Đề tài Tự do hoá về lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam

Đề án đã tập trung phân tích giải quyết những vấn đề cơ bản được đặt ra đối với qua trình tự do hoá lãi suất phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước ở Việt Nam trên cơ sở Ngân Hàng Nhà Nước sẽ điều hành chính sách lãi suất theo nguyên tắc gián tiếp, đảm bảo cho quá trình tự do hoá lãi suất được an toàn trôi chảy và có hiệu quả. Đề án đã thực hiện một số nhiệm vụ sau:

doc38 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hoá về lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy, như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung cầu. Cung của vốn có được chủ yếu từ các khoản tiết kiệm của dân chúng và lượng vốn được cung cấp phụ thuộc nhiều vào lãi suất. Nếu lãi suất quá thấp, dân chúng sẽ quyết định không cho vay các khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ lại các khoản tiết kiệm dưới dạng khả dụng. Khi lãi suất tăng, lượng tiết kiệm dân chúng sẵn sàng cho vay tăng lên, khối lượng cung sẽ lớn hơn. Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu về vốn đều tác động đến lãi suất. Chẳng hạn, tăng tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng cung vốn, và nếu cầu vốn không tăng tương ứng để cân bằng được cung cầu thì sẽ làm cho lãi suất giảm đi. Ngược lại, sự tăng lên về cầu của vốn không tương ứng sự tăng lên của cung vốn sẽ làm cho lãi suất tăng lên. Mức độ rủi ro Bất kì lãi suất nào cũng được hình thành từ hai nhân tố, thứ nhất là phần trả cho người vay khi họ trao lại quyền sử dụng nguồn vốn của mình, thứ hai là phần tiền trang trải yếu tố rủi ro trong trường hợp vốn không được hoàn trả. Rủi ro trong việc hoàn trả vốn càng cao thì người cho vay sẽ tính lãi suất càng cao và ngược lại. Do vậy, đối với các loại cho vay khác nhau thường có các mức lãi suất khác nhau. Thời hạn Khi thời hạn vốn huy động cho vay càng dài thì càng đòi hỏi một mức lãi suất cao hơn, với thời hạn ngắn thì thường có mức lãi suất thấp hơn. Yếu tố lạm phát Trong một thời gian, nếu tỉ lệ lạm phát cao, người cho vay thường muốn có một mức lãi suất cao hơn để bù đắp cho sự hao hụt vốn gốc dự kiến của họ, khi lạm phát thấp thì lãi suất giảm đi. Khả năng thanh toán Nếu khả năng thanh toán của vốn thấp hơn vì khó chuyển đổi ra tiền mặt (tính thanh khoản không cao) thì đòi hỏi mức lãi suất cao hơn, ngược lại khả năng thanh toán cao, khi đó nó có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt thì thường đòi hỏi mức lãi suất thấp hơn. Chi phí quản lí Trong trường hợp chi phí quản lí NH càng lớn thì mức lãi suất càng cao và ngược lại, chi phí càng giảm thì mức lãi suất sẽ thấp hơn. Sự ảnh hưởng của lãi suất trên các trung tâm tài chính quốc tế khác hay trong khu vực kinh tế, ví dụ lãi suất thường bị ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới bởi sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kì. Khi có một sự thay đổi về mức lãi suất chung sẽ có tác động lớn đến nền kinh tế của một nước trên phạm vi tổng thể. Lãi suất cao sẽ làm giảm nhu cầu vay, cùng lúc đó, hoạt động kinh tế giảm sút và công chúng sẽ giảm nhu cầu chi tiêu. Vì vậy, làm giảm cầu hàng hoá ngành công nghiệp, đến lượt nó lại kìm hãm các khoản đầu tư máy móc nhà xưởng và ảnh hưởng đến công ăn việc làm. Khi hạ thấp lãi suất sẽ có tác động ngược lại. Các nguyên tắc xác định lãi suất Theo quan điểm phát triển, chính sách lãi suất cần phải được đảm bảo một mức lãi suất thực dương để khuyến khích người dân gửi tiền vào các tổ chức tài chính. Mức lãi suất thực dương gắn liền với mức lạm phát trong nước. Lãi suất được xác định trên cơ sở kì hạn. Kì hạn cho vay, gửi tiền càng dài thì lãi suất càng cao. Trong trường hợp nếu chương trình ổn định kinh tế đòi hỏi phải tăng lãi suất cho vay thì cần phaỉ tăng lãi suất tiền gửi vì lãi suất chịu ảnh hưởng bởi hành vi tiêu dùng của xã hội và nếu tăng lãi suất cho vay mà không tăng lãi suất tiền gửi thì sẽ không khuyến khích tính hiệu quả của ngân hàng. Nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, lãi suất cần tính toán , cần cân nhắc tới tỉ suất lợi nhuận bình quân để mở rộng cho vay, giải phóng năng lực sản suất của xã hội. Thực hiện lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy đông bình quân, đảm bảo lãi suất dương. Lãi suất bù đắp được rủi ro mà người cho vay phải gánh chịu. Mặt khác, lãi suất cần tính toán đến chi phí quản lí khác nhau. Lãi suất điều chỉnh linh hoạt, tránh điều chỉnh đột ngột. Trong nền kinh tế thời mở cửa hay nền kinh tế chuyển đổi ngày càng gắn chặt với nền kinh tế thế giới thì không nên duy trì mức lãi suất khác (thường là cao hơn) so với thị trường thế giới. Lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ không nên để khoảng cách bất hợp lí. Mặt bằng lãi suất trên cùng một địa bàn phải thống nhất với nhau và thống nhất đối tượng. Chương 2 Tự do hoá lãi suất 2.1. Khái niệm về tự do hoá lãi suất Tự do hoá lãi suất về cơ bản được hiểu là lãi suất hoàn toàn được điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, do thị trường quyết định. Hay nói cách khác, lãi suất được điều chỉnh theo tín hiệu của thị trường. Cụ thể, lãi suất được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Khi tự do hoá lãi suất sẽ giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước lúc này chỉ mang tính gián tiếp và dừng lại ở mức bảo đảm cho tự do hoá lãi suất được an toàn, trôi chảy và có hiệu quả. Khi tự do hoá lãi suất sẽ góp phần làm cho các dòng vốn được tự do lưu chuyển đến bất cứ đâu, tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp bất cứ sự ngăn cản phi kinh tế nào. lãi suất khi đó sẽ tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư và khi tự do hoá lãi suất sẽ đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính. 2.2. Biểu hiện của tự do hoá lãi suất Tự do hoá lãi suất được biểu hiện cụ thể như sau: trong điều hành lãi suất, Ngân Hàng TW chỉ qui định các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu của Ngân Hàng TW đối với các tổ chức tín dụng. Tự do hoá lãi suất, khi đó cơ cấu và các mức lãi suất (bao gồm lãi suất cho vay và huy động vốn) của các tổ chức tín dụng với nền kinh tế (khách hàng) do các tổ chức tín dụng tự qui định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng với nhau trên thị trường, từ đó hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường. Mối dây liên hệ giữa lãi suất chi vay và lãi suất tiền gửi trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại xác định các mức lãi suất cho vay dựa trên cơ sở mức thị trường sẽ chịu được, còn thông thường lãi suất tiền gửi sẽ phụ thuộc vào lợi nhuận của ngân hàng khi cho vay. Mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay được xác định bằng sự cạnh tranh trên thị trường đối với tiền vay và tiền gửi. 2.3. Tự do hoá lãi suất với các quá trình tự do hoá khác của nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, có 3 qua trình tự do hoá cơ bản đó là: Tự do hoá giá cả Tự do hoá tài chính thương mại Tự do hoá tài chính Trong 3 xu hướng tự do hoá cơ bản trên của nền kinh tế, thì tự do hoá tài chính thường là bước cuối cùng, khó khăn nhất, lâu dài nhất và cũng nguy hiểm nhất nếu xét về khía cạnh rủi ro và các cú sốc đối với nền kinh tế. Tự do hoá tài chính có thể phân chia thành hai cấp độ, đó là: Thứ nhất, tự do hoá tài chính nội địa: tức là xoá bỏ sự kiểm soát về lãi suất và phân bổ tín dụng. Thứ hai, tự do hoá tài chính quốc tế: tức là xoá bỏ kiểm soát về vốn và sự hạn chế trong quản lí ngoại hối (chuyển đổi tiền tệ). Trong qua trình tự do hoá tài chính, tự do hoá lãi suất được coi là hạt nhân của quá trình tự do hoá tài chính. Lãi suất phải do thị trường quyết định, nó phụ thuộc vào cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập của nền kinh tế và thông thường, tự do hoá lãi suất thường gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái. 2.4. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường Trước hết chúng ta đều biết, trong nền kinh tế có 3 loại giá là giá hàng hoá và dịch vụ, giá vốn (lãi suất), và giá ngoại tệ (tỉ giá hối đoái) nên tự do hoá lãi suất (thường gắn với nó là tự do hoá tỉ giá hối đoái) tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường thường thực hiện tự do hoá lãi suất vì như đã nêu trên, tự do hoá lãi suất là hạt nhân của tự do hoá tài chính mà tự do hoá tài chính thành công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. So sánh giữa tự do hoá lãi suất và kiểm soát lãi suất cho thấy: Thứ nhất, kinh nghiệm cho thấy trong nền kinh tế thị trường khi tự do hoá lãi suất đúng hướng và theo đúng trình tự sẽ có những ưu việt cơ bản sau đây: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện trở lại để ổ định kinh tế vĩ mô. Góp phần làm cho các dòng vốn được tự do luân chuyển đến bất kì đâu tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp phải bất cứ một sự ngăn cản phi kinh tế nào. Tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh có hiệu quả. Thâm hụt ngân sách giảm Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trường, hay nói cách khác, nó phản ánh chính xác gia svốn trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư. Đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính. Góp phần làm cho thị trường tài chính chính thức phát triển và thị trường tài chính ngầm không có điều kiện phát triển. Kích thích cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính, cải thiện chất lượng cung ứng các dịch vụ tài chính. Thứ hai, khi lãi suất bị kiểm soát quá chặt chẽ trong một thời gian dài sẽ gây ra những thiệt hại tổng thể cho nền kinh tế, khuyến khích sự vay mượn lòng vòng, trốn tránh sự kiểm soát, dẫn tới không hiệu quả, cụ thể: Trong trường hợp các ngân hàng buộc phải cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường dưới một sức ép nào đó và phải huy động với lãi suất cao thì chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra sẽ không đẩm bảo bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng. Từ đó tính bền vững (đặc biệt bền vững về mặt tài chính) không đảm bảo. Như thế, các ngân hàng sẽ không phát triển. Mặt khác, khi phải cho vay với lãi suất thấp và huy động vốn cho vay với mức lãi suất thấp để đẩm bảo bù đáp chi phí, lãi suất thấp sẽ không khuyến khích được người dân duy trì nguồn vốn tiết kiệm của mình ở trong nước, dễ xảy ra tình trạng Đô La hoá ... và cuối cùng kìm hãm sự tăng trưởng các khoản tiết kiệm và giảm hiệu quả đầu tư. Kinh nghiệm cho thấy, ở những nước có hệ thống ngân hàng bị kiểm soát một cách chủ quan thì lãi suất cho vay thường tăng nhưng lãi suất tiền gửi lại không tăng và phần chênh lệch lại bị ngay tính kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng ngốn hết. Khi kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ sẽ khuyến khích sự hình thành những công cụ tài chính và các trung gian tài chính không chính thức phát triển (và không bị kiểm soát) để cạnh trạnh với các công cụ tài chính và các trung gian tài chính chính thức bị kiểm soát. Trong trường hợp lãi suất tăng ở mức quá cao, tuy tiết kiệm tăng lên nhưng sẽ làm đầu tư của nền kinh tế giảm xuống, từ đó tổng cầu của nền kinh tế sẽ giảm và lạm phát cũng có thể sẽ giảm nhưng đi liền với nó là công ăn việc làm sẽ giảm và thu nhập cũng giảm theo bởi vì khi lãi suất tăng, ngân hàng sẽ làm tăng chi phí và giảm nhu cầu trong nước trực tiếp, dòng vốn từ bên ngoài đổ vào nhiều do kết quả của việc tăng lãi suất, từ đó làm tăng giá đồng tiền trong nước. Bởi vậy, làm giảm nhu cầu bên ngoài đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước và các khu vực bị ảnh hưởng tiêu cực của chính sách này tăng lên. Ngược lại khi duy trì lãi suất cho vay quá thấp sẽ làm giảm lãi suất tiền gửi (trong đó có tiết kiệm), từ đó không khuyến khích tiết kiệm và kéo theo hạn chế nguồn tài trợ lớn. Như vậy dẫn đến sai lầm trong việc phân bổ nguồn lực, đồng thời tạo nhu cầu lớn về tín dụng, có thể có nhiều dự án không hiệu quả được lựa chọn đầu tư và tạo nên sự đầu tư vào nhiều lĩnh vực phi sản suất. Nếu lãi suất thấp chỉ dành cho một đối tượng cụ thể nào đó, có thể có hiện tượng cho vay không đúng đối tượng vì khi đó có thể xuất hiện những thông tin sai lệch để được ưu đãi. Trường hợp có quá nhiều đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi thì sẽ không còn sự ưu đãi nữa. Kinh nghiệm trước đây ở châu Mĩ La Tinh khi duy trì lãi suất quá thấp đã dẫn tới hiện tượng chảy máu vốn, thất thoát vốn vì dòng vốn luôn có xu hướng chảy vào nơi có lãi suất cao hơn. Nếu xét theo khía cạnh cạnh tranh, một số đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi sẽ có lợi thế, những đối tượng khác bất lợi, từ đó không khuyến khích cạnh tranh và không khuyến khích tăng trưởng kinh tế. 2.5. Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất thành công Qua đúc kết các kinh nghiệm cho thấy, ở bất cứ đất nước nào, tự do hoá lãi suất chỉ thành công khi có các điều kiện sau đây: Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng được các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hoá hoàn toàn lãi suất. Thứ hai, sự hiện diện đầy đủ các công cụ của chính sách tiền tệ hữu hiệu, sự hình thành các qui trình nghiệp vụ phù hợp đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Thứ ba, có môi trường pháp lí và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Có qui chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu, đảm bảo hạn chế và bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính. Thứ tư, hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ quan này đòi hỏi không chỉ có công nghệ hiên đại (máy móc thiết bị) mà còn phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lí ở nhiều khía cạnh. Thứ năm, sự thanh tra giám sát chặt chẽ của Ngân Hàng TW đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng. Thứ sáu, chọn thời điểm bắt dầu, tốc độ và lộ trình (trật tự sử dụng các công cụ) tự do hoá lãi suất phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hoá lãi suất ở một số nước vào những năm 80 cho thấy tự do hoá không đúng thời điểm sẽ làm tăng tính bất ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát và nợ nước ngoài, giảm sức sản suất trong nước . Thứ bảy, tự do hoá lãi suất gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái. 2.6. Kinh nghiệm của một số nước khi tự do hoá lãi suất Qua kinh ngiệm của một số nước cho thấy, tự do hoá lãi suất có xu hướng làm bộc lộ những yếu kém về thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể làm tổn hại đến hệ thống ngân hàng do những cơn sốc vĩ mô xuất phát từ bên ngoài và chính sách vĩ mô không thích hợp. Do vậy, cải cách lãi suất nhanh không gắn liền với việc củng cố qui chế phòng ngừa và khuôn khổ thanh tra thường kéo theo sự chấn động hệ thống tài chính. Cụ thể những yếu kém về thể chế và cơ cấu khu vực tài chính đó như sau: Các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt các ngân hàng có vốn tự có thấp bởi vì chế độ lãi suất linh hoạt, do cố gắng bù đắp các khoản thua lỗ, các ngân hàng bị đe doạ về khả năng thanh toán có xu hướng phân bổ tín dụng vào những dự án có lãi suất cao nhưng nhiều rủi ro mà không chú trọng đúng mức tới việc thu hồi vốn, xảy ra sự lựa chọn đối nghịch (đối với cả hệ thống tài chính và người đi vay). Hệ thống ngân hàng không đủ năng lực, thể chế và kĩ năng trong việc kiểm soát tiền tệ và kiểm soát rủi ro trong môi trường nới lỏng. Qui chế an toàn và phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng không thích hợp, đặc biệt là tỉ lệ vốn tự có trên tài sản có của các ngân hàng thấp. Hệ thống thông tin, công tác kế toán không rõ ràng và không thích hợp, kiểm toán không được quan tâm đúng mức, việc kiểm soát nội bộ các tổ chức tài chính không đầy đủ, bởi vậy không đáp ứng được yêu cầu công tác thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ. Sự đánh giá không đầy đủ của công chúng với rủi ro các loại hình tổ chức tài chính khác nhau. Khuôn khổ luật pháp không đầy đủ và không đủ sức cưỡng chế việc thực hiện các hợp đồng hay trong việc thực hiện luật phá sản, từ đó ảnh hưởng đến việc chấp hành kỉ luật tài chính của các bên vay. Thị trường tài chính chưa phat triển và chưa đa dạng hoá, từ đó dẫn đến sự tập trung qua mức vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác làm cho người vay chịu những rủi ro lãi suất quá mức , hoặc hạn chế họ tiếp cận với các nguồn vốn của các tổ chức tài chính chính thức. Hệ thống thanh toán ở trình độ thấp làm cho công tác quản lí tiền tệ kém hiệu quả, từ đó làm giảm chức năng của lãi suất trong viêc phân bổ các nguồn lực. Điều cần nhấn mạnh là kinh ngiệm quốc tế đã chứng minh rằng ở những nước chú trọng đến môi trường tài chính và thể chế hoạt động của tổ chức ngân hàng kể từ khi bắt đầu quá trình cải cách sẽ đề ra bước đi thích hợp trong cải cách lãi suất và đã đạt được những kết quả tốt hơn và tiến xa hơn rất nhiều so với các nước không làm như vậy. Theo quan điểm của ngân hàng thế giới, trong vòng hai thập kỉ vừa qua, các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò sống còn của chính sách lãi suất trong quá trình phát triển. Kinh ngiệm của các nước đang phát triển cho thấy rằng chính sách này nên đánh giá lại trong bối cảnh các chương trình điều chỉnh kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong các vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong các chiến lược điều chỉnh kinh tế ở các nước đang phát triển. Trong các chương trình tự do hoá tài chính với mục đích là loại bỏ kiểm soát lãi suất, vẫn chưa có một sự thoả thuận nào về một chiến lược tốt nhất để đạt được mục tiêu này. lãi suất nên tự do hoá từ từ hay trong một khoảng thời gian ngắn ? Điều kiện cần có để tự do hoá lãi suất là gì ? trình tự chính sách cho các nước có mức lạm phát thấp có khác với các nước có mức lạm phát cao hay không ? công tác quản lí, giám sát các ngân hàng quan trọng như thế nào ? Mặc dù không có một cơ chế cố định hay nói khác là một công thức để đạt được mục tiêu tự do hoá lãi suất, nhưng kinh nghiệm của các nước đang phát triển khi tự do hoá lãi suất cho thấy tầm quan trọng của trạng thái ban đầu của nền kinh tế, và qui chế thận trọng đối với hệ thống tài chính. Qua kinh nghệm của các nước đang phát triển có thể xác định được 4 chiến lược chính sách, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô ban đầu có ổn định hay không ổn định, và sự giám sát ngân hàng có đầy đủ hay không. Có thể tóm tắt các chiến lược đó như sau: Chiến lược 1: Trong đó sự bất ổn định kinh tế vĩ mô kết hợp với việc giám sát ngân hàng yếu kém Chiến lược 2: Trong đó kết giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô, sự mạo hiểm của ngân hàng (ngân hàng cho vay với độ rủi ro cao) và sự giám sát của hệ thống ngân hàng có hiệu quả. Chiến lược 3: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định, nhưng tính mạo hiểm của các ngân hàng đã làm nảy sinh rủi ro do sự giám sát không đầy đủ. Chiến lược 4: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ. 4 chiến lược tự do hoá lãi suất ở các nước đang phát triển theo mô hình kinh tế vĩ mô ban đầu và việc giám sát ngân hàng Trình tự cải cách Điều kiện ban đầu trong nước Sự bất ổn kinh tế vĩ mô kết hợp với giám sát ngân hàng yếu kém Kết hợp giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô và sự giám sát của ngân hàng có hiệu quả Nền kinh tế vĩ mô ỏn định và hệ thống giám sát ngân hàng không đầy đủ Nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ Bước thứ nhất ổn định nền kinh tế và tăng cường giám sát ngân hàng trong khi điều chỉnh lãi suất ổn định nền kinh tế và duy trì giám sát bắt đầu dần dần thả nổi lãi suất Duy trì ổn định kinh tế và tăng cường giám sát, trong khi nâng cao giám sát, tạm thời điều chỉnh lãi suất Duy trì ổn định kinh tế và giám sát, có thể đồng thời thả nổi lãi suất Bước thứ hai Thả nổi lãi suất Thả nổi lãi suất Thả nổi lãi suất Nếu xét về lí thuyết, đối với tất cả 4 trường hợp phải đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô và việc giám sát ngân hàng chặt chẽ trước khi thả nổi lãi suất hoàn toàn. thả nổi hoàn toàn lãi suất và đồng thời chỉ có thể thành công trong một trường hợp duy nhất đó là: nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát có hiệu quả. Trong 3 trường hợp còn lại, lãi suất được điều chỉnh và quản lí mềm dẻo nhằm đạt được mức lãi suất thực dương phải là qui tắc quan trọng trong việc dự đoán lợi ích đầy đủ từ ổn định kinh tế, cải tiến sự giám sát ngân hàng, hoặc cả từ hai yếu tố. Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 ở Achentina, Chilê và Uru goay, kinh nghiệm cho thấy: cả ba nước đều mất cân đối kinh tế vĩ mô trầm trọng khi cải cách lãi suất và tự do hoá tài chính (chiến lược thứ nhất). Tỉ lệ tăng sản lượng, tiết kiệm, đầu tư đều thấp, tỉ lệ lạm phát cao, thâm hụt cán cân vãng lai với nước ngoài lớn so với thu nhập quốc dân. Các nước này bỏ hoàn toàn và đột ngột qui định về lãi suất cho vay tối đa cũng như kiểm soát tín dụng, chính phủ nới lỏng kiểm soát đối với cơ cấu ngân hàng độc quyền ... Kết hợp giữa việc kiểm soát lỏng lẻo và một môi trường vĩ mô không ổn định càng làm tăng thêm tính mạo hiểm trong hệ thống ngân hàng. Chiến lược này làm tăng nhanh ngay lập tức lãi suất thực đối với tiền gửi và tiền vay. Trong thực tế, các ngân hàng đã tăng lãi suất cho vay và chấp nhận nhiều rủi ro hơn. Lãi suất quá cao đã buộc nhiều người vay đáng tin cậy không giám chấp nhận rủi ro, phải từ bỏ thị trường và chỉ còn lại những khách hàng kém tin cậy hơn (đây là sự lựa chọn đối nghịch) làm cho chất lượng các khoản vay ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn nữa, để bù đắp chi phí đi vay cao hơn, khách hàng có thể chấp nhận những dự án nhiều rủi ro (đây là vấn đề rủi ro đạo đức). Các công ti chấp nhận rủi ro phải đương đầu với sự ế ẩm. Kết hợp các yếu tố giám sát không đầy đủ và bất chắc kinh tế vĩ mô đã khến các ngân hàng trở nên quá liều lĩnh, cấp tín dụng cho các công ti ít có khả năng trả nợ. Các khoản vay không có hiệu quả tăng lên nhanh chóng và tất yếu là nhiều công ti bị đẩy đến con đường phá sản. và quá trình tự do hoá kết thúc một cách hỗn độn. Chính phủ Achentina đã phải thiết lập việc kiểm soát lãi suất, và cả ba chính phủ phải đối đầu với hiện tượng các ngân hàng bị phá sản lan rộng. ở Philipin và Thổ Nhĩ Kì trong những năm 80 cũng tương tự như vậy - bất ổn kinh tế vĩ mô kết hợp với sự liều lĩnh nghiêm trọng. Cả hai nước này đều tự do hoá lãi suất trong khi tình hình tài chính của khối doanh nghiệp rất yếu kém. Sau khi thực hiện tự do hoá tài chính, lợi nhuận của khối tư nhân và hệ thống ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng. Một qui chế quản lí yếu kém đã cho phép các ngân hàng không có khả năng thanh toán tránh phá sản bằng cách mời chào lãi suất tiền gửi quá cao, sử dung vốn mới huy động để thực hiện các khoản cho vay không hiệu quả. Mặt khác, các doanh nghiệp càng làm ăn thua lỗ lại càng tăng tỉ lệ vốn vay của mình dù cho chi phí đi vay đã tăng lên. Chính phủ Thổ Nhĩ Kì đã buộc phải khôi phục việc kiểm soát tỉ lệ lãi suất khi lãi suất thực tăng lên quá cao. Tình hình ở Malaisia lại hoàn toàn khác (chiến lược thứ tư). Các giai đoạn dài ổn định kinh tế và giám sát ngân hàng chặt chẽ đã tạo điều kiện cho chính phủ tự do hoá lãi suất hoàn toàn. Chỉ trong vòng không đầy 3 năm, ở đất nước này chẳng gặp phải hậu quả tai hại nào khi tự do hoá lãi suất. Lãi suất thực dương đạt được cùng với: lượng tín dụng tăng lên với lãi suất ổn định và danh mục các khoản cho vay có hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Những kinh nghiệm của các nước phát triển trong hai thập kỉ qua cho thấy, nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định và nếu ngân hàng giám sát không có hiệu quả, thì việc tự do hoá lãi suất nên tiến hành từ từ trong khi theo đuổi chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, chính phủ cần giám sát chặt chẽ hệ thống ngân hàng để giảm thiểu sự mạo hiểm. ở những nước nào điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn và công cuộc cải cách được triển khai dần dần thì không cần tái áp dụng chế độ kiểm soát lãi suất. Tự do hoá lãi suất cần được thực hiện song song ví cải cách kinh tế vĩ mô, nếu không sẽ xảy ra hiện tượng các dòng vốn không ổn định, tỉ lệ lãi suất cao, các công ti lâm vào cảnh khó khăn. Chương 3 Một số giải pháp tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam 3.1. Những thách thức trong điều hành công cụ lãi suất ở việt nam thời gian tới: Quá trình đổi mới nền kinh tế thời gian qua ở Việt Nam chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Các công cụ của chính sách kinh tế được sử dụng thời gian qua có thể nói đã phát huy hết tác dụng và sẽ ít phát huy tác dụng trước đòi hỏi phát triển nền kinh tế theo chiều sâu, trong đó công cụ lãi suất, cụ thể: Cơ chế điều hành lãi suất thời gian qua chỉ thích hợp đối với giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế và hiện nay vẫn còn rất nhiều tồn tại. Khi nền kinh tế phát triển ở trình độ cao hơn, hệ thống tài chính ngày càng được mở rộng, các tổ chức tín dụng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cho vay, nguồn vốn bên ngoài được huy động nhiều hơn, thị trường tài chính phát triển mạnh hơn, nếu cơ chế điều hành lãi suất vẫn duy trì như hiện nay sẽ không đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn phát triển mới. 3.2. Định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới Với những tồn tại về lãi suất thời gian qua và những thách thức hiện nay về điều hành lãi suất ở Việt nam, vấn đề được đặt ra là lãi suất ngân hàng cần tiếp tục cải cách để hoàn thiện như thế nào đẻ phù hợp đòi hỏi nền kinh tế thị trường, góp phần đẩy mạnh qua trình tự do hoá tài chính. Sự lựa chọn tốt nhất và mang tính tất yếu phải qua là cải cách lãi suất theo từng bước phù hợp để tiến tới mục tiêu cuối cùng là tự do hoá lãi suất. Lãi suất cung - cầu, vốn thị trường và sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng mà hình thành nên ... 3.3. Việt Nam hiện tại đã hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lãi suất hay chưa ? Ta biết rằng khi thực hiện tự do hoá lãi suất sẽ có những ưu việt như đã nêu trên. Và ở Việt nam, mặc dù với nhận thức mục tiêu cuối cùng kà tự do hoá hoàn toàn lãi suất, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Tự do hoá lãi suất, khi đó các mức và cơ cấu lãi suất sẽ do thị trường quyết định trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của các nước khi tự do hoá lãi suất và căn cứ thực trạng ở Việt Nam thì Việt Nam hiện nay không nên khuyến khích việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất ngay trong tương lai trước mắt với các lí do cơ bản sau đây: Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam tuy đã đạt được những thành tựu quan trong song chưa đủ bền vững và chắc chắn để chịu đựng ngay các tác động của việc tự do hoá lãi suất, chưa đủ sức chịu đựng được các cú sốc từ bên ngoài với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hoá lãi suất trong thời điểm hiện nay. Thứ hai, các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ (như lãi suất tái chiết khấu chưa có điều kiện áp dụng, nghiệp vụ thị trường mở chưa hoàn thiện ...) chưa được hoàn thiện để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế khi tự do hoá lãi suất. điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta vẫn phải sử dụng một số công cụ trực tiếp, chưa thể sử dụng ngay đồng loạt các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ như các nước phát triển mà phải dần dần từng bước chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp. Sự chuyển đổi sử dụng các công cụ (từ trực tiếp sang gián tiếp) đòi hỏi phải có thời gian ... Thứ ba, khuôn khổ pháp lí và qui chế phòng ngừa rủi ro chưa đầy đủ và đồng bộ, nếu tự do hoá lãi suất quá sớm sẽ không kiểm soát được. Thứ tư, tình hình tài chính và năng lực, thể chế trong đánh giá và kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại ở Việt nam chưa đủ vững chắc, nên tự do hoá lãi suất cũng có thể khuyến khích các ngân hàng chấp nhận cả những người đi vay mạo hiểm, từ đó ảnh hưởng tính lành mạnh của các ngân hàng thương mại. Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm soát của ngân hàng trung ương tuy đã trưởng thành một bước đáng kể nhưng chưa đủ mạnh và chưa bao quát hết sự đòi hỏi mới của nền kinh tế. Công tác kế toán, chưa nền nếp và chưa đạt tới các chuẩn mực quốc tế. Thứ sáu, bối cảnh kinh tế trên thế giới và trong khu vực hiện nay không thật thuận lợi đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vừa qua có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường tài chính trên thế giới và Việt Nam Từ những lý do nêu trên cho thấy, thời điểm hiện nay ở Việt Nam tự do hoá hoàn toàn lãi suất chưa phải là thời điểm thích hợp, hay nói khác không thể tự do hoá lãi suất một cách đột ngột hay nóng vội. Do vậy, cần duy trì kiểm soát tự do hoá lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn quá độ chuyển đổi nền kinh tế hiện nay. Muốn thực hiện thành công mục tiêu tự do hoá lãi suất ở Việt Nam cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trình tự và các bước đi thích hợp với hoàn cảnh, trình độ phát triển nền kinh tế Việt Nam và bối cảnh nền kinh tế thế giới mới đẳm bảo tự do hoá lãi suất thành công. Tuy nhiên chúng ta không thể ngồi chờ một cách bị động mà phải tạo ra những điều kiện và tận dụng những cơ hội, đề ra các chiến lược giải pháp để thực hiện thành công mục tiêu này. Và chúng ta có thể nhận thấy hiện nay ở nước ta cũng xuất hiện những thuận lợi ban đầu rất cơ bản để tiến tới hiện thực hoá mục tiêu này trong tương lai, đó là: Thứ nhất, luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã được ban hành và có hiệu lực từ tháng 10/1998. Có thể đây là thuận lợi lớn, từ đây hoạt động ngân hàng nói chung và công tác xây dựng, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ, việc giám sát hoạt đọng của các tổ chức tín dụng ... đã được nâng lên tầm pháp lí cao hơn trong đó luật Ngân Hàng Nhà Nước đã được xác định rõ vai trò, chức năng của Ngân Hàng Nhà Nước là cơ quan quản lí, xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia bằng những công cụ, công cụ lãi suất điều hành theo lãi suất cơ bản, lãi suất cấp vốn. Các tổ chức tín dụng đã có khung pháp lí khá đầy đủ. Thứ hai, chúng ta đã thu được những kinh nghiệm quí báu về xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nói chung và công cụ lãi suất nói riêng trong hơn 10 năm đổi mới hoạt động ngân hàng. Cải cách lãi suất thời kì này là hoàn toàn đúng hướng, thu được những thành quả to lớn và đã hướng dần tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Cải cách lãi suất chúng ta không vấp phải những sai lầm đáng tiếc. Thứ ba, chúng ta đã có được những bài học kinh nghiệm bổ ích của các nước trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là các nước đang phát triển trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính nói chung và tự do hoá lãi suất nói riêng, qua đây học tập được những kinh nghiệm thành công và cũng nhận biết được những vấp váp sai lầm và những cạm bẫy có thể gặp trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất. Thứ tư, hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã có sự trưởng thành đáng kể cả về qui mô hoạt động, chất lượng, kinh nghiệm quản lí và bước đầu hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Thứ năm, trình độ cán bộ hệ thống ngân hàng đã được nâng lên một bước đáng kể so với trước thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại và học hỏi kinh ngiệm bên ngoài. 3.4. Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam Xuất phát từ các cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, để hiện thực hoá mục tiêu tự do hoá lãi suất ở Việt Nam cần có các giải pháp và bước đi sau: Trước mắt, ở Việt Nam chưa đủ điều kiện tự do hoá lãi suất hoàn toàn, cần tạm thời duy trì kiểm soát lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn quá độ hiện nay, mà cụ thể là duy trì kiểm soát bằng trần lãi suất cho vay giữa các tổ chức tín dụng và ngân hàng là hợp lí hơn cả. Duy trì trần lãi suất sẽ hạn chế các ngân hàng thương mại yếu về tài chính (mà hiện nay ở Việt Nam, số ngân hàng vững mạnh về tài chính chưa nhiều) chấp nhận rủi ro qua mức, tránh cho các ngân hàng lựa chọn sai (lựa chọn đối nghịch) những đối tượng vay chấp nhận lãi suất cho vay cao nhưng chứa đựng nhiều rủi ro và ít khả năng trả nợ làm ảnh hưởng tính bền vững của hệ thống ngân hàng. Mặt khác trần lãi suất cũng đảm bảo rằng những khách hàng vay có những dự án lợi nhuận thấp nhưng ít rủi ro không bị loại ra khỏi thị trường. Như vậy, kiểm soát trần lãi suất trong giai đoạn quá độ hạn chế lựa chọn sai cho người vay, đảm bảo tính bền vững của hệ thống ngân hàng đồng thời cũng tạo ra sự linh hoạt nhất định cho các ngân hàng thương mại trong việc định giá các khoản cho vay. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy chỉ nên kiểm soát một trần lãi suất cho vay trung và ngắn hạn. Không nên qui định trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn trần lãi suất cho vay khu vực thành thị vì khu vực nông thôn có tỉ suất lợi nhuận thấp hơn khu vực thành thị. Tuy nhiên, để lãi suất được linh hoạt thì trần lãi suất cho vay không nên cứng nhắc mà cần được điều chỉnh thường xuyên bám sát theo diễn biến của tình hình lạm phát, tỉ giá hối đoái và sự biến động của lãi suất trên thị trường quốc tế. Nếu chúng ta tiếp tục sử dụng trần lãi suất cho vay ngoại tệ (về lâu dài không nên sử dụng trần lãi suất này) cần được xây dựng trên cơ sở tham khảo lãi suất tại các trung tâm tài chính ở khu vực như Singapore và phù hợp với chủ trương quản lí ngoại hối và tránh hiện tượng Đô la hoá. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện cho thị trường liên ngân hàng phát triển, đảm bảo cho lãi suất trên thị trường cho vay nóng liên ngân hàng phản ánh chính xác chi phí và cung - cầu vốn vay, để lãi suất này là một trong những cơ sở quan trọng để ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất. Về lâu dài, tự do hoá lãi suất cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, tiếp tục duy trì và giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trực hiện chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, cụ thể: Giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế bền vững cả về mặt lượng cũng như mặt chất. Kiểm soát lạm phát ở mức hợp lí, nên giữ vững lạm phát ở một con số. Tuy nhiên, không nên để xuất hiện hiện tượng giảm phát kéo dài, sẽ gây ra sự trì trệ trong nền kinh tế. Kiểm soát mức thâm hụt ngân sách, thực hiện nghiêm túc luật ngân sách. Mức thâm hụt ngân sách phải thấp và trong vòng kiểm soát được, mức thâm hụt này không nên vượt quá 5% so với GDP. Kiên trì thực hiện không phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách mà phải bù đắp bằng nguồn vay dân với hình thức phát hành trái phiếu hoặc vay nước ngoài. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải được xây dựng và điều hành đồng bộ, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, như vậy sẽ có sự cộng hưởng tác động vĩ mô. Hai chính sách này luôn đảm bảo tránh sự vận động ngược chiều. Thực hiện chủ trương phát huy nội lực, đảm bảo kiểm soát tỉ lệ nợ và cơ cấu nợ vay nước ngoài (nợ ngắn hạn và dài hạn) hợp lí. Tỉ lệ nợ vay nước ngoài tối đa không vượt quá 2 lần so với GDP. Kinh nghiệm cho thấy một số nước châu á vừa qua xảy ra khủng hoảng tài chính một phần do quản lí nợ nước ngoài yếu kém. Thực hiện đều đặn việc lập, phân tích, đánh giá cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam với các nước, đặc biệt là cán cân vãng lai để từ đó có những căn cứ quan trọng giúp xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ và dự báo xu hướng diễn biến của lãi suất. Thực hiện chính sách tỉ giá hối đoái hữu hiệu, linh hoạt phản ánh theo quan hệ cung cầu. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện và vận hành đúng bài bản các công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Như vậy chúng ta phải chuyển đổi hoàn toàn việc sử dụng các công cụ kiểm soát của chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp. Khi hoàn thiện các công cụ gián tiếp, điều quan trọng hơn là phải tạo đủ các điều kiện và môi trường chính sách cho các công cụ này hoạt động và phát huy tác dụng. Trường hợp các công cụ này đã được đưa vào sử dụng nhưng không đủ điều kiện và môi trường hoạt động mà đã bỏ kiểm soát lãi suất sẽ rất dễ gây ra hiện tượng hỗn độn và không kiểm soát được như ở một số nước nói trên đã mắc phải. Các công cụ trực tiếp sẽ được thay thế khi tự do hoá lãi suất gồm: hạn mức tín dụng, kiểm soát lãi suất (các mức lãi suất huy động, lãi suất cho vayhoặc trần lãi suất). Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ cần hoàn thiện hơn nữa ở Việt Nam gồm: Nghiệp vụ thị trường mở Lãi suất tái chiết khấu Để tạo môi trường chính sách tốt hơn cho các công cụ gián tiếp chính sách tiền tệ phát huy tối đa tác dụng, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau: Đối với nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Các giấy tờ có giá ngắn hạn bao gồm: tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân Hàng Nhà Nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Thị trường tiền tệ (thị trường tiền gửi, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường tín phiếu kho bạc) ở Việt Nam chậm phát triển do những ràng buộc về chính sách, thể chế và trình độ phát triển và hiệ tại, trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển của thị trường này là thiếu sự đa dạng các công cụ thị trường tiền tệ mà các ngân hàng có thể nắm giữ hoặc bán trên thị trường thứ cấp để quản lí vốn khả dụng của mình. Đặc biệt, đấu thầu tín phiếu kho bạc diễn ra không đều đặn, hơn nữa hiện tại chưa có thị trường thứ cấp tín phiếu kho bạc, lãi suất và thời hạn tín phiếu kho bạc chưa thật phù hợp, vì vậy chưa thật hấp dẫn các nhà đầu tư. Để nghiệp vụ thị trường mở có điều kiện áp dụng làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ hữu hiệu và linh hoạt hơn ở Việt Nam, cần thực hiện một số giải pháp sau: Phát triển thị trường tiền gửi, thông qua việc đa dạng hoá các loại hình huy động vốn với các thời hạn khác nhau và bảo đảm cho sự chuyển nhượng các chứng chỉ này. Tạo điều kiện cho thị trường liên ngân hàng (bao gồm thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng) phát triển và sôi động để là nơi các ngân hàng vay và cho vay lẫn nhau, đảm bảo cho các mức lãi suất vay nóng trên thị trường này phản ánh chính xác cung - cầu vốn trên thị trường. Mức lãi suất này có thể làm cơ sở cho ngân hàng nhà nước nắm bắt, dự báo và điều hành lãi suất. Đối với thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, tạo môi trường để sớm đưa thị trường thứ cấp vào hoạt động. Về phía Ngân Hàng Nhà Nước cần phải tham gia vào cả hai thị trường, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp (tức thị trường mua và bán các chứng khoán có từ trước). Do vậy phải cải tiến nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu kho bạc sao cho sớm ra đời thị trường thứ cấp, vì về phía các ngân hàng thương mại chỉ tích cực tham gia thị trường này khi có thị trường thứ cấp và thị trường thứ cấp chỉ được ra đời nếu: thứ nhất, số dư phát hành cao tạo ra khả năng thanh toán cho thị trường; thứ hai, thường xuyên cung ứng tín phiếu để các ngân hàng bổ sung tín phiếu đã bán ra; thứ ba, thời hạn tín phiếu ngắn để giảm rủi ro; và mức lợi nhuận của tín phiếu hợp lí. Đối với công cụ lãi suất tái chiết khấu: lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. Hiện tại lãi suất này chưa có điều kiện áp dụng, song để đưa công cụ này vào sử dụngtrước hết tạo cơ sở cho các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn ra đời và được phép lưu thông trên thị trường và chúng được các ngân hàng thương mại thực hiện chiết khấu khi người sở hữu có yêu cầu và khi cần thiết các ngân hàng thương mại có thể đem đến Ngân Hàng Nhà Nước tái chiết khấu. Mức lãi suất tái chiết khấu tăng hay giảm phản ánh ý đồ của Ngân Hàng Nhà Nước muốn thay đổi nhu cầu tiền vay từ Ngân Hàng Nhà Nước của các ngân hàng thương mại. Để đảm bảo cho các thương phiếu nói trên đủ điều kiện lưu thông trên thị trường ở Việt Nam cần có hành lang pháp lí cho việc phát hành và lưu thông công cụ này để vận hành công cụ lãi suất tái chiết khấu của Ngân Hàng Nhà Nước. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: cần qui định tỉ lệ, thời hạn, cơ cấu, dự trữ bắt buộc cho phù hợp với yêu cầu chính sách tiền tệ từng thời kì cần tăng hay giảm cung ứng tiền tệ, tránh sự cứng nhắc làm giảm hiệu lực của công cụ này. Thứ ba, hoàn chỉnh cơ sở pháp lí và qui chế phòng ngừa giám sát rủi ro, đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng có đầy đủ hành lang pháp lí trong các lĩnh vực hoạt động. Hiện nay mới chỉ có hai bộ luật ngân hàng và một số luật khác điều chỉnh hoạt động các ngân hàng, song còn thiếu một số luật điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng. Thứ tư, về giác độ của các tổ chức tín dụng, phải tự củng cố chất lượng hoạt động của mình theo các chuẩn mực quốc tế về các chỉ số hoạt động, cụ thể các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh luôn đảm bảo việc duy trì các tỉ lệ an toàn trong hoạt động như: Hoạt động trên cơ sở đủ mức vốn pháp định theo qui định của luật các tổ chức tín dụng và nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của chính phủ về việc ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Luôn chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn vốn phù hợp, đảm bảo kì hạn tài sản có luôn phù hợp với kì hạn tài sản nợ, đa dạng hoá các loại hình đầu tư, và dịch vụ để giảm thiểu rủi ro, duy trì đúng tỉ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn, giới hạn cho vay tối đa đối với một khách hàng của mỗi tổ chức tín dụng, tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỉ lệ khả năng thanh khoản ... theo các qui định của ngân hàng nhà nước dựa trên cơ sở hai bộ luật ngân hàng để luôn bảo đảm khả năng thanh toán, khả năng chi trả ... Thực hiện phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro từ chi phí hoạt động theo qui định cuả ngân hàng nhà nước để các tổ chức tín dụng có thể bù đắp được những rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh đảm bảo hoạt động lành mạnh có hiệu quả. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức này ra đời. Thực hiện những biện pháp trên bảo đảm tính an toàn hệ thống, tính bền vững tài chính cho các tổ chức tín dụng hoạt động trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó cũng cần tăng cường tính độc lập của ngân hàng thương mại quốc doanh để bảo vệ các ngân hàng này trước áp lực phải cho vay hoặc đáo nợ cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Thứ năm, ngân hàng nhà nước cần nỗ lực củng cố chức năng thanh tra giám sát và qui chế phòng ngừa của hệ thống tài chính để cải thiện chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự tuân thủ luật pháp trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng để mục tiêu cuối cùng cho hoạt động ngân hàng ổn định bền vững. Hoạt động thanh tra phải kịp thời phát hiện uốn nắn những sai lệch và xử lí nghiêm những vi phạm của các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng, để mục tiêu cuối cùng là đảm bảo tính an toàn hệ thống. Bên cạnh đó công tác hạch toán kế toán cần phải minh bạch, hoạt động của các tổ chức tín dụng cần phải qua kiểm toán đọc lập thường xuyên theo định kì mới đảm bảo tính trung thực trong báo cáo. Thứ sáu, thực hiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, qua đó giúp các tổ chức tín dụng từng bước hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Thứ bảy, đổi mới, củng cố và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, chỉ nên giữ lại những doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực công ích, những lĩnh vực nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải lành mạnh về tài chính và như vậy để bảo đảm tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp (đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước) phải có cơ cấu nguồn vốn hợp lí, phải qui định cụ thể tỉ lệ vốn tự có so với vốn vay ngân hàng, tỉ lệ vốn tự có so với vốn phát hành trái phiếu ... để các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn của mình, vốn vay ngân hàng hay vốn phát hành trái phiếu chỉ là nguồn vốn bổ sung trong hoạt động, từ đó giảm thiểu áp lực tăng lãi suất trong giai đoạn đầu thả nổi lãi suất. Bởi vì hiện nay, đa số các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay ngân hàng, như vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao và chứa đựng nhiều rủi ro cho ngân hàng. Thứ tám, tự do hoá lãi suất cần gắn liền tự do hoá tỉ giá hối đoái, tức bước đi của hai quá trình tự do hoá này cần có sự kết hợp nhịp nhàng và đồng bộ, tránh sự vận động lệch pha hay ngược chiều. Thứ chín, trong các bước đi tiến tới tự do hoá lãi suất luôn bám sát diễn biến tình kinh tế thị trường tài chính trên thế giới và khu vực châu á, biết tận dụng những thuận lợi, thời cơ trong môi trường kinh tế thế gới và né tránh những tác động xấu do diễn biến trên thị trường tài chính quốc tế có thể gây ra. Thứ mười, thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, quan tâm công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ toàn bộ hệ thống ngân hàng, ở cả cấp hoạch định chính sách, ở khâu tác nghiệp cụ thể ... Khi nào ở Việt Nam thực hiện đầy đủ các giải pháp theo đúng các trình tự nêu trên, khi đó chúng ta có thể tự do hoá hoàn toàn lãi suất. 3.5. Một số kiến nghị Để cụ thể hoá các mục tiêu trên, chúng ta phải thực hiện một số biện pháp cụ thể sau: Thứ nhất, không nên tự do hoá lãi suất nóng vội trong thời điểm hiện nay, cần duy trì trần lãi suất. Trong khi tạm thời duy trì trần lãi suất, cần sớm xoá bỏ phân biệt hai trần lãi suất giữa thành thị và nông thôn, chỉ nên thực hiện một trần lãi suất. Trần lãi suất và lãi suất tái cấp vốn cần xử lí sao cho có quan hệ hữu cơ, tránh tồn tại độc lập. Mặt khác, tạo điều kiện cho thị trường ngoại hối phát triển để sớm xoá bỏ trần lãi suất cho vay ngoại tệ mà chỉ thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam. Thứ hai, về hoàn thiện công cụ thị trường mở của chính sách tiền tệ, cần cải tiến việc đấu thầu tín phiếu kho bạc để sớm cho ra đời thị trường thứ cấp tín phiếu kho bạc như: Tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc thường xuyên hơn Thời hạn tín phiếu chỉ nên qui định trong vòng 6 tháng, tăng tính hấp dẫn và giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Tránh sự can thiệp vào lãi suất tín phiếu mà để cho thị trường quyết định, như vậy mới khuyến khích các nhà đầu tư. Thứ ba, khẩn trương xây dựng luật hoặc pháp lệnh về thương phiếu tạo điều kiện môi trường pháp lí để các thương phiếu có điều kiện lưu thông trên thị trường, các ngân hàng thương mại có thể chiết khấu chúng khi cần có thể tái chiết khấu tại Ngân Hàng Nhà Nước, khi đó Ngân hàng nhà Nước có thể sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu trong điều hành chính sách tiền tệ. Thứ tư, thực hiện lại cơ cấu hệ thống ngân hàng và tài chính, củng cố và sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần để đảm bảo tính an toàn hệ thống. Bởi vì, hiện tại ngân hàng ở Việt Nam đã tương đối nhiều song năng lực tài chính và chất lượng hoạt động còn kém, nhiều ngân hàng cổ phần khó có điều kiện trụ nổi trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức này phải đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, bởi vì hoạt động của các ngân hàng mang tính đặc thù, nếu một ngân hàng hoạt động yếu kém dẫn đến phá sản dễ xảy ra tình trạng lan truyền do yếu tố tâm lý và sẽ ảnh hưởng tính bền vững của cả hệ thống ngân hàng. Mặt khác, do hiện nay các ngân hàng quốc doanh của Việt Nam chiếm thị trường tương đối lớn, cần có quy chế hạn chế sự độc quyền của các ngân hàng này, tránh sự cạnh tranh thiếu lành mạnh có thể xảy ra khi các ngân hàng quốc doanh có sự thoả thuận ngầm trong chi phối hoạt động ngân hàng, làm chậm sự phát triển thị trường tài chính. Thứ năm, củng cố chức năng và vai trò của hiệp hội ngân hàng để chức này đủ sức bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doang có nhiều rủi ro của nền kinh tế thị trường. Thời gian qua, tuy tổ chức này đã có những đóng góp ban đầu nhất định song còn nhiều hạn chế. Thứ sáu, một điều cần lưu ý là, Ngân Hàng Nhà Nước chỉ nên phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước khi thị trường tín phiếu kho bạc phát triển đầy đủ và chỉ phát hành khi có nhu cầu thực sự cần thiết. Nếu tín phiếu kho bạc phát hành thường xuyên thì hoàn toàn không cần phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước, hay nói cách khác việc phát hành tín phiếu Ngân Hàng Nhà Nước trên cơ sở chọn lọc kĩ càng và cân nhắc kĩ lưỡng. Trên đây là một số kiến nghị, giải pháp cơ bản để tiến tới thực hiện thành công mục tiêu tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta tin rằng, khi nào Việt Nam thực hiện đầy đủ các giải pháp theo đúng trình tự các bước đi nói trên, khi đó mục tiêu tự do hoá lãi suất sẽ trở thành hiện thực. Kết luận Đề án đã tập trung phân tích giải quyết những vấn đề cơ bản được đặt ra đối với qua trình tự do hoá lãi suất phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước ở Việt Nam trên cơ sở Ngân Hàng Nhà Nước sẽ điều hành chính sách lãi suất theo nguyên tắc gián tiếp, đảm bảo cho quá trình tự do hoá lãi suất được an toàn trôi chảy và có hiệu quả. Đề án đã thực hiện một số nhiệm vụ sau: Trình bày có hệ thống những vấn đề lí luận về lãi suất nói chung và tự do hoá lãi suất nói riêng, làm sáng tỏ cơ sở khoa học mang tính tất yếu phải tiến tới tự do hoá lãi suất, đưa ra các điều kiện và bước đi thích hợp để hiện thực hoá mục tiêu này trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đề án đã tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có trình độ phát triển gần giống Việt Nam khi thực hiện tự do hoá lãi suất để rút ra những bài học, những kinh nghiệm bổ ích về sự thành công cũng như những thất bại sai lầm, những cạm bẫy. Tất cả nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất khi thực hiện tự do hoá lãi suất. Cuối cùng, đề án đã đề xuất một định hướng về lãi suất, một hệ thống các kiến nghị và giải pháp đồng bộ đứng trên giác độ vĩ mô và vi mô nhằm mục tiêu thực hiện thành công tự do hoá lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới. Những kiến nghị và giải pháp trên dựa trên cơ sở lí luận khoa học và kinh ngiệm của các nước trên thế giới cũng như kinh nghiệm thực tiễn điều hành lãi suất ở Việt Nam thời gian qua. Danh mục tài liệu tham khảo Tác giả (cơ quan soạn thảo) Tên tài liệu 1. Quĩ tiền tệ quốc tế Báo cáo thường niên 1997, 1998, ngày 14/9/1998 2. Ngân hàng nhà nước Báo cáo thường niên năm 1994, 1995, 1996, 1997, 1998. 3. Ngân hàng thế giới Các hệ thống tài chính và sự phát triển, WB xuất bản tháng 10/1990 4. Dự án Việt - Đức Chính sách ngân hàng trung ương trong nềnkinh tế chuyển đổi - tài liệu tại hội thảo Hà Nội ngày 19 và 20/5/1997 5. David Begg Kinh tế học tập 1 và 2, nhà xuất bản giáo dục đại học kinh tế quốc dân 1992 6. Cơ quan phát triển Liên Hiệp Quốc Đông á: từ thần kì đến khủng hoảng, những bài học có ích cho Việt Nam - Báo cáo chuyên đề của UNDP Việt Nam 7. Frederic S.Mishkin Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Nhà xuất bản kĩ thuật, Hà Nội 1995 8. Ngân hàng nhà nước Hệ thống hoá văn bản pháp luật về ngân hàng tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 9. Vụ quan hệ quốc tế, NHNN Kinh tế thế giới và thị trường vốn quốc tế - Tài liệu chuyên khảo tháng 11/1996 10. Ngân hàng thế giới Việt Nam văn bản về chính sách tài chính, chính sách lãi suất -1997 11. Ngân hàng thế giới Việt Nam đẩy mạnh cải cách để tăng trưởng Báo cáo kinh té 31/10/1997

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0867.doc
Tài liệu liên quan