Kinh tế toàn cầu hiện đang trong khủng hoảng, chuyển dịch từ giai đoạn
phát triển ổn định sang giai đoạn rất bất ổn khi khurngg hoảng tài chính
bắt nguồn ở các nước giàu có đã làm rung chuyển các thị trường tài chính
toàn cầu. Các thị trường hàng hóa cũng chao đảo dữ dội từ mức giá rất cao
trong năm 2007 và đã rơi mạnh, giá cả nhiều loại hàng hóa giảm tới hơn
một nửa vào nửa đầu năm 2008.
Tuy nhiên, mặc dầu các chỉ số kinh tế đều xấu, dự báo chi tiêu cho nghiên
cứu và phát triển (NCPT) trong năm 2009 sẽ đạt 1.143,2 tỷ USD, cao hơn
3,2% so với năm 2008. Phần lớn tăng trưởng toàn cầu này là do sự mở
rộng tiếp tục NCPT ở châu Á, mặc dù sự tăng trưởng NCPT trong vùng
địa lý này cũng bị những tác động toàn cầu.
Các quốc gia vẫn tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu KH&CN và đưa ra những
ưu đãi khuyến khích NCPT nhằm nâng cao năng lực đổi mới của quốc gia.
Do các cơ hội thị trường toàn cầu tăng lên và tài năng kỹ thuật trở nên
rộng khắp hơn, nên đã xuất hiện xu hướng hợp tác trong các chương trình
nghiên cứu và sử dụng tài năng ở nước ngoài để hỗ trợ các hoạt động sản
xuất, tiếp thị và bán hàng trong nước.
Để giúp bạn đọc có thêm thông tin trong bối cảnh thế giới diễn ra nhiều sự
thay đổi nhanh, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia
xin giới thiệu Tổng luận “Triển vọng kinh tế, phát triển khoa học và công
nghệ thế giới” nhằm phản ánh tình hình kinh tế và những xu thế phát triển
khoa học và công nghệ toàn cầu.
Nội dung tổng luận này được biên soạn dựa trên số liệu của các báo cáo
và những nghiên cứu phân tích của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế và các tổ chức nghiên cứu và phát triển có uy tín trên
thế giới.
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Triển vọng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00 tỉ USD
năm 2008 – vượt trội hơn hẳn so với sự phát triển của các nước nhỏ hơn). Giá dầu ước
tính giảm 26% và giá các hàng hóa khác giảm 23% sẽ làm thay đổi các điều khoản
thương mại có lợi cho các nước nhập khẩu thực phẩm và dầu, sau một khoảng thời
gian ít nhất 5 năm bị thất thoát liên tục. Đối với các nước đang phát triển xuất khẩu
dầu, nhu cầu giảm trên toàn thế giới sẽ làm giảm cả giá dầu và khối lượng hàng xuất
khẩu (dự tính sẽ giảm từ 5,1% năm 2008 xuống còn 0,3% năm 2009) và thặng dư tài
khoản vãng lai sẽ giảm từ mức đỉnh điểm 6,4% GDP năm 2008 xuống 1,4% năm
2009. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước đang phát triển xuất khẩu
cả dầu và thực phẩm giảm còn một nửa, từ mức đỉnh điểm 8,1% GDP năm 2008
xuống 4,3% năm 2009, do giá hàng hóa thấp hơn và khối lượng hàng hóa nhập khẩu
giảm mạnh từ 8,1% năm 2008 xuống 1,5% năm 2009. Tác động tới sự phát triển toàn
cầu này cần phải được giải quyết vào năm 2010 khi giá dầu đi vào ổn định, giá của các
mặt hàng khác chỉ giảm 4,3% và thương mại thế giới bắt đầu hồi phục.
Khủng hoảng tài chính là nguyên nhân chính dẫn đến những biến đổi bất thường
của tỉ giá hối đoái trong suốt mùa thu năm 2008. Hầu hết các đồng tiền trên thế giới
đều mất giá so với đồng USD Mỹ và đồng yên Nhật, điều này phản ánh khu vực đầu tư
an toàn ở Mỹ. Chứng khoán kho bạc, sự đảo chiều của đồng yên nhờ các hoạt động
thương mại và chính sách tháo đòn bẩy của các ngân hàng, các công ty và các nhà đầu
tư. Không đồng tiền của nước đang phát triển nào được đánh giá cao so với đồng USD
hơn 0,5% trong suốt thời kỳ này. Trung bình, đồng tiền của các nước đang phát triển
đã giảm 15% so với đồng USD, và đồng tiền của nước có thu nhập cao cũng bị mất giá
(trừ Nhật Bản). Nói chung tình hình cạnh tranh của Mỹ, Nhật và Trung Quốc và những
nước có đồng tiền ổn định so với đồng USD cũng sẽ suy giảm; cạnh tranh với các
nước có đồng tiền bị sụt giá sẽ được cải thiện trên những thị trường này. Kết quả là,
việc thúc đẩy mạnh mẽ cho xuất khẩu ròng mang lại tăng trưởng cho Mỹ có vẻ yếu đi,
đồng thời xuất khẩu ròng sẽ hỗ trợ cho việc phục hồi tăng trưởng của nhiều nước đang
phát triển.
1.6. Các thị trường hàng hóa
Giá cả hàng hóa – có xu hướng tăng cao hơn kể từ năm 2003 – tiếp tục tăng mạnh
từ năm 2007 tới nửa đầu năm 2008. Đến giữa tháng 11, giá cả giảm mạnh, xóa bỏ tình
hình giá cả tăng cao của những tháng đầu năm 2008. Việc giảm giá bất ngờ này phản
ánh phản ứng truyền thống của thị trường hàng hóa đối với sự tăng trưởng chậm chạp
trên toàn thế giới tại thời điểm của sự bùng nổ khủng hoảng, sự suy giảm này bị thổi
phồng và càng mạnh hơn do khủng hoảng tài chính. Vào mùa hè năm 2008, giá năng
lượng tăng hơn 80% tính bằng đồng USD so với một năm trước, trong khi giá hàng
hóa khác chỉ cao hơn 35%.
Hầu hết tất cả giá cả hàng hóa khác ngoài giá năng lượng tăng lên trong suốt năm
2008 là ngũ cốc (hơn 60%), chất béo và dầu (hơn 34%) và phân bón (hơn 140%). Giá
21
kim loại, đã tăng mạnh từ năm 2003 tới năm 2008, đạt mức tăng đỉnh điểm 8% trong 6
tháng đầu năm 2008. Hầu hết giá các loại hàng hóa đều đạt mức cao nhất vào đầu và
giữa năm 2008, và tất cả các mặt hàng này lại giảm mạnh kể từ giữa năm. Giá dầu thô
giảm từ 143 USD/thùng vào đầu tháng 7 xuống dưới mức 50 USD/thùng vào giữa
tháng 11. Giá dầu thô giảm là do sự suy giảm cầu ở các nước thành viên OECD, việc
đánh giá cao đồng USD và do những vấn đề trong triển vọng về cầu ngay sau khi xảy
ra khủng hoảng tài chính. Giá dầu thô giảm mạnh cũng là nhân tố góp phần đáng kể
trong sự suy giảm giá cả của các mặt hàng khác bởi vì những thị trường này ngày càng
liên kết chặt chẽ với nhau thông qua chi phí sản xuất và sự phát triển của nhiên liệu
sinh học.
1.6.1. Sự suy giảm cầu của các nước có thu nhập cao dẫn tới giảm giá dầu
Nhu cầu dầu mỏ của các nước OECD đã giảm trong vòng 3 năm qua, chủ yếu là ở
Mỹ, điều này được phản ánh bởi hoạt động kinh tế phát triển chậm chạp và các tác
động của giá xăng dầu tăng cao làm tiêu dùng suy yếu. Cầu về dầu của Mỹ giảm 5,6%
trong suốt 10 tháng đầu năm 2008. Tiêu thụ xăng cũng giảm 3% khi người tiêu dùng
hạn chế đi lại và bắt đầu chuyển sang những phương tiện tiết kiệm năng lượng hơn.
Nhu cầu dầu cũng giảm ở châu Âu. Nói chung nhu cầu của các nước OECD dự tính
giảm hơn 2,2% trong suốt năm 2008 và gần 2% năm 2009. Cầu về xăng dầu ở các
nước đang phát triển và các thị trường mới nổi tiếp tục tăng khoảng 4%, nhu cầu lớn
nhất là ở châu Á và Trung Đông. Nhu cầu của khu vực Trung Đông cho tới gần đây
được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ở một số nước có trợ cấp đối với
nhiên liệu và do đó giá cả tiêu dùng thấp.
Các nhà sản xuất OPEC - miễn cưỡng phải tăng đáng kể sản lượng trong suốt giai
đoạn giá cả tăng vào nửa đầu năm 2008 - đã tăng cường sản xuất vào giữa năm, chủ
yếu ở Ả rập Xê-út, khi đơn phương đồng ý đẩy mạnh sản lượng vào tháng 6 lên 0,5
triệu thùng/ngày. Sản lượng của I-rắc lần đầu tiên đạt 2,5 triệu thùng/ngày kể từ năm
2001 do những cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng giảm xuống. Tuy nhiên, sự gia tăng
sản lượng ở khu vực vùng Vịnh một phần được bù đắp bởi sự suy giảm ở Nigiêria, nơi
xung đột dân sự tiếp tục ngăn cản khả năng cung ứng dầu khối lượng lớn.
Phản ứng về lượng cung ở các nước ngoài OPEC rất đáng thất vọng. Tuy nhiên,
cung cấp dầu mỏ của các nước ngoài OPEC bắt đầu tăng về số lượng tại một số khu
vực và dự tính sẽ tăng lên trong nửa cuối năm 2008 và trong suốt năm 2009-10.
Kết quả là nhu cầu giảm nhưng cung lại tăng, giá dầu dự đoán đạt trung bình
75USD/thùng trên danh nghĩa trong giai đoạn 2008-2010, phản ánh giá dầu giảm thực
sự hơn 30%.
1.6.2 Giá nhiều kim loại giảm sau khi nhu cầu thu hẹp lại
Giá của nhiều kim loại đã sụt giảm trong những tháng gần đây do sự tăng trưởng
chậm chạp trên toàn thế giới và triển vọng cung được cải thiện. Giá niken giảm hơn ba
phần tư từ mức cao nhất năm 2007, một phần là do những khó khăn trong các lĩnh vực
sản xuất ô tô và xây dựng. Giá cả giảm dưới mức chi phí cận biên của các nhà sản xuất
22
chi phí cao, và một số nhà máy phải đóng cửa và các dự án mới phải hoãn lại hoặc
phải xem xét lại. Giá kẽm cũng giảm gần bằng niken tính theo tỉ lệ phần trăm. Giá chì
giảm hơn 60% khi tình hình cung ứng tăng lên. Giá của các loại kim loại này dự tính
sẽ giảm hơn nữa khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Đồng là một trong số ít kim loại có giá vẫn duy trì ở mức cao trong suốt nửa đầu
năm 2008 mặc dù nhu cầu có giảm đi, lượng cung lớn giảm do tình trạng đình công ở
khu vực Mỹ Latinh và các nguồn cung mới chậm đi vào hoạt động so với tiến độ giữ
cho giá đồng duy trì ở mức cao. Tuy nhiên giá đồng đã sụt giảm vào nửa cuối của năm
2008 vào thời điểm khủng hoảng tài chính và của môi trường kinh tế toàn cầu yếu
kém. Nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc kém hơn trong năm 2008 và tốc độ xây
dựng nhà ở trên toàn thế giới chậm lại góp phần to lớn trong sự suy giảm nhu cầu này.
Tuy nhiên, giá cả vẫn duy trì ở mức cao hơn chi phí sản xuất và dự đoán sẽ tiếp tục
giảm mạnh tới năm 2010 khi các nguồn cung mới tiếp tục được bổ sung.
Nhôm – một trong những kim loại chính có giá không thay đổi trong suốt thời kỳ
gần đây do tăng năng suất ở Trung Quốc – trở nên đắt đỏ hơn trong giai đoạn hiện nay
do nhu cầu trên thế giới vẫn cao và chi phí điện tăng, đây là một nguồn đầu vào chính
trong quá trình sản xuất nhôm. Tương lai giá nhôm phụ thuộc lớn vào tốc độ đầu tư
vào các nguồn cung mới (đặc biệt ở Trung Quốc và Trung Đông), cũng như mức chi
phí năng lượng và việc bãi bỏ điều tiết trên các thị trường năng lượng. Dù nguồn cung
mới tập trung ở những khu vực có các nguồn năng lượng chi phí thấp, chẳng hạn như
khu vực Trung Đông, ít có khả năng giá nhôm sẽ giảm bởi vì giá nhôm hiện đang dao
động ở phần trên của đường chi phí.
Tóm lại, chỉ số giá kim loại và khoáng sản dự tính sẽ giảm 25% vào năm 2009 và
giảm thêm 5% vào năm 2010 so với năm 2008.
1.6.3. Giá cả hàng nông nghiệp giảm mạnh từ mức đỉnh
Giá thực phẩm buôn bán trên thị trường quốc tế tính theo đồng USD đã tăng gần
60% trong nửa đầu năm 2008, các mặt hàng cơ bản như ngũ cốc và hạt có dầu có tốc
độ tăng mạnh nhất. Giá lúa mì tăng hơn gấp đôi, từ 200USD lên 440USD/tấn trong
khoảng thời gian từ tháng 3/2007 tới tháng 3/2008 trong khi giá gạo tăng gần gấp ba
trong bốn tháng tính đến tháng 4/2008. Giá dầu cọ và dầu nành tăng 44% từ năm 2007
đến năm 2008. Sau đó giá cả đã giảm mạnh, chẳng hạn như giá lúa mì giảm xuống gần
240USD/tấn vào tháng 11/2008. Kể từ mức đỉnh cao vào tháng 4/2008, giá ngũ cốc
giảm hơn 30%. Mức đỉnh của giá gạo diễn ra vào tháng 4 và tháng 5 năm 2008 do lo
ngại về nguồn cung gạo trên thế giới không đủ và lệnh cấm xuất khẩu gạo. Những lo
ngại này đã giảm đi, khiến giá giảm từ gần 1000USD xuống 550USD/tấn vào tháng
11/2008. Lệnh cấm xuất khẩu trước đây được nhiều quốc gia dỡ bỏ hoặc được lách
qua bằng các hiệp định song phương. Chẳng hạn như Ai Cập đã dự trữ được 7 triệu tấn
gạo trong suốt thời kỳ diễn ra lệnh cấm xuất khẩu, dự kiến sẽ chấm dứt sớm việc cấm
xuất khẩu. Tương tự như vậy, Ấn Độ cũng cho phép xuất gạo không phải là gạo
basmati tới 4 nước châu Phi.
23
Giá hạt có dầu cũng giảm mạnh. Giá dầu cọ trung bình thấp hơn 480 USD/tấn vào
tháng 11/2008, giảm từ mức 1250 USD/tấn vào tháng 3/2008. Sự giảm giá cũng xảy ra
tương tự ở hầu hết các mặt hàng dầu ăn khác (dầu nành giảm từ 1475 USD xuống còn
835 USD/tấn và giá dầu dừa giảm từ 1470 USD xuống còn 705 USD/tấn trong giai
đoạn này). Sự sụt giảm giá dầu ăn không chỉ phản ánh tốc độ tăng trưởng chậm chạp
của nền kinh tế mà còn phản ánh dư cung và có thể cả áp lực đang tăng lên tại châu Âu
(EU) trong việc giảm bớt sản xuất nhiên liệu sinh học - hầu hết nhiên liệu sinh học của
EU là dầu diesel sinh học, có nguyên liệu từ dầu hạt cải, một loại dầu thay thế gần gũi
với dầu cọ và dầu nành.
Giá cao su cũng bắt đầu giảm nhẹ vào tháng 7 và tháng 8/2008, đây là một tín hiệu
không đáng ngạc nhiên bởi vì giá cao su giảm theo giá dầu thô (cao su tổng hợp làm từ
dầu hỏa). Các dấu hiệu giảm giá cũng nhận thấy ở ngành đồ uống, với giá ca-cao giảm
từ 3 USD/kg vào tháng 6/2008 xuống còn 2 USD/kg vào tháng 11. Các mặt hàng nông
sản khác, đặc biệt là nguyên liệu thô và một số loại thực phẩm chẳng hạn như chuối và
đường giảm giá ít hơn bởi vì giá của các mặt hàng này trước đó không tăng mạnh và
các mặt hàng này không liên quan nhiều tới giá năng lượng.
Giá phân bón tăng mạnh nhất trong số tất cả các hàng hóa trong năm 2008 với chỉ
số giá tăng 116% từ tháng 1 đến tháng 8/2008; giá tăng là do sự kết hợp nhu cầu tăng
mạnh (cùng với giá các mặt hàng nông sản trồng trọt tăng cao), năng lực sản xuất bổ
sung hạn chế, chi phí sản xuất cao hơn do giá năng lượng cao, và thuế xuất khẩu của
Trung Quốc để đảm bảo nguồn cung trong nước. Chẳng hạn như giá phân lân (DAP)
tăng gần 110% từ tháng 1 đến tháng 8/2008 trong khi giá phân u-rê tăng gấp đôi chỉ
trong 4 tháng (12/2007 đến 4/2008). Tuy nhiên, giá dầu thô và giá ngũ cốc giảm cùng
với lượng cầu ít đi đang có tác động tới giá phân bón. Chẳng hạn như phân u-rê giảm
xuống 250USD/tấn (mức thấp nhất trong vòng 2 năm) trong khi giá phân lân trung
bình đạt mức dưới 650USD/tấn tại thời điểm 20/11.
Lĩnh vực cây trồng tương lai trong hứa hẹn nhiều triển vọng. Sản lượng ngũ cốc dự
đoán sẽ tăng khoảng 4% trong năm nay và sản lượng hạt có dầu dự tính sẽ tăng gấp hai
lần. Mặc dù sản lượng tăng sẽ làm tăng số lượng dữ trữ, việc tiếp tục tăng cầu về nhiên
liệu sinh học sẽ gây áp lực về hàng dự trữ trong kho. Ngô dùng để sản xuất ethanol ở
Mỹ dự tính sẽ tăng 33% sản lượng cây trồng năm 2008, chiếm gần bằng tất cả lượng
tăng lên trong sản lượng tiêu thụ ngô toàn cầu và làm cho sản lượng ngô dữ trữ toàn
cầu giảm. Ngược lại, khối lượng lớn sản lượng lúa mì và hạt có dầu tăng lên sẽ phần
nào giúp tái thiết kho dự trữ. Các kho dự trữ này vẫn duy trì ở mức thấp do các tiêu
chuẩn trước đây, tuy nhiên giá cả sẽ vẫn dễ bị ảnh hưởng do sự phá vỡ cung và sự tăng
lên của cầu.
Nói chung, giá ngũ cốc dự tính sẽ giảm khoảng 28% năm 2009 và giảm bớt 3% vào
năm 2010. Giá chất béo và dầu dự đoán sẽ giảm 27% năm 2009 và giảm thêm 5% năm
2010. Đồ uống sẽ giảm 18% và 4% lần lượt vào các năm 2009 và 2010. Mặc dù có sự
giảm giá này, giá thực phẩm vẫn duy trì cao hơn so với giai đoạn những năm 1990 và
cao hơn mức năm 2003 là 60%.
24
Về cơ bản, các điều kiện tín dụng vô cùng chặt chẽ vào tháng 11/2008 dự báo sẽ nới
lỏng dần trong quý đầu của năm 2009 - cùng với vụ mùa bội thu trong năm nay sẽ bảo
đảm cho giá cả không tăng mạnh trong trung hạn. Tuy nhiên, nếu nông dân ở các các
nước có thu nhập trung bình và cao không có vốn mua hạt giống và phân bón để trồng
trong vụ tới, trồng trọt sẽ kém so với dự tính và có thể làm cho giá nông nghiệp tăng
trở lại vào mùa vụ 2009/10. Nông dân ở những nước sản xuất và xuất khẩu hàng nông
nghiệp chính, trong đó có Ôxtrâylia, Achentina, Braxin, Mỹ và châu Âu, lại dựa vào
nguồn vốn ngắn hạn cho các sản phẩm đầu vào (chẳng hạn như để mua phân bón) và
nguồn vốn dài hạn để mua máy móc. Nguồn vốn ngắn hạn được đảm bảo một cách đặc
trưng bằng đầu tư vào đất đai như vật ký quỹ và ở mức độ thấp hơn là bằng việc tự bảo
hiểm trong các thị trường tương lai đối với việc đảm bảo một mức giá tối thiểu (việc
làm này phổ biến ở Mỹ). Sự sụp đổ tín dụng cùng với giá hàng hóa giảm khiến cho các
ngân hàng bất đắc dĩ phải cho vay. Tình trạng này có thể tồi tệ hơn nếu giá đất bắt đầu
giảm – đã có những tín hiệu cho thấy giá đất giảm ở một số nước EU – hoặc nếu các
điều kiện tín dụng không nới lỏng hơn. Đồng thời, nông dân mất lòng tin vào các công
cụ tự bảo hiểm.
1.6.4. Giá hàng hóa giảm có tác động đáng kể tới các điều khoản thương mại
Sự giảm giá hàng hóa dự báo trong năm 2009 sẽ gây ra những biến đổi lớn trong
các điều khoản thương mại của các nước đang phát triển. 30 nước dự tính sẽ đạt được
tốc độ phát triển 1,5% GDP từ việc giảm giá dầu. Trong số những nước này, Cộng hòa
Síp, Guyana, Jamaica, Jordan, Cộng hòa Kyrgyz, Moldova, Nicaragoa, Seychelles và
Tajikistan sẽ đạt mức 2,5% GDP.
Đồng thời, các nước xuất khẩu dầu sẽ có kinh nghiệm về các điều khoản lớn đối với
những thiệt hại thương mại, với Angola, Azerbaijan, Cộng hòa Công gô, Equatorial
Guinea, Gabon, Cộng hòa Iran, Kuwait, Libya, Nigeria, và Ả rập Xê-út phải chịu
những thiệt hại về thu nhập ở vòng đầu tiên vượt hơn 10% GDP. Giá kim loại giảm dự
báo sẽ làm giảm thu nhập hơn 2% GDP tại Chi lê, Mauritania, Mông Cổ, Papua New
Guinea, Suriname, và Zimbabwe. Các nước dựa nhiều vào xuất khẩu ngũ cốc sẽ gặp
nhiều khó khăn. Các nhà xuất khẩu như Achentina (ngô, đậu nành, lúa mì), Bolivia
(đậu nành), Gambia (lạc), Guinea-Bissau (lạc), Guyana (gạo) và Paraguay (đậu nành)
sẽ thiệt hại từ 1,6% đến 9% GDP, mặc dù đối với một số nước thiệt hại có thể giảm
nhẹ hơn nhờ giá dầu giảm.
Xét đến những tác động giảm giá hàng hóa tới giá hàng xuất khẩu và nhập khẩu,
hơn một nửa trong danh sách 162 nền kinh tế dự đoán sẽ tăng cường các điều khoản
thương mại, trong đó 24 nước sẽ đạt mức vượt trên 1,5% GDP. Khoảng một phần tư
các nước này, trong đó có hầu hết các nước xuất khẩu dầu, sẽ phải gánh chịu thiệt hại
thu nhập ở vòng đầu tiên vượt mức 1,5% GDP.
1.7. Những rủi ro và bất ổn chính
Sự đóng băng của các thị trường tín dụng, sự sụp đổ của các thị trường chứng
khoán, những biến động lớn của tỷ giá hối đoái và giá các nguyên vật liệu tăng cao
25
cũng như những phản ứng chính trị chưa từng có đã tạo nên một môi trường cực kỳ bất
ổn đối với những người tham gia thị trường cũng như những nhà dự báo.
Nhiều vấn đề có thể xảy ra đối với nền kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu trong bối
cảnh hiện nay, cho dù sự sụp đổ của tồi tệ của các thị trường có thể tránh được. Tăng
trưởng GDP toàn cầu năm 2009 có thể tối đa là 1,4%, tối thiểu là 0,4% (so với dự báo
0,9%).
Mức tin tưởng sẽ cao hơn đối với các dự báo cho năm 2010. So với sự phục hồi
được dự kiến trong các dự báo cơ sở, những kết quả đầu ra có lẽ sẽ vẫn khiêm tốn vì
sự hợp nhất trong lĩnh vực ngân hàng phản ứng như một lực hãm liên tục đối với sự
tăng trưởng nói chung và sự tăng trưởng tín dụng vẫn dẫm chân tại chỗ từ nhiều năm
nay. Cũng có thể những tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế
sẽ ít hơn, trong trường hợp này sự nới lỏng đáng kể của chính sách tiền tệ và biện pháp
thuế khoá quy mô rộng áp dụng cho cuộc khủng hoảng có thể sẽ dẫn tới sự phục hồi
ngoạn mục kinh tế năm 2010. Một kịch bản như vậy ẩn chứa rủi ro gia tăng lạm phát
mới và điều này lại dẫn tới sự thắt chặt các chính sách tiền tệ và ngân sách.
Trong bối cảnh đó, những người ra quyết định tại cả các nước phát triển và đang
phát triển phải chuẩn bị đối phó với thảm kịch tăng trưởng còn chậm hơn nữa, dẫn tới
khả năng tụt giảm GDP toàn cầu lần đầu tiên trong giai đoạn sau chiến tranh và sự sụp
đổ của thị trường tài chính, từ đó có thể dẫn tới sự ngưng trệ bất ngờ của các luồng tín
dụng đổ vào phần lớn các nước đi vay. Dù sao đi nữa thì tình hình trong 2 năm nữa sẽ
có thay đổi căn bản so với tình hình được dự báo cách đây chỉ một vài tháng và các
chính sách có thể phải thay đổi để thích ứng.
Trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế thế giới phải đối mặt với những rủi ro tài chính
một cách hệ thống, sự chú ý trong ngắn hạn sẽ tập trung vào việc quản lý khủng hoảng
trước mắt, giảm bớt rủi ro và phản ứng trước những thay đổi nhanh chóng. Những rủi
ro chính liên quan đến khả năng diễn ra cuộc khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán
cân thanh toán của nước này với nước khác, một rủi ro thực ở giai đoạn này đối với ít
nhất là một số nước đang phát triển.
Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng của một số nước đang phát triển cũng là điều có
thể xảy ra. Trong trường hợp của Nga, nơi mà nền kinh tế chịu sự chi phối mạnh bởi
các tập đoàn dầu khí xuất khẩu để thu ngoại tệ mạnh, thì chính quyền có vẻ như đang
cứu các cơ quan tài chính trong nước. Các nước khác không có được thuận lợi như
Nga thì có thể sẽ phải kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế, hành động này phải được thực
hiện nhanh nhất nếu có thể.
Sự khủng hoảng quy mô toàn cầu càng kéo dài thì những rủi ro đối với các đồng
tiền càng lớn. Sự gia tăng lãi suất trên các khoản nợ của các công ty luôn cao hơn gia
tăng lãi suất của các khoản nợ của nhà nước. Trong mọi trường hợp, việc ngăn một
nước khỏi lâm vào khủng hoảng mà nhiều nước đang gặp phải sẽ rất khó. Điều này
giải thích vì sao càng mổ xẻ chi tiết một cuộc khủng hoảng có thể xảy ra và có sự hợp
tác quốc tế tốt thì càng có cơ may tránh được khủng hoảng.
26
Với tầm nhìn dài hạn hơn, những lo ngại dĩ nhiên sẽ rất khác nhau. Vấn đề là trong
tình trạng nào các nước đang phát triển bước ra khỏi sự khủng hoảng hiện nay và các
nước đó sẽ duy trì như thế nào sức mạnh và niềm tin cũng như những tham số vững
chắn cơ bản về kinh tế vĩ mô vốn đã giúp họ lập được tăng trưởng ngoạn mục trong 5
năm qua. Mối nguy hiểm đối với tất cả các nước là sự phản ứng “thái quá” có thể lại
gây ra sự lung lay của các tham số cơ bản vững chắc vốn hỗ trợ cho tăng trưởng. Các
nước phải phản ứng nhanh và kiên quyết trước các dấu hiệu suy yếu trong lĩnh vực
ngân hàng của họ, kể cả việc bơm tiền vào và khôi phục lại vốn của các ngân hàng nếu
cần.
Tuy nhiên, cũng cần phải tránh sự bén rễ của những áp lực lạm phát bằng cách đảm
bảo rằng những nỗ lực tổng thể hơn nhắm vào hỗ trợ các hệ thống ngân hàng phải có
mục tiêu hơn và hiệu quả, đồng thời mọi động thái bơm tiền mặt cần thiết phải đảm
bảo sự tăng trưởng chở lại. Cái giá phải trả về dài hạn cho những chính sách như vậy
có thể lớn, ngay cả khi các chính sách giúp giảm suy thoái trong tương lai. Các nhà
lãnh đạo các nước phải chú ý tới từng giai đoạn chính sách của họ sao cho có sự gắn
kết.
Cho tới nay, nhờ những can thiệp kịp thời của các Chính phủ, điều tồi tệ đã được
tránh khỏi. Nếu thị trường tỏ ra không hiệu quả trước những can thiệp này thì là bởi
những can thiệp chưa được hiểu đúng hoặc không giải quyết được các vấn đề khẩn cấp
nhất, do vậy các chính sách tỏ ra không hiệu quả. Trong trường hợp này, những khó
khăn của kinh tế thế giới sẽ trở nên thực sự nghiêm trọng.
1.8. Những triển vọng dài hạn và dự báo về nghèo đói
Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay và sự tăng trưởng kinh tế chậm dự báo
năm 2009, nhưng những triển vọng dài hạn đối với các nước đang phát triển chỉ thay
đổi ít ỏi so với những dự báo năm ngoái. Những triển vọng này không khác nhau
nhiều, một phần do sự tăng trưởng chậm đã được dự báo trước, mặc dù mức độ chưa
lớn. Tuy nhiên, lý do chính của sự duy trì các triển vọng lại nằm trong tiềm năng cung
ứng của các nước đang phát triển. Sản xuất tại các nước này sẽ giúp cân bằng thiếu hụt
cán cân sản xuất sự sụt giảm tăng trưởng gây ra trong vòng 5 năm đầu của thập kỷ tới.
Trong giai đoạn 2010-2015, GDP bình quân đầu người của các nước đang phát triển
có thể sẽ tăng với nhịp độ hàng năm tương đối nhanh 4,6%, nhanh hơn nhiều so với
mức 2,1% của những năm 1990 và 0,6% của những năm 1980. Những cải thiện về
chính sách kinh tế vĩ mô (giảm lạm phát, nới lỏng hoặc áp dụng tỷ giá linh hoạt, giảm
thâm hụt ngân sách) đi đôi với những cải cách cấu trúc (cổ phần hoá và chính sách)
nhằm giảm bất ổn và cải thiện đầu tư. Tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai được dự báo là
sẽ cao hơn tỷ lệ của những năm 1990 (và tăng cao hơn đáng kể so với những năm
1980) ở từng vùng đối với các nước đang phát triến, trừ Đông Á và Thái Bình Dương,
nơi mà tăng trưởng sụt giảm ít do dân số đang già đi.
Sự tăng trưởng nhanh sẽ cho phép các nước đang phát triển đạt được các mục tiêu
phát triển cho Thiên niên kỷ, trong đó giảm một nửa nghèo đói từ nay đến năm 2015.
27
Những dự báo liên quan đến mức nghèo đói vào năm 2015 là 15,5%, một con số thấp
hơn mục tiêu là 20,9%, và giảm một nửa so với mức của những năm 90 như thể hiện ở
bảng dưới đây.
Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương rõ ràng đã vượt mục tiêu và Nam Á cũng
đang nỗ lực đạt mục tiêu của mình. Mối quan tâm chính vẫn là trường hợp của châu
Phi vùng cận Sahara. Mặc dù tỷ lệ nghèo đói của vùng đã giảm trong thập kỷ qua và
có thể đạt 37,1% vào năm 2015, tỷ lệ những người sống ở mức nghèo khổ nhất vẫn sẽ
dưới mục tiêu 29%.
Những dự báo mới về nghèo đói cho thấy một hình ảnh nghèo đói trên toàn thế giới
khác xa so với giai đoạn từ 1990 đến 2005. Nghèo đói trên toàn thế giới năm 1990,
năm tham chiếu đối với các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, bao trùm 41,6% dân số
của các nước đang phát triển (so với dự báo trước đó là 28,7%). Điều đó có nghĩa là
mục tiêu cho phát triển Thiên niên kỷ là 20,9%.
Tuy nhiên, 25,2% dân số ở các nước đang phát triển sống với 1,25 USD mỗi ngày
năm 2005, so với dự báo năm 2004 là 18,1%. Sự giảm nghèo đói toàn cầu từ năm
1990-2005 chủ yếu do thu nhập ở Trung Quốc, nơi mà tỷ lệ nghèo đói giảm từ 60%
năm 1990 xuống 16% năm 2005. Cũng cần phải lưu ý rằng ảnh hưởng của tăng giá
năng lượng và lương thực gần đây không hoàn toàn được phản ánh trong các dự báo
này. Sự tăng giá lương thực trong khoảng từ tháng 1/2007 đến 1/2008 đã làm tăng
nghèo đói toàn cầu từ 130 lên 155 triệu người hay từ 1,3 đến 1,5%. Nhưng với sự giảm
giá này hiện nay lại không giúp quay trở lại mức nghèo đói như khi giá chưa tăng.
Mức độ nghèo đói tại các nước đang phát triển theo vùng và năm được chọn
Vùng hoặc nước 1990 2005 2015
Số người sống dưới 1.25 USD/ngày (triệu người)
Đông Á và Thái Bình Dương 873.3 316.2 137.6
Trong đó có Trung Quốc 683.2 207.7 84.3
Châu Âu và Trung Á 9.1 17.3 9.8
Mỹ La-tinh và Caribê 49.6 45.1 30.6
Trung Đông và Bắc Phi 9.7 11.0 8.8
Nam Á 579.2 595.6 403.9
Trong đó có Ấn Độ 435.5 455.8 313.2
Châu Phi cận Sahara 297.5 388.4 356.4
Tổng 1,818.5 1,373.5 947.2
Số người sống dưới 2USD/ngày (triệu người)
Đông Á và Thái Bình Dương 1,273.7 728.7 438.0
28
Trong đó có Trung Quốc 960.8 473.7 260.9
Châu Âu và Trung Á 31.9 41.9 26.7
Mỹ La-tinh và Caribê 86.3 91.3 72.4
Trung Đông và Bắc Phi 44.4 51.5 33.3
Nam Á 926.0 1,091.5 959.5
Trong đó có Ấn Độ 701.6 827.7 714.5
Châu Phi cận Sahara 393.6 556.7 585.0
Tổng 2,755.9 2,561.5 2,115.0
Tỷ lệ dân số sống dưới 1.25USD/ngày
Đông Á và Thái Bình Dương 54.7 16.8 6.8
Trong đó có Trung Quốc 60.2 15.9 6.1
Châu Âu và Trung Á 2.0 3.7 2.2
Mỹ La-tinh và Caribê 11.3 8.2 5.0
Trung Đông và Bắc Phi 4.3 3.6 2.5
Nam Á 51.7 40.3 23.8
Trong đó có Ấn Độ 51.3 41.6 25.4
Châu Phi cận Sahara 57.6 50.9 37.1
Tổng 41.7 25.2 15.5
Tỷ lệ dân số sống dưới 2USD/ngày
Đông Á và Thái Bình Dương 79.8 38.7 21.6
Trong đó có Trung Quốc 84.6 36.3 18.9
Châu Âu và Trung Á 6.9 8.9 6.0
Mỹ La-tinh và Caribê 19.7 16.6 11.8
Trung Đông và Bắc Phi 19.7 16.9 9.3
Nam Á 82.7 73.9 56.6
Trong đó có Ấn Độ 82.6 75.6 57.9
Châu Phi cận Sahara 76.2 73.0 60.8
Tổng 63.2 47.0 34.6
Nguồn: World Bank.
29
PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ CÔNG NGHIỆP
2.1. Động lực toàn cầu về khoa học, công nghệ và đổi mới
Đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới dẫn đến tăng trưởng kinh tế mạnh
Cho đến gần đây, bối cảnh toàn cầu cho hoạt động đổi mới có nhiều thuận lợi. Đầu
tư cho NCPT của OECD tăng từ 468 tỷ USD năm 1996 lên 818 tỷ năm 2006. Tổng chi
tiêu nội địa cho NCPT (GERD) tăng 4,6%/năm (tính theo giá trị thực tế) từ năm 1996
đến 2001, nhưng tăng trưởng chậm hơn 2,5%/năm từ năm 2001 đến năm 2006. Đầu tư
tương lai phụ thuộc một phần vào các tác động lâu dài hơn của việc không ổn định thị
trường tài chính đối với chi tiêu của kinh doanh.
Một số nền kinh tế không thuộc OECD đang trở thành những nền kinh tế chi tiêu
quan trọng cho NCPT
Tuy nhiên, phân bổ toàn cầu cho NCPT đang thay đổi. GERD của Trung Quốc đạt
86,8 tỷ USD năm 2006 sau khoảng thời gian tăng 19%/năm tính theo giá trị thực tế, từ
năm 2001 đến 2006. Đầu tư cho NCPT ở Nam Phi tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1997 lên
3,7 tỷ USD năm 2005. Nga vượt lên từ 9 tỷ USD năm 1996 lên 20 tỷ USD năm 2006
và Ấn Độ đạt 23,7 tỷ USD năm 2004. Kết quả là các nền kinh tế không thuộc OECD
đã tăng đáng kể tỷ lệ đầu tư cho NCPT của thế giới – lên tới 18,4% năm 2005, từ mức
11,7% năm 1996. Vị trí ngày càng tăng của các nước này trong nền kinh tế toàn cầu
cũng thay đổi, cũng giống như mức độ đầu tư cho NCPTso với GDP ngày càng tăng,
đặc biệt là ở Trung Quốc. Năm 2005, tổng chi tiêu cho NCPT toàn cầu ở 3 khu vực
chính của OECD là khoảng 35% ở Mỹ, 24% ở EU27 và 14% ở Nhật Bản. Trong khi
Nhật Bản vẫn duy trì mức đầu tư cho NCPT của mình từ năm 2000 thì Mỹ giảm hơn
3% do việc tăng chậm trong chi tiêu cho NCPT của khu vực doanh nghiệp (BERD), và
EU giảm 2% (Hình 1).
Tốc độ gia tăng của NCPT của khu vực doanh nghiệp chậm hơn nhưng ổn đinh
Các doanh nghiệp thực hiện phần lớn NCPT ở hầu hết các nước OECD. Đầu tư cho
NCPT tăng hơn một thập kỷ qua, mặc dù tốc độ gia tăng chậm lại đáng kể từ năm
2001. Ở 27 nước thuộc EU (EU27), mức cho BERD chỉ tăng từ năm 1996 đến năm
2006, chiếm 1,11% GDP. Điều này cho thấy EU không thể đáp ứng mục tiêu BERD là
2% GDP của mình vào năm 2010. Ở Mỹ, mức NCPT thuộc doanh nghiệp đạt 1,84%
GDP năm 2006, giảm từ 2,05% năm 2000, trong khi đó Nhật Bản đạt mức cao mới là
2.62%. Ở Trung Quốc, tỷ lệ BERD trên GDP tăng nhanh, đặt biệt từ năm 2000, và
hiện nay hầu như đạt mức của EU27 là 1,02% GDP năm 2006.
Quốc tế hóa NCPT lan rộng
Đầu tư cho NCPT tăng từ các nguồn nước ngoài (thông qua các doanh nghiệp tư
nhân, các viện nghiên cứu công hay các tổ chức quốc tế). Ở hầu hết các nước OECD,
các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào NCPT thương mại ngày càng tăng, vì các
công ty nước ngoài thu được nguồn thực hiện NCPT từ các công ty địa phương hay
các chi nhánh mới thành lập.
30
Hình 1: Xu hướng đầu tư cho NCPT toàn cầu ở các khu vực chính của OECD
và các nền kinh tế không thành viên được lựa chọn
Nguồn: Dựa theo dữ liệu của 79 nước không thuộc OECD (Cơ quan Thống kê
UNESCO) và 30 nước OECD (Cơ sở dữ liệu các chỉ số cơ bản về khoa học và công
nghệ OECD 2008/1)
Công bố bằng sáng chế và xuất bản khoa học gia tăng
Hầu hết các nước đều có sự gia tăng về việc công bố bằng sáng chế và xuất bản
khoa học trong những năm gần đây. Mặc dù Mỹ tiếp tục chiếm phần lớn nhất về bằng
sáng chế ba vùng (sáng chế được đăng ký tại Mỹ, Nhật Bản và EU để bảo hộ cho cùng
một phát minh) nhưng tỷ lệ của chúng đã giảm xuống, cũng giống như EU. Cùng thời
gian này, số bằng sáng chế 3 vùng của các nền kinh tế châu Á tăng đáng kể từ năm
31
1995 đến năm 2005, mặc dù vẫn còn ở mức thấp. Các bài báo khoa học được công bố
cũng tăng lên, nhưng chỉ tập trung ở một số nước - toàn bộ khu vực OECD chiếm hơn
81% các bài báo được đăng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, năng lực khoa học đã tăng
mạnh ở một số nền kinh tế nổi lên (Hình 2).
Hình 2: Công bố bằng sáng chế và khoa học ở các khu vực chính của OECD và
các nền kinh tế không phải là thành viên có chọn lọc
Nguồn: Cơ sở dữ liệu bằng sáng chế của OECD, 2008
Yêu cầu về nguồn nhân lực gia tăng
Trình độ tri thức tăng lên ở nhiều nước đưa đến nhu cầu ngày càng tăng đối với các công
nhân có kỹ năng cao. Việc sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (HRST) khu
vực OECD tăng nhanh hơn cả. Nhân tài quốc tế góp một phần đáng kể vào việc cung cấp
nhân lực HRST ở nhiều nước OECD, và thị trường toàn cầu về nguồn nhân lực kỹ năng cao
trở nên cạnh tranh hơn vì các cơ hội việc làm ở các nước cấp nhân lực chủ yếu, như Trung
Quốc, Ấn Độ được cải thiện. Với nhiều nước đang phát triển, hàng loạt sáng kiến tạo điều
kiện thuận tiện cho di trú, quốc tế hóa thị trường lao động HRST gần như diễn ra liên tục.
32
Đồng thời, cạnh tranh về nhân tài quốc tế tăng lên có nghĩa rằng các nước này ngày càng
cần tăng cường hơn nữa nguồn nhân lực của mình.
2.2. Các xu hướng chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới
Chính sách khoa học và công nghệ được mở rộng…
Chính sách nghiên cứu và đổi mới được mở rộng, đáp ứng lại những cải cách rộng
hơn để thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế cũng như chú tâm vào các mối quan
tâm của quốc gia (như việc làm, giáo dục, sức khoẻ) và các thách thức toàn cầu ngày
càng tăng như an toàn năng lượng và thay đổi khí hậu.
…đáp ứng toàn cầu hoá NCPT và mở ra các hình thức đổi mới
Toàn cầu hoá sản xuất và hoạt động NCPT gia tăng và ngày càng có thêm nhiều
hình thức liên kết và mang tính mở hơn trong đổi mới cũng đang thách thức các chính
sách khoa học và công nghệ quốc gia. Các nước phải xây dựng năng lực đổi mới và
nghiên cứu quốc gia để thu hút đầu tư nước ngoài cho NCPT và đổi mới và phải
khuyến khích sự tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Điều này đòi hỏi sự hợp tác về chính sách và những thay đổi về cơ cấu quản lý
Những thách thức như vậy thúc đẩy các nước cải thiện sự hợp tác xây dựng và phổ biến
chính sách quốc gia, gồm cả cấp quốc tế, như được minh hoạ bởi việc thành lập Khu vực
Nghiên cứu châu Âu (ERA). Một số nước thống nhất trách nhiệm xây dựng các chính sách
nghiên cứu và đổi mới trong một cơ quan duy nhất như là một cách để cải thiện sự hợp tác
hay để phản ánh mức độ ưu tiên cao hơn đối với các chính sách này.
Ngân sách công cho NCPT tiếp tục tăng, một phần đáp ứng các mục tiêu quốc gia
về NCPT
Nhiều nước OECD đã tăng việc tài trợ công cho NCPT bất chấp sức ép đối với
ngân sách thường xuyên và việc cắt giảm toàn bộ tài trợ của Chính phủ ở một số nước.
Việc tăng lên này có liên quan đến các mục tiêu ngân sách quốc gia như các ngân sách
do EU dùng để tăng cường chi tiêu cho nghiên cứu chiếm 3% GDP vào năm 2010.
Trong khi gần như hầu hết các nước EU không đáp ứng được các mục tiêu quốc gia
của họ vào năm 2010, thì những mục tiêu như vậy thể hiện lời cam kết chính trị để
kích thích đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới. Nhiều nước không thuộc EU cũng đặt
các mục tiêu khuyến khích NCPT trong nhiều thập kỷ tới.
Ngày càng nhiều nước thực hiện ưu đãi thuế NCPT, nảy sinh việc cạnh tranh thuế
Những năm gần đây có sự chuyển đổi từ tài trợ công trực tiếp cho NCPT thương
mại sang tài trợ không trực tiếp (Hình 3). Năm 2005, ngân sách Chính phủ trực tiếp
được cấp trung bình là 7% cho NCPT thương mại, giảm từ 11% năm 1995. Năm 2008,
21 nước OECD áp dụng trợ giúp thuế cho NCPT thương mại, tăng từ 12 nước năm
1995. Việc sử dụng ngày càng nhiều tín dụng thuế NCPT một phần do các nước cố
gắng tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp cho NCPT.
Các chính sách hỗ trợ cho các hệ kinh tế tập trung, có hệ thống và đổi mới đang
được phát triển
Các sáng kiến tập trung, có hệ thống tiếp tục xuất hiện trong khi nhiều công cụ khác
nhau (như tín dụng thuế) đang được sử dụng đồng thời để khuyến khích hợp tác giữa
33
ngành công nghiệp và nghiên cứu. Với việc toàn cầu hóa, hỗ trợ cho tập trung cũng
đang được phát triển với quan điểm tạo ra “các đầu mối” tầm cỡ thế giới để liên kết
các chuỗi giá trị đổi mới toàn cầu hơn là các cụm đổi mới giới hạn trong phạm vi địa
lý. Các liên kết và sự hợp tác giữa các khu vực trong và ngoài nước đang trở nên quan
trọng hơn.
Hình 3. Mức trợ cấp thuế cho 1 USD thực hiện NCPT, năm 20081
1. Trợ cấp thuế đối với NCPT được xác định như giá trị hiện tại của thu nhập trước thuế cần
thiết để cho cho chi phí đầu tư ban đầu cho NCPT và trả thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nguồn: Warda, 2008,
Hầu hết các chính sách tập trung vào đổi mới khoa học và công nghệ
Một thách thức quan trọng đối với chính sách của các nước OECD là phát triển và
thực hiện các chính sách hỗ trợ đổi mới theo một nghĩa rộng hơn (ví dụ bao gồm đổi
mới tổ chức và đổi mới phi công nghệ) và kể cả các khu vực không thực hiện nhiều
NCPT (như các ngành dựa vào tài nguyên và truyền thống) cũng như khu vực dịch vụ.
Nhiều sáng kiến của các Chính phủ nhằm vào đổi mới vẫn duy trì tập trung vào đổi
mới dựa vào khoa học và công nghệ.
34
Thiếu thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ đổi mới làm thay đổi trọng tâm chính
sách cho bên cung
Các chính sách khuyến khích nhu cầu đổi mới như phát triển các thị trường hàng
đầu, tìm kiếm và phát triển các tiêu chuẩn đổi mới thân thiện cũng đang được nhấn
mạnh hơn. Những chính sách này phản ánh nhận thức rằng việc thực hiện đổi mới
không tốt có thể liên quan đến việc thiếu thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ đổi
mới.
2.3. Đánh giá tác động trở thành bản lề của chính sách đổi mới
Đánh giá các tác động kinh tế-xã hội của chính sách công trở nên quan trọng…
Vai trò và vị trí của Chính phủ thay đổi ảnh hưởng đến yêu cầu ngày càng tăng đối
với các chính sách dựa trên thực tế. Hơn nữa, tầm quan trọng của các chính sách
khuyến khích đổi mới ở nhiều nước ngày càng tăng, các Chính phủ cần chứng minh họ
đầu tư như thế nào cho đổi mới, lĩnh vực họ đầu tư và công chúng sẽ thu lại được bao
nhiêu. Đánh giá các tác động kinh tế-xã hội của NCPT công rất quan trọng nhằm đánh
giá hiệu quả của việc chi tiêu công, đánh giá sự đóng góp của nó cho các mục tiêu kinh
tế xã hội đạt được và nâng cao trách nhiệm giải trình công.
… nhưng đánh giá các tác động kinh tế xã hội của NCPT công thì không dễ dàng
Xác định và đánh giá những lơi ích khác nhau của việc đầu tư cho NCPT đối với xã
hội là một công việc vô cùng khó khăn. NCPT thường có các tác động mang tính chất
lan tỏa và không được dự tính trước, nhiều phát hiện khoa học quan trọng được thực
hiện không được định trước, và các ứng dụng khoa học và nghiên cứu thường diễn ra
ở các lĩnh vực khác xa với mục tiêu ban đầu của NCPT. Ngoài ra, thời gian để có thu
được toàn bộ lợi ích của NCPT có thể rất dài.
Thực tiễn mới được phát triển nhằm khắc phục các thách thức
Nhiều kỹ năng đánh giá các tác động NCPT công xuất hiện trong những năm gần
đây. Hầu hết tập trung vào phân tích các tác động kinh tế, thậm chí thông qua các kết
quả đáng kể của NCPT ngoài các thành tựu kinh tế đạt được và tăng cường sức khẻ
cho nhân dân. An ninh quốc gia, bảo vệ môi trường, cải thiện sức khoẻ hay liên kết xã
hội là các tác động phi kinh tế.
Hợp tác quốc tế là cần thiết để cải thiện thực tiễn và khả năng cạnh tranh
Vì các cố gắng hiện tại để đánh giá các tác động của NCPT công vẫn tiếp tục bị thất
bại khi cố gắng nắm bắt toàn bộ các tác động của NCPT công đối với xã hội, hoạt
động hợp tác quốc tế là cần thiết để cải thiện việc đánh giá tác động của thực tiễn và
phát triển các chỉ số kỹ năng phân tích.
2.4. Phân tích kinh tế vĩ mô của đổi mới
Các chỉ số dựa trên khảo sát về đổi mới là một nguồn thông tin quan trọng để đánh
giá các hoạt động đổi mới ở các công ty và việc thực hiện đổi mới ở tất cả các nước.
Tuy nhiên, sự hữu ích của chính sách chỉ đạo ở một mức độ nào đó bị giới hạn bởi
việc sử dụng trên phạm vi rộng như một gợi ý cho các mục đích làm chuẩn. Các mức
trung bình đơn giản ẩn dấu tính không đồng nhất lớn của các mô hình đổi mới ở các
công ty, khu vực.
35
Các chỉ số đổi mới dựa trên “vi dữ liệu”có thể dự báo trước việc hoạch định chính
sách
Các chỉ số phức tạp hơn dựa trên vi dữ liệu đổi mới (như ở cấp công ty) có thể được
sử dụng để đánh giá các đặc điểm đặc biệt của các công ty dựa theo quy mô của công
ty, lĩnh vực công nghiệp và “cách thức” đổi mới. Hiểu và dự liệu được các hình thức
đổi mới khác nhau có thể giúp cải thiện việc hoạch định và thực hiện chính sách. Dự
án vi dữ liệu đổi mới của OECD là cố gắng trên quy mô lớn ở nhiều nước đầu tiên để
khai thác dữ liệu cấp công ty từ các cuộc khảo sát để phân tích kinh tế và phát triển các
chỉ số mới.
Các phát hiện từ phân tích này cho thấy có ít nhất ba mô hình đổi mới…
Ít nhất có ba mô hình đổi mới phổ biến ở các nước được phân tích. Một tập hợp các
hoạt động có thể được nhóm lại và thực hiện cùng nhau bởi các công ty có chức năng
như nhau được gọi là “mô hình đổi mới”. Mô hình thứ nhất bao gồm một số dạng đổi
mới có tính chất mới đối với thị trường liên quan đến tạo ra công nghệ của riêng mình.
Mô hình thứ hai bao gồm quy trình hiện đại hóa và sử dụng các công nghệ kèm theo
(mua máy móc, thiết bị và phần mềm), cùng với đào tạo cán bộ. Mô hình thứ ba là đổi
mới rộng hơn, bao hàm cả các chiến lược đổi mới liên quan đến tiếp thị và tổ chức.
…Nhưng không có cách thức đổi mới “riêng” nào cho tất cả các nước
Thậm chí nếu các mô hình đổi mới phổ biến đã được xác định thì cũng không có
mô hình đổi mới “riêng” nào, và xuất hiện sự khác biệt lớn giữa các quốc gia về mô
hình lợi thế cạnh tranh và so sánh. Phân tích này cũng chứng minh rằng đổi mới ở các
công ty vượt xa đáng kể đổi mới về công nghệ và tự tạo ra công nghệ của mình; các
chính sách khuyến khích đổi mới sẽ cần tính đến sự đa dạng này.
Trau dồi tri thức về đổi mới ở các công ty quyết định việc đề ra các chính sách đổi
mới
Các cuộc khảo sát về đổi mới có thể được khai thác nhiều hơn nữa, ví dụ bằng cách
so sánh dữ liệu khảo sát về đổi mới với các sổ sách hành chính và các dữ liệu cấp công
ty khác, như các bảng cân đối tài chính, khảo sát về NCPT, v.v... Điều này cho phép
hiểu tốt hơn về việc thực thi đổi mới và các chính sách ảnh hưởng đến đổi mới.
2.5. Những thay đổi trong NCPT toàn cầu
Toàn cầu hóa, suy thoái kinh tế toàn cầu và những thay đổi công nghệ sẽ khẳng
định môi trường NCPT trong năm 2009 sẽ có những thay đổi về tăng trưởng, trọng
tâm và hoạt động.
Trong năm qua, các phương tiện truyền thông đã tập trung vào sự xuất hiện của suy
thoái kinh tế toàn cầu và các ảnh hưởng của nó đối với đầu tư, tăng trưởng saen xuất
công nghiệp, lao động và thương mại. Thêm vào đó là sự tụt dốc của giá dầu mỏ,
ngành công nghiệp ô tô toàn cầu, cùng với tái cấu trúc toàn diện trong công nghiệp
dược phẩm sinh học khiến cho mọi người cảm thấy môi trường NCPT năm 2009
dường như sẽ ảm đạm.
Tuy nhiên, mặc dầu các chỉ số kinh tế đều xấu, dự báo chi tiêu cho NCPT trong
năm 2009 sẽ đạt 1.143,2 tỷ USD, cao hơn 3,2% so với năm 2008. Phần lớn tăng
36
trưởng toàn cầu này là do sự mở rộng tiếp tục NCPT ở châu Á, mặc dù sự tăng trưởng
NCPT trong vùng địa lý này cũng bị những tác động toàn cầu.
Những động lực của NCPT
Khi thảo luận về hoạt động NCPT của bất kỳ quốc gia nào, người ta thường đề cập
đến tổng số tài chính dành cho nó trong một năm nhất định. Ngoài ra, con số này còn
được thể hiện theo “cường độ nghiên cứu” với tỷ lệ chi phí NCPT trên GDP.
Để đánh giá đầy đủ những động lực của bất kỳ nỗ lực NCPT quốc gia nào, điều cần
thiết là phải tìm hiểu luồng đầu tư theo cách có thể kiểm tra được các quan hệ giữa
những nguồn cấp và nơi thực hiện NCPT. Từ những kết quả này, có thể nhận được
đánh giá tốt hơn về cách mà các chính sách và đặc điểm quốc gia ảnh hưởng đến hoạt
động NCPT của các tổ chức NCPT, và đưa ra cơ sở xác định những tác động tiềm tàng
của các thực thi chính sách.
Bảng 1. Chi tiêu NCPT toàn cầu
2007
GDP PPP*
Tỷ U.S.$
2007
NCPT theo
%
GDP
2007
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2008
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2009
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
Châu Mỹ 18.826 2,19 413,8 429,4 437,1
Mỹ 13.844 2,62 362,7 376,9 383,5
Châu Á 17.267 1,94 334,4 362,6 386,9
Nhật Bản 4.290 3,33 142,9 143,9 144,6
Trung Quốc 6.991 1,43 100,0 122,7 142,5
Ấn Độ 2.989 0,69 20,6 22,6 24,1
Châu Âu 15.851 1,73 274,2 278,7 280,2
Các nước khác 2.741 1,28 35,2 37,3 39,0
Total 54.685 1,93 1057,6 1108,0 1143,2
*PPP: Tính theo sức mua tương đương
Nguồn: Battelle, R&D Magazine, OECD, IMF
Tự do hóa kinh tế, dỡ bỏ các hàng rào, sự dịch chuyển từ những nhà cung cấp các
phần vật liệu sang các đầu vào trí tuệ, và sự đầu tư mạnh mẽ vào KH&CN, năng lực
của cả Chính phủ và các ngành công nghiệp đã góp phần vào sự chuyển dịch chính
trong bứ tranh NCPT toàn cầu.
37
Bảng 2. Tổng chi tiêu nội địa cho NCPT của các nước (GERD)
2007
GDP PPP*
Tỷ U.S.$
2007
NCPT theo
%
GDP
2007
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2008
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2009
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
Mỹ 13.844 2,62 362,713 376,864 383,477
Nhật Bản 4.290 3,33 142,857 143,857 144,576
Trung Quốc 6.991 1,43 99,971 122,706 142,494
Đức 2.810 2,51 70,531 71,811 72,163
Pháp 2.047 2,12 43,396 43,736 43,820
Hàn Quốc 1.201 2,98 35,790 37,250 38,561
Anh 2.137 1,78 38,039 38,412 38,377
Nga 2.088 1,08 22,550 24,127 25,456
Canada 1.266 1,97 24,940 25,118 25,413
Ấn Độ 2.989 0,69 20,620 22,575 24,136
Italia 1.786 1,10 19,646 19,624 19,580
Braxin 1.846 0,91 16,799 17,762 18,291
Đài Loan 695 2,20 15,290 15,862 16,258
Tây Ban
Nha
1.352 1,12 15,142 15,355 15,322
Ôxtraylia 761 1,78 13,546 13,884 14,187
Thụy Điển 335 3,82 12,797 12,950 13,141
Hà Lan 640 1,73 11,072 11,332 11,453
Ixraen 186 4,48 8,333 8,691 8,915
Thụy Sỹ 300 2,90 8,700 8,845 8,903
Áo 318 2,45 7,791 7,938 8,012
Thổ Nhĩ Kỳ 888 0,79 7,015 7,352 7,481
Bỉ 376 1,85 6,956 7,049 7,067
Mêhicô 1.346 0,50 6,730 6,870 6,995
Phần Lan 185 3,45 6,383 6,555 6,659
Singapo 228 2,20 5,016 5,192 5,368
38
2007
GDP PPP*
Tỷ U.S.$
2007
NCPT theo
%
GDP
2007
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2008
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
2009
GERD
PPP*
Tỷ U.S.$
Đan Mạch 204 2,43 4,957 5,006 5,030
Nam Phi 467 0,92 4,296 4,462 4,609
CH Séc 249 1,54 3,835 3,989 4,127
Ba Lan 621 0,56 3,478 3,918 4,068
Na Uy 247 1,49 3,680 3,770 3,814
Achentina 524 0,50 2,620 2,790 2,890
Ai-len 186 1,32 2,455 2,416 2,389
Hungary 191 1,00 1,910 1,950 1,990
Bồ Đào Nha 231 0,81 1,871 1,879 1,887
Hy Lạp 325 0,50 1,625 1,675 1,710
Rumani 246 0,50 1,230 1,335 1,400
Niu Dilan 112 1,17 1,310 1,322 1,334
Slovenia 55 1,49 0,820 0,849 0,879
CH
Slovakia
110 0,49 0,539 0,590 0,625
Ai-xơ-len 12 2,78 0,334 0,334 0,334
*PPP: chuyển đổi theo sức mua tương đương
Nguồn: Battelle, R&D Magazine, OECD, IMF
Trong những năm qua, mặc dù Mỹ vẫn là nhà đầu tư lớn trong hàng loạt các chương
trình NCPT, nhưng vị thế tương đối đã bị giảm đi do sự nổi lên mạnh mẽ của các hoạt
động NCPT toàn cầu. Đầu tư của châu Âu đã tăng lên, một phần do ảnh hưởng sự hình
thành EU. Các nước Mỹ là tinh cũng đẩy mạnh các hoạt động KH&CN trong nhiều
lĩnh vực rộng khắp. Những nỗ lực này quan tâm cụ thể vào các vấn đề và cơ hội của
riêng các quốc gia đó, và cũng những động lực cho tăng trưởng kinh tế và thương mại
thế giới. Động lực hướng tới phát triển kinh tế và thành tích khoa học đã thúc đẩy mở
rộng các năng lực kỹ thuật ở Hàn Quốc và Singapo. Nhưng có lẽ những thay đổi mạnh
mẽ nhất là sự kết hợp của đào tạo mở rộng, tăng trưởng năng lực công nghệ, tự do hóa
kinh tế và cam kết đóng vai trò lớn hơn trên thế giới đã đưa Ấn Độ và Trung Quốc vào
hàng ngũ các quốc gia quan trọng trong các hoạt động NCPT quốc tế.
Do các cơ hội thị trường toàn cầu tăng lên và tài năng kỹ thuật trở nên rộng khắp hơn,
nên đã xuất hiện xu hướng hợp tác trong các chương trình nghiên cứu và sử dụng tài năng ở
nước ngoài để hỗ trợ các hoạt động sản xuất, tiếp thị và bán hàng trong nước.
39
Tổng quan kinh tế thế giới do Quỹ Tiền tệ Quốc tế xuất bản tháng 10 năm 2008
tuyên bố “Sau những năm tăng trưởng mạnh mẽ, kinh tế thế giới đang suy giảm nhanh
chóng”. Từ quan điểm NCPT, mặc dù đầu tư vào NCPT nói chung vẫn tăng, nhưng có
thể phần lớn sự gia tăng đó sẽ bị lạm phát triệt tiêu.
2.6. Những lĩnh vực nghiên cứu được quan tâm nhất trong năm 2009
Trong năm nay, một số lĩnh vực công nghệ thu hút được sự tập trung của các cơ quan
nghiên cứu trên toàn thế giới, bao gồm các hệ thống năng lượng tái tạo, công nghệ sinh học,
cung cấp nước sạch, các quy trình bền vững và các hệ thống vận tải giá rẻ.
Năng lượng tái tạo – Mặc dù giá dầu mỏ đã giảm từ 130USD/thùng xuống còn
khoảng 50USD/thùng, nhưng NCPT toàn cầu trong lĩnh vực các hệ thống năng lượng
tái tạo vẫn tăng. Mặc dù không phải là nguồn năng lượng tái tạo, nhưng năng lượng
hạt nhân đang nhận được sự quan tâm trở lại. Các hệ thống tuốc bin gió đã phát triển
nở rộ trên toàn thế giới với những hạ tầng, cơ sở sản xuất và sự chấp nhận của công
chúng rất đáng khích lệ. Mặt khác, các hệ thống pin mặt trời không phát triển rầm rộ,
mặc dù một số cơ sở lớn đang được tiến hành triển khai nhưng cũng có thể bị ảnh
hưởng do suy thoái toàn cầu về lâu dài.
Công nghệ sinh học - Trong năm qua, nhiều công ty dược phẩm đã tuyên bố những
thay đổi trong các chiến lược sản phẩm của họ với trọng tâm lớn hơn vào công nghệ
sinh học so với các dược phẩm dựa trên hóa chất thông thường. Nhiều lãnh đạo của
các công ty dược phẩm đều công nhận rằng đây là chiến lược dài hạn và mọi người
cũng nhận thấy chiến lược này sẽ mang lại nhiều cơ hội.
Nước sạch - Nhu cầu cung cấp nước sạch trên toàn cầu hiện đang giảm đi, đáng tiếc
là không phải do khía cạnh nhân đạo mà chủ yếu là các quy trình công nghiệp và các
cộng đồng nông nghiệp đang chứng kiến nguồn nước của họ bị thu hẹp lại. Phát triển
việc cung cấp nước sạch sẽ song hành với phát triển các quy trình sản xuất mới sử
dụng ít nước hơn.
Những quy trình bền vững - với sự suy thoái toàn cầu có thể còn kéo dài hết năm, sẽ có
sự kêu gọi tiếp tục tăng cường các quy trình bền vững dẫn đến tiết kiệm giảm chi phí.
Các hệ thống giao thông chi phí thấp – Hầu hết các nhà sản xuất ô-tô đang triển
khai nghiên cứu các mẫu thiết kế xe hơi sử dụng ít nhiên liệu hơn, như các xe dùng
nhiên liệu kép, pin năng lượng và các hệ thống xe chạy điện hoàn toàn.
2.7. Nghiên cứu của thế giới 2009
Nói chung, chi phí NCPT trong năm 2009 sẽ vẫn phát triển với những thay đổi chưa
lường được có thể ảnh hưởng đến thấy việc cấp vốn nghiên cứu trong năm. Một trong
những ảnh hưởng đó là giá dầu mỏ. Nước Mỹ sẽ phụ thuộc vào mức độ thành công
của Chính phủ trong việc thúc đẩy các chương trình nghiên cứu. Khủng hoảng tài
chính toàn cầu tiếp tục diễn ra ở nhiều nước có thể sẽ làm giảm khả năng cung cấp tài
chính đầu tư cho NCPT. Tuy chưa là thảm họa, nhưng sự suy giảm đầu tư cho NCPT
dường như sẽ lan ra khắp các quốc gia. Các nước châu Á vẫn được dự đoán sẽ gia
tăng đầu tư cho các chương trình NCPT, mặc dù mức tăng không thể cao được như
những năm trước. Mỹ, châu Mỹ, châu Âu và những nước còn lại sẽ phải rất nỗ lực để
giữ mức tăng bằng với tỷ lệ lạm phát của mình.
40
PHỤ LỤC
CÁC CHỈ SỐ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CHÍNH CỦA CÁC NƯỚC
Tổng chi nội địa cho NCPT (2007) Tổng nhân lực
nghiên cứu-2007
Tỷ lệ cấp vốn theo khu vực
(%)
Tỷ lệ thực hiện theo khu vực (%)Triệu USD
(PPP*)
Doanh nghiệp Chính phủ Doanh
nghiệp
Đại học Chính
phủ
Tương đương
toàn thời (**)
Ôxtraylia 14.867,5 57,2 38,4 57,3 25,7 14,1 87.270
Áo 7.999,9 47,7 35,6 70,4 24,1 5,2 31.352
Bỉ 6.997,3 59,7 24,7 69,2 21,8 8,3 35.937
Canađa 2.3970,0 47,8 32,8 54,4 36,0 9,2 134.300
CH Séc 3.802,7 54,0 41,2 63,8 16,9 18,9 27.878
Đan Mạch 5.015,7 59,5 27,6 64,9 27,5 7,0 29.572
Phần Lan 6.320,7 68,2 24,1 72,3 18,7 8,5 39.000
Pháp 43.359,5 52,4 38,4 63,2 19,2 16,5 211.129
Đức 69.334,4 68,1 27,8 70,0 16,3 13,7 286.000
Hy Lạp 1.845,6 31,1 46,8 26,9 50,4 21,4 20.817
Hungary 1.818,8 43,9 44,4 50,3 23,3 24,2 17.391
Ai-xơ-len 293,0 48,0 40,5 51,5 22,0 23,5 2.155
Ai-len 2.522,5 59,3 30,1 66,8 26,4 6,8 12.169
Italia 19.383,8 40,4 48,3 48,8 30,3 17,2 88.430
Nhật Bản 138.782,1 77,1 16,2 77,2 12,7 8,3 709.691
Hàn Quốc 35.885,8 75,4 23,1 77,3 10,0 11,6 199.990
Luxembua 639,7 79,7 16,6 83,8 3,0 13,3 2.174
Mêhicô 5.919,0 46,5 45,3 49,5 27,4 22,1 48.401
Hà Lan 10.907,5 51,1 36,2 60,4 26,5 13,0 44.116
Niu Dilan 1.189,3 41,2 43,0 41,8 32,5 25,7 17.235
Na Uy 4.015,1 46,4 44,0 51,2 32,8 15,9 23.054
Ba Lan 3.110,0 33,1 57,5 31,5 31,0 37,0 59.573
Bồ Đào Nha 2.754,3 36,3 55,2 51,5 29,9 9,1 27.986
Slôvakia 501,3 35,6 53,9 39,6 25,0 35,4 12.354
Tây Ban Nha 15.595,7 47,1 42,5 55,5 27,6 16,7 115.798
Thụy Điển 12.357,4 65,7 23,2 72,7 21,1 6,1 44.276
Thụy Sỹ 7.479,2 69,7 22,7 73,7 22,9 1,1 25.400
Thổ Nhĩ Kỳ 4.883,7 46,0 48,6 37,0 51,3 11,7 42.663
Anh 35.590,8 45,2 31,9 61,7 26,1 10,0 183.535
Mỹ 368.799,0 66,4 27,7 71,9 13,3 10,7 1.387.882
EU-27 244.655,3 55,0 34,2 63,1 22,3 13,4 1.342.116
Tổng OECD 825.562,6 63,9 28,5 69,1 17,2 11,4 3.883.289
Achentina 2.657,2 29,3 67,5 30,3 28,8 38,9 38.681
Trung Quốc 86.758,2 69,1 24,7 71,1 9,2 19,7 1.223.756
Israel 8.808,9 75,4 17,8 78,7 12,6 5,1 ,,
Rumani 1.385,5 26,9 67,1 41,6 24,1 33,9 18.808
LB Nga 25.119,9 29,4 62,6 64,2 6,3 29,1 469.076
Singapo 4.782,5 58,3 36,4 65,7 23,9 10,3 25.033
Slovenia 831,2 60,3 33,8 61,3 15,4 23,2 6.450
Nam Phi 3.654,3 43,9 38,2 58,3 19,3 20,8 17.303
Đài Loan (TQ) 16.552,9 67,2 31,4 67,5 12,2 19,9 95.176
ppp – tính theo sức mua tương đương quy đổi ra USD.
FTE – Full-time Equipvalent.
Nguồn: OECD, Main Science and Technology Indicators, October 2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trien_vong_kinh_te__phat_trien_khoa_hoc_va_cong_nghe_the_gioi.pdf