung cấp khoai tây giống cho toàn bộ diện tích trồng khoai theo kế hoạch của Bộ. Phương thức nhân giống hiện tại cũng cần được tiếp tục ví dụ như nhân giống trên cơ sở hợp đồng hợp tác với nông dân (hợp tác xã, nông dân ký hợp đồng, công ty giống cây trồng trung ương I). - Trong giai đoạn tới cần tiếp tục hoạt động dựa trên cơ sở hình mẫu hoặc thí điểm trên tất cả các cấp độ của dòng giống, tập trung vào nhân giống đã được chọn lọc và hứa hẹn có khả năng phát triển. Phương thức tiếp cận nhân giống trên cơ sở hợp đồng với nông dân cần được tiếp tục nhưng các hoạt động cần tập trung vào các hợp tác xã / xã được lựa chọn như trong khung thiết kế ban đầu. Các hoạt động khuyến nông cần tập trung vào nhân giống nhưng cần có đầy đủ các thông tin và tài liệu cụ thể hóa cho các đơn vị khuyến nông nhà nước và tư nhân. 2 kỹ thuật nhân nhanh RMT và nhân bằng hạt TPS cần được tiếp tục thực hiện song song. - BQLDA trung ương nên tập trung vào công tác quản lý chung như quản lý tiến độ, các báo cáo, giải ngân... thay vì can thiệp sâu vào chuyên môn của các đơn vị thực hiện. Khi cần thì có thể thuê các tư vấn kỹ thuật hoặc phối hợp với các đơn vị như trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương hay cục bảo vệ thực vật để được tư vấn. - Khi xác định các mục tiêu của dự án cũng như các chỉ tiêu đánh giá thì cần xem xét cả tới các mục tiêu dài hạn của ngành sản xuất khoai tây Việt Nam sau khi dự án kết thúc. Khi đó không còn vốn hỗ trợ của nước ngoài nữa thì liệu rằng các cơ sở nhân giống và các hộ sản xuất khoai thương phẩm có thể đáp ứng nhu cầu trong nước và cạnh tranh với khoai tây nhập khẩu hay không, liệu có cần có thể các chương trình hỗ trợ của nhà nước sau khi dự án kết thúc hay không... Điều này liên quan đến tính bền vững của dự án – một mục tiêu mà các nhà tài trợ luôn rất quan tâm khi thiết kế dự án. Tuy nhiên do tình hình thực tế không đạt được các mục tiêu như đã đề ra nên cần thay đổi lại các mục tiêu này cho phù hợp với giai đoạn 2. Ví dụ như có thể giảm quy mô số tỉnh tham gia dự án, tập trung tự chủ bằng nguồn giống sản xuất trong nước thay vì tăng diện tích trồng khoai thương phẩm... - Mặc dù việc tăng diện tích trồng khoai thương phầm, đưa sản xuất vào quy mô lớn, đại trà là một cách để làm hạ giá thành sản phẩm, tạo chỗ đứng trên thị trường và làm tăng tính bền vững của dự án nhưng trước mắt vẫn cần tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, dựa vào các hỗ trợ của nhà nước để duy trì giá thành ở mức chấp nhận được so với khoai tây nhập khẩu. Do đó cần tập trung vào một số vùng sản xuất trọng điểm để tiêu chuẩn hóa về chất lượng và phương pháp canh tác; ngoài ra cũng cần có các kiến nghị với chính phủ tiếp tục nâng cao các biện pháp hỗ trợ sản xuất trong nước như các biện pháp đánh thuế, kiểm dịch với sản phẩm nhập khẩu; hỗ trợ giá trong sản xuất khoai tây giống... - Dự án cần có thêm các nội dung về hỗ trợ nông dân tiếp thị và xây dựng hình ảnh, thương hiệu khoai tây sản xuất trong nước. Mặc dù ý tưởng về hiệp hội sản xuất khoai tây Việt Nam đang được thực hiện và hứa hẹn nhiều triển vọng song cũng không nên dựa hoàn toàn vào tổ chức này (vẫn đang chuẩn bị thành lập) và cần có các biện pháp hỗ trợ khác trong giai đoạn hiện nay như những gì mà dự án phát triển chè và cây ăn quả đã làm rất tốt. Trong dự án trước đã có riêng một hợp phần về thông tin thị trường và tổ chức các hoạt động tuyên truyền trên truyền hình, qua các hội thi, qua các trang web, tạp chí, lồng ghép vào các chương trình nông nghiệp khác với nội dung do các đơn vị thực hiện dự án đóng góp... đều là các gợi ý tốt cho dự án này. - Phối hợp với Bộ NN&PTNT xây dựng định hướng phát triển ngành sản xuất khoai tây để có thể có một định hướng dài hạn cho dự án cũng như cho cả ngành sản xuất khoai tây sau khi dự án kết thúc. Ngoài ra, đây cũng là một cách để Bộ NN&PTNT quan tâm hơn đến dự án; có các biện pháp, chủ trương cụ thể hỗ trợ ngành này và góp phần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với các chương trình khác như chiến lược nâng cao thể trạng của người Việt Nam hay chiến lược chuyển dịch cơ cấu cây nông nghiệp. Đối với dự án, việc biết được định hướng của Bộ sẽ giúp dự tính được các nguồn lực phân bổ cho ngành cũng như các chính sách có liên quan từ đó sẽ lập được các kế hoạch dài hạn với sự phối hợp của các đơn vị khác. Điều này là cần thiết đặc biệt trong bối cảnh dự án không còn kéo dài lâu nữa và chưa biết có được gia hạn tiếp hay không sau khi sử dụng hết nguồn vốn hỗ trợ từ phía Đức. Nếu chính phủ có dự định tiếp tục tài trợ cho dự án hoặc xây dựng một dự án mới hỗ trợ ngành này trong tương lai thì đây là thời điểm thích hợp để nghiên cứu và đưa ra quyết định. BQLDA trung ương cần phối hợp với Cục trồng trọt trước khi đưa ra đề xuất với Bộ NN&PTNT. - Theo kế hoạch, dự án phát triển sản xuất khoai tây sẽ kết thúc vào đầu năm 2010 nhưng các báo cáo giữa kỳ đã cho thấy đây là một dự án mang lại hiệu quả rõ rệt, làm tăng thu nhập cho các hộ nông dân trồng khoai tây thương phẩm nên cần tiếp tục kéo dài và mở rộng dự án, nghĩa là nên có thêm giai đoạn 3 vào năm 2010 với mục tiêu là phổ biến công nghệ mới (phương pháp nhân giống nhanh RMT và nhân giống bằng hạt lai TPS) cho các tỉnh khác ở miền Bắc. - Ngoài ra, với dự án phát triển chè và cây ăn quả, ADB nên xem xét tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong thị trường chè quả cũng như sản xuất các nguyên liệu trồng trọt hướng tới khách hàng đối với thị trường trong và ngòai nước. Những nghiên cứu thị trường nên tập trung hỗ trợ cho các dự án tương tự tiếp theo. Những nghiên cứu thị trường sẽ một vai trò quan trọng cho các họat động dự án các khu vực phát triển chè và cây ăn quả, xác định nguyên liệu canh tác phù hợp, các công nghệ chế biến và xử lý sau thu hoạch cũng như các họat động phi tín dụng khác, từ đó tiếp tục phát triển hơn nữa ngành sản xuất này ở Việt Nam. Lập kế hoạch - Do trong giai đoạn 2, dự án đã chuyển mục tiêu từ việc tập trung vào các chỉ tiêu sản xuất (khối lượng khoai tây giống sản xuất được, tăng diện tích, năng suất...) sang các tiêu chí hướng về người hưởng lợi cuối cùng (tăng thu nhập, tăng tỷ trọng thu nhập từ sản xuất khoai tây) nên lĩnh vực can thiệp của dự án cũng cần thay đổi. Cụ thể là cần can thiệp vào khía cạnh khuyến nông với các hoạt động như các chương trình hỗ trợ chuyển đổi giống cây trồng; phổ biến các phương pháp chống xói mòn đất, chống bạc màu, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; thành lập các tổ, hợp tác xã, hội nông dân trồng khoai tây và đặc biệt là chú trọng tới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để có thể làm được việc này thì cần nhanh chóng phối hợp với các cơ quan kiểm dịch để ban hành quy định chi tiết về chất lượng khoai tây thương phẩm cũng như thắt chặt kiểm dịch tại cửa khẩu nhằm ngăn chặn khoai nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra, do trọng tâm không phải là nghiên cứu và phát triển giống trong nước nên cần xem xét và cân nhắc khả năng tiếp tục nhập những giống mới từ nước ngoài. Giải pháp này tuy làm sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguồn giống nhập ngoại nhưng có thể giúp nhanh chóng phát triển thị phần khoai tây trong nước, tạo thói quen tiêu dùng trong bối cảnh sản xuất giống trong nước thiếu hụt xa so với nhu cầu sản xuất khoai thương phẩm. Ngoài ra trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thì việc lệ thuộc giữa các nền kinh tế là tất yếu, nếu có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp thì rủi ro sẽ có thể được giảm bớt. - Cần đẩy sớm thời gian lập kế hoạch để có thể hoàn thành sớm bản kế hoạch hoạt động cho năm sau và gửi cho bộ Tài Chính, tổ chức tài trợ vốn từ đó có thể sớm được phê duyệt và cấp vốn hoạt động cho các tháng đầu năm. Điều này có thể hạn chế được tình trạng chờ vốn trong những tháng đầu năm tài chính như hiện nay và tạo điều kiện cho các nhà thầu tiếp tục thi công. Để có thể đẩy nhanh quá trình này thì trước hết cần có sự phối hợp của các đơn vị cấp tỉnh mà chủ yếu là các BQLDA tỉnh. Các sơ thảo kế hoạch hoạt động cho năm sau cần được CPMU soạn trước dựa trên nguồn lực dự kiến phân bổ cho các tỉnh, sau đó gửi cho các tỉnh từ sớm để có thể kịp thời bổ sung và chỉnh sửa trước khi gửi lại cho CPMU điều phối lại cho phù hợp với tổng nguồn lực của dự án. - Để thực hiện tốt công tác cung cấp thông tin thị trường cũng như các kỹ thuật canh tác cho các nông hộ cần công khai các tiêu chuẩn chất lượng của khoai tây giống, phối hợp với các cơ quan khác thì cần có kế hoạch xây dựng trang thông tin điện tử riêng với các thông tin cập nhật không chỉ về dự án mà còn về dự báo thị trường, các quy định pháp luật về chất lượng khoai thương phẩm. Đây là hình thức thông tin ít được chú ý, đặc biệt là trong các dự án nông nghiệp do khả năng tiếp cận của nông dân còn hạn chế. Tuy nhiên xét về lâu dài thì đây là hình thức có hiệu quả và tiết kiệm nhất do đó cần giao cho một cơ quan trung ương có đủ thông tin bao quát, chuyên trách về việc xây dựng và cập nhật thông tin cho trang web. Chức năng này có thể giao cho hiệp hội sản xuất khoai tây. Theo kế hoạch dự án thì hiệp hội này lẽ ra đã được thành lập từ đầu 2009 nhưng do nhiều lý do nên đã bị trì hoãn. Tuy nhiên sự hiện diện của hiệp hội là cần thiết do đó BQL cần xúc tiến việc thành lập (dự kiến là cuối 2009) và có kế hoạch cụ thể về nhiệm vụ của hội cũng như các biện pháp hỗ trợ cho hoạt động của hội trong giai đoạn đầu thành lập. - Giảm thiểu tác động tới môi trường: Ảnh hưởng của dự án về quản lý nguồn nước và đa dạng sinh học sẽ phải giảm thiểu bằng cách hạn chế việc mở rộng vườn cây ăn quả đến các vùng đất trống. Để khẳng định rằng việc quy hoạch các vườn quả mới sẽ không gây ra ảnh hưởng xấu tới môi trường, công cuộc kế hoạch môi trường và sử dụng đất cần phải được tổ chức cho những cơ quan quy hoạch đất các tỉnh và các khoản tín dụng sẽ không cấp vốn cho các dự án sử dụng đất rừng để trồng cây ăn quả. Quản lý chất lượng - Về quản lý chất lượng khoai tây giống: Cần áp dụng các tiêu chuẩn WTO vào quy trình đăng ký, kiểm định chất lượng giống. Để làm được việc này cần có sự phối hợp với các cơ quan đăng kiểm và cấp chứng nhận cũng như các Bộ có liên quan. Các quy định cần chi tiết hóa bằng việc ban hành các nghị định hướng dẫn thực hiện và áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Các quy định và tiêu chuẩn này cần được công bố rộng rãi và phải có hỗ trợ để các đơn vị nhân giống cũng có thể tự kiểm tra, kiểm định chất lượng giống mà mình sản xuất ra chứ không phải chỉ có các trung tâm khảo-kiểm nghiệm giống cây trồng mới có trang bị và nhân lực để làm công tác này như hiện nay. Điều này có nghĩa là cần phải có các đợt tập huấn về lấy mẫu, xét nghiệm, cung cấp thiết bị thí nghiệm cho các đơn vị nhân giống. Có như vậy thì mới có thể hướng tới sự phát triển bền vững sau khi dự án kết thúc. - Vì sản xuất khoai tây là một ngành còn tương đối mới nên các tiêu chuẩn chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giấy chứng nhận chất lượng nhình chung còn cần được bổ sung nhiều thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu phân loại sản phẩm chất lượng cao, an toàn với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Do đó BQLDA trung ương cần yêu cầu các viện nghiên cứu, trung tâm khảo kiểm nghiệm nhanh chóng hoàn thiện các định mức cần thiết và đề nghị lên Cục tiêu chuẩn đo lường Việt Nam ban hành các văn bản pháp quy quy định rõ tiêu chuẩn chất lượng và giấy chứng nhận chất lượng cho khoai thương phẩm và khoai tây giống. Đây là điều kiện quan trọng để có thể xây dựng thương hiệu và quảng bá hình ảnh khoai tây sản xuất trong nước. - Dựa trên các tiêu chuẩn đó cần tăng cường việc kiểm dịch ở biên giới nhằm hạn chế khoai tây giống và vật liệu trồng chất lượng thấp nhập khẩu từ Trung Quốc, hỗ trợ cho việc sản xuất giống trong nước. Tuy nhiên cần chú ý đơn giản hóa các thủ tục kiểm dịch để có thể rút ngắn thời gian lưu lại ở biên giới, tránh tình trạng chất lượng giống bị giảm sút, tỷ lệ thối hỏng cao do bị lưu lại kiểm dịch vì trong vài năm tới sản xuất trong nước vẫn phải dựa vào việc nhập khẩu khoai tây giống từ nước ngoài mà chủ yếu là từ Trung Quốc. - Để phổ biến kỹ thuật canh tác một cách hiệu quả hơn thì ngoài việc tập trung vào các khóa tập huấn kỹ thuật cho nông dân thì còn cần chú trọng biên soạn lại và phổ biến các quyển sổ tay kỹ thuật với sự góp ý của không chỉ các chuyên gia của Đức, các chuyên gia thuộc các viện nghiên cứu, vụ khoa học, các trường đại học mà còn của cục bảo vệ thực vật, các cơ sở khuyến nông tỉnh. Các ý kiến đóng góp của các đơn vị này được đánh giá là sát với thực tế và phù hợp với điều kiện của từng tỉnh do đó rất cần sự tham gia của họ vào việc biên soạn lại các quyển sổ tay này. Trong quá trình biên soạn cần tổ chức nhiều buổi hội thảo với sự góp mặt của các đơn vị kể trên cùng đóng góp ý kiến. Dựa vào các sổ tay này, định kỳ có thể tổ chức đánh giá và xếp loại các cánh đồng/hợp tác xã đồng thời cấp chứng chỉ chất lượng cho các hộ nông dân. - Cần chú trọng hơn nữa vào việc kiểm định và tiêu chuẩn hóa các nguồn cung cấp giống được sản xuất trong nước thay vì tập trung vào nâng cao số lượng giống được sản xuất hàng năm. Mặc dù hiện này sản xuất giống chưa đáp ứng đủ về số lượng cho sản xuất trong nước và vẫn phải nhập khẩu nhưng thực tế cho thấy chất lượng giống sản xuất trong nước chưa đồng đều cộng với kỹ thuật canh tác của các hộ dân còn yếu nên nếu không kịp thời chấn chỉnh chất lượng nguồn giống thì sẽ không thể xây dựng được thương hiệu, không thể nâng giá bán, không tạo ra hiệu quả kinh tế rõ rệt và vì thế không thể cạnh tranh với khoai tây nhập khẩu, không thể nhân rộng mô hình sản xuất ra các tỉnh khác. Như vậy dự án sẽ không có tính bền vững và ngành sản xuất khoai tây sẽ không phát triển được sau khi dự án kết thúc và không còn hỗ trợ gì từ nước ngoài hay từ phía nhà nước. - Cần có biện pháp giảm chi phí kiểm định và kiểm nghiệm như tăng thêm số cơ sở kiểm định, nhà nước tiếp tục hỗ trợ một phần cho các đơn vị này thay vì buộc các đơn vị nghiên cứu khoa học tự hạch toán độc lập theo lộ trình hiện nay hoặc có thể cân nhắc khả năng cấp phép cho các đơn vị tư nhân được thực hiện công tác này. - Để có thể nâng cao nhận thức của các hộ nông dân về việc sử dụng khoai tây giống sạch bệnh và ý thức sử dụng giống xác nhận cần trình bày thêm về hiệu quả kinh tế của các phương pháp sản xuất mới này với các ví dụ thực tiễn từ các địa phương khác trong các buổi tập huấn về kỹ thuật sản xuất. Tuy vậy về lâu dài vẫn cần tập trung giảm chi phí sản xuất cũng như kiểm nghiệm, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá bán thì mới có thể tạo ra hiệu quả kinh tế rõ rệt từ việc sử dụng giống sạch bệnh và tạo động lực thực sự cho các hộ nông dân. Quản lý nhân lực - Vì việc dự tính, lập kế hoạch tuyển dụng chuyên viên kỹ thuật và tư vấn hỗ trợ cho BQLDA trung ương là khó chính xác, thường thì số lượng, mức lương, phụ cấp của các nhân sự này do nhu cầu thực tế phát sinh nên không khớp với thiết kế ban đầu của dự án dẫn đến phải làm thủ tục xin cấp vốn với rất nhiều bước phức tạp làm chậm tiến độ. Vì thế, để có thể tạo ra sự linh hoạt thì không nên dự tính và cố định ngân sách cho các chuyên vên tạm thời hỗ trợ BQLDA. Có thể tích hợp chi phí này vào khoản chi phí tư vấn hoặc QLDA khi dự tính kế hoạch ngân sách. Đến khi có thực chi thì BQLDA có thể tự điều tiết để cân đối các khoản chi này. - Vì với mỗi dự án có một nhà tài trợ khác nhau nên yêu cầu về quản lý tài chính-giải ngân cũng khác nên BQLDA trung ương cần “đi trước” tìm hiểu các quy định này để có thể quán triệt cho các đơn vị thực hiện, đặc biệt là khi 2 dự án này do 2 đơn vị tài trợ vốn khác nhau với những yêu cầu về quản lý tài chính cũng khác nhau. Đây là việc cần làm ngay từ khi dự án bắt đầu triển khai để có thể có một hệ thống báo cáo tài chính thống nhất và đạt tiêu chuẩn. Do đó nên có các chính sách đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ dự án bên cạnh các chính sách khuyến khích, động viên, tạo công ăn việc làm ổn định cho các cán bộ dự án trước và sau dự án để ngày càng có nhiều cán bộ đủ năng lực tham gia điều hành các dự án. - Ngoài ra, một phần nguyên nhân của tình trạng chậm giải ngân là do các các bộ ở các cấp trung ương và không trực tiếp quản lý việc thực hiện dự án như Bộ Tài Chính, Bộ NN&PTNT. Các đơn vị này không thường xuyên quản lý dự án nên không nắm rõ về nhu cầu thực tế cũng như các khó khăn mà dự án gặp phải nhưng lại tham gia vào những phần việc rất quan trọng là phê duyệt các khoản chi và thay đổi thiết kế dự án. Trong khi đó các khoản chi và việc thay đổi thiết kế dự án nông nghiệp là rất lắt nhắt, có nhiều phát sinh không lường trước được nên nếu không nắm rõ về dự án thì sẽ rất khó biết được các khoản mục đó có hợp lý hay không. Nếu chỉ dựa vào các báo cáo của các BQLDA gửi lên thì vai trò và ý kiến chủ quan của các đơn vị này là không đáng kể. Hơn nữa, các dự án đều có đặc thù riêng nêu nếu có thể nâng cao hiểu biết của các cán bộ chuyên viên tại các đơn vị này thì sẽ tạo điều kiện rất lớn cho việc rút ngắn thời gian trình duyệt, nhờ đó tăng cường giải ngân của dự án. Do đó việc đào tạo tăng cường năng lực cũng nên được thực hiện đối với các cán bộ tại các cơ quan trung ương làm nhiệm vụ theo dõi và duyệt các dòng chi về tài chính kế toán của dự án (các cán bộ của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Vụ tham gia quản lý tài chính của Bộ chủ quản dự án, ...). Có như vậy thì tình trạng chậm giải ngân phổ biến hiện nay mới có thể được khắc phục. - Mặc dù hiện nay dự án có sự giúp đỡ của các chuyên gia kỹ thuật của Đức nhưng cũng cần có kế hoạch đào tạo chuyên sâu cho một số cán bộ chủ chốt để có thể nắm bắt được các bí quyết kỹ thuật, tiếp tục hỗ trợ cho ngành sản xuất khoai tây sau khi các chuyên gia này về nước hoặc sau khi dự án kết thúc. Đây là một điều kiện quan trọng để dự án có thể đạt được sự phát triển bền vững sau này. - Cần cập nhật và chỉnh sửa các tài liệu kỹ thuật về gieo trồng khoai tây thương phẩm do trong giai đoạn 1 đã sử dụng thêm một số giống mới và dự định sẽ áp dụng thí điểm tại 2 tỉnh miền bắc. Ngoài ra cũng cần điều chỉnh tài liệu cho phù hợp với điều kiện sản xuất từng vùng dựa trên thực tế rút ra từ giai đoạn 1. - Để có thể tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào QLDA thì cần tăng cương đào tạo, tập huấn cho các cán bộ, đặc biệt là các cán bộ tỉnh về kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm, quản lý cơ sở dữ liệu. Đây là các nội dung tương đối khó cho việc đào tạo vì đòi hỏi thời gian tập huấn tương đối dài, nội dung phải cập nhật và có tính ứng dụng cao tại từng địa phương, ngoài ra do trình độ và các hiểu biết cơ sở về tin học của các cán bộ QLDA tỉnh không đồng đều dẫn đến việc áp dụng một giáo trình chuẩn chung là khó đạt được. Tuy vậy lợi ích mà công nghệ thông tin mang lại là rất lớn nên vẫn cần có các nội dung này trong các đợt đào tạo, tập huấn. Vì thế các khóa đào tạo cần tập trung hơn nữa cho nội dung này. - Nội dung của các khóa tập huấn cho nông dân cũng cần đề cập đến các biện pháp canh tác ít ảnh hưởng tới môi trường, chống bạc màu đất, chống xói mòn, sử dụng phân bón hợp lý... vì các mục tiêu về môi trường đươc nhấn mạnh trong thiết kế ban đầu cảu dự án và cũng là một mối quan tâm của tổ chức tài trợ. - Rút kinh nghiệm từ dự án chè-quả, các chương trình đào tạo, chuyến thăm quan học tập nên được thiết kế nhằm hỗ trợ thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, tuy phân cấp thực hiện cho tỉnh nhưng Ban quản lý dự án Trung ương cũng nên xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá, tiến hành các đoàn công tác theo dõi kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của các đợt tập huấn cần tổ chức các khóa đào tạo tập trung, thời gian dài hơn so với hiện tại để có thể truyền tải kiến thức một cách có hệ thống và liên tục đặc biệt là các đợt tập huấn về kỹ năng kế toán-tài chính cho các cán bộ dự án tại tỉnh. - Ngoài ra để có thể nâng cao chất lượng nhân lực tại các BQLDA tỉnh thì cần có chính sách đào tạo, phát triển nhân lực dài hạn. Ở CPMU và các cấp quản lý trung ương khác thường được cấp kinh phí để đào tạo cán bộ một cách bài bản, lấy bằng cấp ở nước ngoài. Điều này không những trực tiếp nâng cao trình độ của các cán bộ đó mà còn tạo ra sức hấp dẫn để thu hút những người trẻ, có năng lực vào làm việc cho các cơ quan này ngay cả khi mức lương chưa thực sự hấp dẫn. Ở cấp tỉnh, mặc dù không thể có ngân sách để cho các bộ đi đào tạo nước ngoài nhưng cũng có thể cấp ngân sách để đào tạo dài hạn, chính quy trong nước. Các cán bộ được đi đào tạo sẽ không nhiều và phải đạt các tiêu chí về năng lực làm việc, kinh nghiệm với dự án... và đó cũng là động lực để họ phấn đấu đóng góp cho dự án và đồng thời cũng sẽ là nguồn nhân lực quý báu cho tỉnh về sau. Kết luận Công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp luôn là một công việc khó khăn. Tuy nhiên BQLDA phát triển chè và cây ăn quả đã có nhiều cố gắng nhằm hoàn thiện quy trình này thông qua việc thực hiện hai dự án “phát triển chè và cây ăn quả„ và “phát triển sản xuất khoai tây„. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực như thực hiện tốt công tác đánh giá dự án, phối hợp với các đơn vị khác, cải cách thể chế, tổ chức các khóa đào tạo... tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt còn hạn chế như tiến độ các dự án và tốc độ giải ngân vốn còn chậm, thủ tục quản lý tài chính chưa được cải thiện nhiều, công tác lập kế hoạch chưa chi tiết... Hy vọng rằng với một số kiến nghị và giải pháp mà bài luận chuyên đề đưa ra có thể góp phần hoàn thiện thêm công tác quản lý dự án tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả. Xin chân thành cảm ơn những góp ý quý báu của các thầy cô giáo và các bạn trong quá trình viết bài luận này. Xin cảm ơn! Tài liệu tham khảo Quyết định số: 103/2001/QĐ-BNN Ngày 11 tháng 10 năm 2001 của bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành quy chế tổ chức và thực hiện Dự án Phát triển chè và cây ăn quả Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án phát triển chè và cây ăn quả - BQLDA trung ương tháng 12/2004 Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả - ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Các phụ lục và bảng biểu của báo cáo đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ Tài liệu thẩm định dự án phát triển sản xuất khoai tây – Bộ NN&PTNT Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 1 dự án phát triển sản xuất khoai tây – BQLDA trung ương tháng 12/2008

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2686.doc
Tài liệu liên quan