Tư tưởng canh tân, cải cách được hình và phát triển do yêu cầu của tiến trình lịch sử. Là một bộ phận hình thành lịch sử tư tưởng Việt Nam, nó hoàn toàn phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử dân tộc qua mỗi thời kì nhất định. Trong quá trình phát triển tư tưởng cải cách thời kì Phong kiến thế kỉ XIV- XV, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly có vị trí đặc biệt, nó mở đầu cho bước phát triển mới của nhà nước Phong kiến trung ương tập quyền.
Tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly xuất hiện vào cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV, đúng vào lúc nước ta đứng trước hai đòi hỏi lớn: một là, phải loại bỏ vai trò của quí tộc nhà Trần (lúc này đã suy thoái) trên vũ đài chính trị và tư tưởng; hai là, mở đường cho đất nước đi lên theo một xu hướng mới hơn, tiến bộ hơn. Tư tưởng của Hồ Quý Ly đã tấn công vào toàn bộ cơ sở chính trị, kinh tế và xã hội của nhà Trần, đó là mặt tích cực nhất, táo bạo nhất và cũng là thành công lớn nhất của Hồ Quý Ly. Song tư tưởng của Hồ Quý Ly cũng có những điểm chưa hợp lý và không được lòng dân dẫn đến việc triều Hồ đã không thể tập hợp và huy động được sức mạnh cũng như trí tuệ của toàn dân vào sự nghiệp giữ nước. Đây cũng là một trong những lý do khiến cho triều Hồ sụp đổ và nước ta bị rơi vào tay nhà Minh.
Trải qua bảy thế kỉ, nội dung và tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly được lịch sử ghi nhận như một chứng tích tiến bộ của sự phát triển lịch sử xã hội. Với ý nghĩa đó, thực hiện tiểu luận với đề tài: “Tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly”, tác giả tập trung đi vào nghiên cứu những nội dung trong tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, từ đó khẳng định những cống hiến của tư tưởng cải cách ấy đối với lịch sử nước nhà, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3044 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng là 10 mẫu. Người nào có nhiều nếu có tội, thì cho tùy ý được lấy ruộng để chuộc tội, bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa phải hiến cho nhà nước”((): Đại Việt Sử kí toàn thư, tập II, NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, tr. 134.
). Điều này đã bị các chủ điền trang phản ứng quyết liệt.
Là một nước nông nghiệp nên vấn đề ruộng đất cùng với những chính sách liên quan đến nông nghiệp rất được Hồ Quý Ly coi trọng. Việc đề ra chính sách hạn điền trên cơ sở tiến hành tổng đo đạc lại ruộng đất của dân là một việc làm thiết thực, có ý nghĩa quan trọng để nhà nước có thể nắm chắc và biết rõ diện tích ruộng đất trong cả nước, lập đầy đủ được danh sách ruộng đất và các chủ sở hữu một cách chính xác. Việc làm này giúp nhà nước quản lý tốt đất đai và đảm bảo việc thực hiện chính sách thuế một cách công bằng, hợp lý.
Với việc thực hiện chính sách hạn điền, đánh trực tiếp vào quý tộc Trần nhằm giảm quyền lực của tầng lớp này và xóa bỏ kinh tế điền trang, nhà Hồ muốn giành lấy thực lực về ruộng đất, giải phóng một phần nông nô, nô tì mà trước đó lệ thuộc vào các điền trang, để trở thành nông dân tự do, là thần dân của nhà nước, tăng nguồn nhân lực để phát triển sản xuất nông nghiệp và bổ sung binh sĩ cho quan đội. Đây là một việc làm có ý nghĩa tích cực, tiến bộ. “Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, nhà nước công khai dùng biện pháp truất hữu, can thiệp trực tiếp vào quyền sở hữu tư nhân, đặc biệt là đối với ruộng đất tư vô giới hạn của tầng lớp quý tộc đang cầm quyền”((): Phạm Đăng Thanh – Trương Thị Hòa: Lịch sử các định chế chính trị và pháp quyền Việt Nam, tập I, in lần thứ 2, NXB-CTQG, Hà Nội, 1997, tr. 317.
).
Bên cạnh mặt tích cực, tiến bộ, chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly cũng bộc lộ hạn chế. Ruộng đất đã được tập trung phần lớn vào tay nhà nước, song việc tiếp theo đó là phân phối lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho kinh tế địa chủ tư hữu phát triển thì Hồ Quý Ly không thực hiện được. Đây là điểm đáng tiếc, làm hạn chế tính tiến bộ của chính sách này.
Chính sách hạn nô
Cuối vương triều Trần, lực lượng nông nô, nô tì trong các điền trang, thái ấp, trong các gia đình vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần tăn lên đông đảo. Cuộc sống lao dịch nặng nề đã làm bùng lên các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi của nông nô, nô tì, làm cho sản xuất đình đốn, xã hội bất an, đồng ruộng bị bỏ hoang, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Xuất phát từ thực trạng đó, sau khi thiết lập được một năm, nhà Hồ đã tiến hành chính sách hạn nô: “Lập phép hạn chế gia nô, chiếu theo phẩm cấp được có số lượng khác nhau, còn thừa phải dâng lên, mỗi tên được trả 5 quan tiền. Người nào đáng được có gia nô phải xuất trình chúc thư ba đời…”((): Đại Việt Sử kí toàn thư, tập II, NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, tr.201.
). Được ban hành sau chính sách hạn điền 4 năm, nhưng chính sách hạn nô không tách khỏi chính sách hạn điền, và là một trong những bộ phận quan trọng hợp thành tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly.
Cũng như chính sách hạn điền, chính sách hạn nô của nhà Hồ đánh trực tiếp vào quý tộc tôn thất nhà Trần, hạn chế một mức đáng kể số lượng nông nô, nô tì trong các điền trang, thái ấp, chuyển hàng chục vạn nông nô, nô tì ra khỏi các gia đình của quý tộc Trần, biến họ thành quan nô của nhà nước phong kiến, bảo vệ quyền kiểm soát dân đinh của vương triều Hồ, củng cố quyền lực của chính quyền mới được thiết lập. Mặt khác, chính sách này đã phần nào giảm bớt tình trạng đồng ruộng bị bỏ hoang, sản xuất nông nghiệp nhờ đó mà ổn định.
Tuy vậy, việc Hồ Quý Ly đề ra chính sách hạn nô không nhằm giải phóng hoàn toàn người lao động, mà xuất phát từ nhu cầu của muốn bảo vệ quyền lực của vương triều mình. Những nông nô, nô tì được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của quý tộc nhà Trần nhưng lại phải phục dịch cho nhà nước phong kiến Hồ: xây thành, đào hào đắp lũy, làm đường sá, cầu cống, xây dựng nhà cửa, cung điện…, tức là nông nô chỉ bị đổi chủ chứ không hề được giải phóng. Đây là điểm tiến bộ nhưng cũng chính là điểm hạn chế của chính sách này. Việc làm này của nhà Hồ đã tạo thêm sự đối nghịch của một bộ phận dân chúng với triều đại mình.
Chính sách phát hành tiền giấy
Cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV ở thời Trần, chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển kéo theo sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Để thỏa mãn nhu cầu trao đổi của nền kinh tế đang phát triển, Hồ Quý Ly đã chủ trương phát hành tiền giấy, thay cho đồng tiền kim loại. Đây là một cải cách táo bạo. Với mong muốn dùng tiền giấy để giải quyết những nguy cơ khủng hoảng về tài chính trong những năm cuối của vương triều Trần, đồng thời việc thu đổi nhanh gọn, cương quyết, triệt để chính sách này của Hồ Quý Ly đã đáp ứng được nhu cầu cấp thiết về việc dùng đồng để chế tạo vũ khí, phục vụ cho an ninh quốc phòng. Đại Việt sử kí toàn thư có ghi: “Mùa hạ, tháng 4 bắt đầu phát Thông bảo hội sao, in xong ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy”((): Đại Việt Sử kí toàn thư, tập II, NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, tr.189.
). Tiền giấy do Hồ Quý Ly phát hành gồm có 7 loại: 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan, mỗi loại mệnh giá tiền giấy đều có biểu tượng hình vẽ riêng để dễ phân biệt khi sử dụng cho mọi đối tượng, những ai không biết chữ thì nhìn hình vẽ mà phân biệt giá trị từng loại tiền. Để đảm bảo cho chính sách này được thực hiện tốt, nhà Hồ đã đưa ra những biện pháp cứng rắn, buộc tất cả mọi người phải thực hiện : “cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa tiền, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền giả”((),(3): Đại Việt Sử kí toàn thư, tập II, NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, tr.154.
). “Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch thu”(
).
Sự ra đời của chính sách phát hành tiền giấy đã đánh dấu bước chuyến biến của nền văn minh nước nhà, đánh dấu sự tiến bộ trong lịch sử tiền tệ Việt Nam, cho thấy tư tưởng kinh tế của Hồ Quý Ly đã đi trước nhiều nhân vật lịch sử cùng thời, và nhiều thế kỉ sau đó cũng chưa có tư tưởng kinh tế nào vượt trội hơn ông. Nếu như không có cuộc xâm lược của nhà Minh, việc sử dụng tiền giấy sẽ có thời gian thể nghiệm lâu hơn. Tuy nhiên, do chưa được tính toán đầy đủ về nhu cầu tiền tệ của thị trường nên nhà Hồ đã gặp sự phản kháng không nhỏ của các tầng lớp xã hội.
2.1.3. Cải cách về văn hóa – tư tưởng – giáo dục
Cải cách về giáo dục
Với tầm nhìn của một nhà cải cách, vấn đề giáo dục được Hồ Quý Ly rất chú ý quan tâm vì ông rất cần đào tạo một tầng lớp trí thức khoa bảng có đầu óc thực tế hơn để phục vụ cho vương triều mới.
Quá trình hình thành và thực thi tư tưởng cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly diễn ra trong suốt 15 năm, từ năm 1392 đến năm 1406. Tư tưởng cải cách giáo dục của ông lần đầu tiên đã được thể hiện thông qua việc biên soạn, dịch thuật và giải thích các sách kinh điển của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh. Các sách như: Minh đạo, Quốc ngữ Thi nghĩa, dịch thiên Vô dật trong Kinh thư ra chữ Nôm đã lần lượt được ra đời với nội dung giáo dục mang tính thực tiễn và sáng tạo. Hồ Quý Ly không xem những kinh điển trong Nho giáo chuẩn mực nhất nhất phải tuân theo. Việc ông sử dụng chữ Nôm với ý nghĩa là chữ quốc ngữ đã thể hiện ý thức dân tộc sâu sắc của ông.
Để phát triển nền giáo dục có tính đại chúng, Hồ Quý Ly đã mở rộng việc học đến các địa phương. Với chính sách khuyến học này, một hệ thống trường lớp đã được thiết lập ở khắp các phủ châu, kết quả là năm 1405, nhà Hồ đã tuyển được 170 người đỗ đạt để bổ sung cho bộ máy quan chức nhà nước.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những nội dung của qui chế thi cử các triều đại trước, Hồ Quý Ly đã đề ra những nội dung mới để những người đỗ đạt có đủ năng lực giải quyết những vấn đề thiết thực của xã hội đương thời bằng cách hai lần sửa đổi qui chế thi cử. Lần thứ nhất vào năm 1396, với cương vị là Nhập nội phụ chính thái sư, ông đã qui định cách thức thi chọn nhân tài, bãi bỏ phép viết ám tả cổ văn, dùng thể văn bốn kì để tổ chức thi Hương và thi Hội, mỗi kì thi cách nhau một năm. Lần thứ hai vào năm 1404, với tư cách là Thái thượng hoàng của triều Hồ, ông đã bổ sung thêm kì thi viết chữ và làm tính. Chỉ với việc nhận thức tầm quan trọng của toán học đối với việc phát triển tư duy lôgic, khoa học, Hồ Quý Ly đã cho thấy cái nhìn mới mẻ, tiến bộ của mình. Tuy nhiên, sau khi triều Hồ sụp đổ, các triều đại phong kiến tiếp theo đã không đưa toán học vào việc đào tạo và thi cử nên ngành khoa học này không có điều kiện tiếp tục phát triển trong một thời gian dài.
Mặc dù mới chỉ biểu hiện dưới các chiếu chỉ và những công việc cụ thể mà chưa tạo thành hệ thống nhưng những tư tưởng cải cách về giáo dục của Hồ Quý Ly trong khoảng hơn mười năm cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV đã đạt được những kết quả nhất định đáng ghi nhận. Với 190 nhân tài được tuyển chọn trong các kì thi do triều Hồ tổ chức, có những nhân vật lịch sử mà tên tuổi, tài năng, đức hạnh của họ vẫn mãi mãi được người đời sau nể phục: Nguyễn Trãi, Hồ Nguyên Trừng… Mong muốn xây dựng một nền giáo dục Nho học mang bản sắc dân tộc, gắn với nhu cầu của thực tiễn và lịch sử là những điểm son tiêu biểu, tiến bộ trong tư tưởng và hành động thực tiễn của Hồ Quý Ly. Đánh giá về tư tưởng này, Phạm Cúc trong tác phẩm “Hồ Quý Ly nhà cải cách tiến bộ” đã viết: “Về cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly, đưa ra vẫn gợi cho ta nhiều bài học có ích về cải cách giáo dục, và chắc đây là mặt có nhiều thành công nhất của Hồ Quý Ly trong cuộc đời hoạt động chính trị đầy mưu lược, táo bạo và có lắm mâu thuẫn của ông”((): Hồ Quý Ly nhà cải cách tiến bộ, NCLS số 264 VKHXHVN – Viện Sử học, Hà Nội, 1992, tr.37.
).
Cải cách về tư tưởng
Không rập khuôn, máy móc, mà trên cơ sở phê phán, bài bác các tư tưởng của các nhà kinh điển Nho giáo, Hồ Quý Ly vận dụng có chọn lọc những tư tưởng chính trị của Nho giáo vào công việc cai trị cụ thể bằng cách xem xét, phân loại để vận dụng những gì cần thiết và giải thích theo tư tưởng riêng của mình chứ không theo hệ thống tư tưởng của các nhà kinh điển Nho giáo.
Nếu như Kinh thư của Nho giáo nhằm truyền bá lí tưởng chính trị, đề cao vai trò của thiên tử để các chư hầu phải phục tùng, mong muốn đạt được một nền thái bình thịnh trị. Thì Kinh thư trong tư tưởng Hồ Quý Ly chỉ chú ý đến thiên Vô dật, là thiên tập hợp những minh chứng khuyên vua chúa, ông dùng để dạy vua sau khi đã gạt bỏ những mô hình khuôn mẫu Đường – Ngu – Tam đại, chỉ tập trung vào những vấn đề cốt yếu mà người đứng đầu phải làm, phải hành động. Không những vậy, tháng 11 năm 1396, Hồ Quý Ly còn dịch Kinh thi ra chữ Nôm và viết bài tựa giải thích, tên sách là “Quốc ngữ Thi nghĩa”, viết theo ý nghĩa canh tân của ông, chứ không theo lời tựa của Chu Tử, một Nho gia đời Tống, chuyên chú giải sách kinh điển của Nho giáo.
Trước Hồ Quý Ly và sau ông một thời gian dài, chưa có nhà nho nào tiếp thu kinh điển của Nho giáo mà có phê phán, hoài nghi, lí giải và sử dụng nó theo tư tưởng và thực tiễn của triều đại mình như vậy, điều đó cũng thể hiện ý thức độc lập và sáng tạo của ông trong việc vận dụng kinh điển Nho giáo vào công cuộc cai trị đất nước, phản ánh ý chí của người đứng đầu nhà nước đương thời, không chịu chấp nhận những khuôn mẫu có sẵn của ý thức hệ Nho giáo cổ điển. Việc Hồ Quý Ly soạn sách Minh đạo và công kích một cách không khoan nhượng vào phái Tống Nho còn chứng tỏ một trình độ học vấn khá uyên thâm và sâu sắc của ông, đó cũng chính là bản lĩnh của người cầm quyền, dám nói, dám hành động để tự khẳng định mình và triều đại của mình.
Cải cách về văn hóa
Với ý thức độc lập tự chủ thể hiện một tinh thần dân tộc sâu sắc, Hồ Quý Ly đã tiếp thu có chọn lọc và phê phán nền văn hóa của phương Bắc, thể hiện mong ước xây dựng một nền văn hóa riêng của quốc gia, của triều đại mình, triều đại Hồ Quý Ly.
Từ lâu, chữ Hán vốn được coi là văn tự chính thức của nhà nước, được dùng để dạy học trong các trường lớp từ địa phương đến trung ương. Tuy nhiên, Hồ Quý Ly muốn phá vỡ tiền lệ ấy. Vì vậy, ông đã sử dụng chữ Nôm với mong muốn có một văn tự và chữ viết riêng của dân tộc, không lệ thuộc vào chữ Hán. Đây là một việc làm mà trước đó và cùng thời chưa ai làm được. Sau Hồ Quý Ly, mãi đến hơn bốn trăm năm sau, chữ Nôm dưới mới được sử dụng lại dưới triều vua Quang Trung nhưng với mức độ cao hơn khi nó được dùng trong văn bản chính thức của nhà nước. Điều này đã cho thấy nhận thức vượt thời đại của Hồ Quý Ly, ông đã có những cống hiến tích cực vào quá trình “Việt hóa” nền văn học thành văn của dân tộc ta, trước hết là ngôn ngữ văn học thuần Việt. Sự mở đường này của Hồ Quý Ly đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của chữ Nôm trong nền văn học nước nhà ở những thế kỉ tiếp theo với những tên tuổi lớn: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương….
Cùng với việc đề cao chữ Nôm, tư tưởng cải cách văn hóa của Hồ Quý Ly còn thể hiện ở một số lĩnh vực hoạt động khác như: chấn hưng lễ nhạc, sửa đổi nghi thức lễ tân, cải cách phẩm phục triều nghi, khôi phục, lập lại các nghi lễ truyền thống và những nơi tế tự mang tính văn hóa.
Tóm lại, tư tưởng cải cách về văn hóa – tư tưởng – giáo dục của Hồ Quý Ly đã thể hiện những nét tiến bộ và tích cực đáng ghi nhận. Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử kí toàn thư đã phải thốt lên: “Sao mà tốt đẹp đến như vậy?”
2.1.4. Cải cách về quân sự
Xã hội Đại Việt từ đời vua Trần Dụ Tông trở về sau đã bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện. Tầng lớp thống trị quý tộc Trần không còn khả năng quản lý đất nước: nội loạn và ngoại loạn đã làm cho chính quyền nhà Trần nghiêng ngả, dẫn tới nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Trong hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly xuất hiện, và trong quá trình tham chính, đi từ vị trí thấp, đến vị trí cao rồi nắm lấy uy quyền tuyệt đối, bằng con mắt nhà võ, Hồ Quý Ly rất có ý thức về quyền lực và rất chú trọng tới lĩnh vực quân sự. Tư tưởng cải cách quân sự của Hồ Quý Ly được hình thành từ cuối vương triều Trần và được phát triển hoàn thiện khi vương triều Hồ được xác lập.
Hồ Quý Ly tiến hành cải cách về quân sự nhằm: xây dựng thực lực làm chỗ dựa để tiến hành công cuộc cải cách, đàn áp thế lực chống đối của quý tộc Trần, có đủ sức mạnh để giải quyết vấn đề Chiêm Thành ở phía nam và đối phó với âm mưu xâm lược của phương Bắc, bảo vệ độc lập dân tộc, đồng thời là chỗ dựa quan trọng để giành chính quyền về tay họ Hồ.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa tư tưởng quân sự truyền thống của dân tộc, kể từ năm 1375, dưới triều vua Trần Duệ Tông, Hồ Quý Ly được giao giữ chức Tham mưu quân sự, tư tưởng cải cách quân sự của ông được hình thành từng bước rõ nét về mặt tổ chức xây dựng lực lượng, tuyển chọn sắp xếp người chỉ huy, tăng cường cải tiến trang bị vũ khí, chủ động tấn công quân Chiêm Thành để ổn định mặt biên giới phía nam tổ quốc, đồng thời tranh thủ thời gian hòa hiếu với nhà Minh mà xây dựng lại hệ thống phòng thủ trên một qui mô lớn. Đó là công trình phòng vệ thành Tây Đô, công trình thành Đa Bang, với hệ thống phòng thủ có quy mô lớn trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, dài gần 400km, từ vùng núi Tản Viên, men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa Thái Bình, với một hệ thống chướng ngại vật gồm những bãi cọc gỗ vót nhọn, xích sắt, cùng các đồn quân tại các quan ải, cửa sông, cửa nguồn.
Với mong muốn xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh để chống giặc phương Bắc, Hồ Quý Ly đã quên mất truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như lời nhắc nhở của người xưa: “khoan thư sức dân làm gốc”. Ông ra sức xây dựng một đội quân thường trực đông đảo, đó là một việc làm tích cực, nhưng đó lại cũng là một việc làm quá sức và gây nên nỗi thống khổ, bất bình trong nhân dân. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu dẫn đến thất bại của nhà Hồ sau này.
Nói một cách khách quan, tư tưởng cải cách quân sự của Hồ Quý Ly suy cho cùng xuất phát từ lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, mong muốn xây dựng quân đội hùng mạnh bảo vệ đất nước, bảo vệ cơ nghiệp, bảo vệ đất nước. Những tư tưởng cải cách quân sự của Hồ Quý Ly rất tiến bộ, có mặt còn vượt trước cả thời đại. Tuy nhiên, do không căn cứ vào tình hình, hoàn cảnh, điều kiện của đất nước lúc bấy giờ nên thất bại là điều không tránh khỏi.
2.2. GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
2.2.1. Giá trị và hạn chế
Giá trị
Tư tưởng cai cách của Hồ Quý Ly được hình thành trong bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Xã hội Đại Việt lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện, có nguyên nhân sâu xa trong cơ cấu kinh tế, xã hội và thiết chế chính trị. Về mặt đối ngoại, sự suy yếu của vương triều Trần đã đưa Đại Việt đến chỗ trở thành đối tượng xâm lăng của Chiêm Thành và nhà Minh. Trước tình hình đó, nhu cầu cải cách, đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục, xã hội không chỉ trở thành hiện thực mà còn mang tính cấp thiết. Hồ Quý Ly với tư tưởng cải cách toàn diện, táo bạo đã đứng ra đảm nhận yêu cầu của lịch sử, thực hiện công cuộc cải cách nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội theo hướng tiến bộ. Tư tưởng cải cách này còn gắn liền với đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Hồ Quý Ly đưa ra những tư tưởng cải cách của mình nhằm hai mục tiêu cơ bản:
Một là, giải quyết các mâu thuẫn chính trị, kinh tế, xã hội do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm cuối thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV đặt ra.
Hai là, củng cố và tăng cường chế độ quân chủ tập quyền.
Để có thể thực hiện được những cải cách của mình, Hồ Quý Ly đã tiến hành việc chuyển chính quyền, chuyển quyền lực từng bước vững chắc với một thời gian trên dưới hai mươi năm, tính từ năm 1375, khi ông giữ chức Tham mưu quân sự, đến năm 1395, khi ông làm Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự Tuyên Trung vệ quốc Đại vương.
Sau khi Thượng hoàng Nghệ Tông mất, quyền quản lý triều chính và đất nước đã thật sự nằm trong tay Hồ Quý Ly, chính quyền đã là của họ Hồ dù Hồ Quý Ly chưa xưng vua. Từ năm 1396 cho đến khi xưng Vương, là khoảng thời gian ông thăm dò dư luận, là bước chuẩn bị cuối cùng để xác lập vương quyền. Lúc này, những cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt hơn.
Việc lật đổ nhà Trần của Hồ Quý Ly mang ý nghĩa chính trị tiến bộ, nó nhằm tạo quyền lực và điều kiện để giải quyết những yêu cầu của lịch sử, đó là giải quyết sự khủng hoảng toàn diện của xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV và đáp ứng nhu cầu cấp thiết về cải tổ xã hội đầu thế kỉ XV. Có thể nói, Hồ Quý Ly đã xuất hiện đúng lúc và gánh lấy trách nhiệm khởi xướng, lãnh đạo công cuộc cải cách lịch sử này.
Bản thân là một quý tộc ngoại thích, Hồ Quý Ly đứng trên lập trường của tầng lớp mới, được đào tạo từ trường lớp Nho học, để thực thi công cuộc cải cách của mình. Tuy nhiên, ông không rập khuôn hoàn toàn theo những giáo điều của kinh điển Nho giáo mà chỉ tiếp nhận những mặt tích cực của nó để ứng dụng vào đường lối cai trị và canh tân đất nước.
Với chính sách hạn điền và chính sách hạn nô, Hồ Quý Ly đã đánh một đòn trực diện vào quý tộc tôn thất nhà Trần, hạn chế sự bành trướng thế lực và sự cướp đoạt ruộng đất của tầng lớp này đối với nông dân, phần nào điều hòa những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội khi mà tình trạng nông nô hóa ngày càng tăng, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội, nhất là sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Sự ra đời kịp thời và đúng lúc của hai chính sách này đã góp phần củng cố quyền lực nhà Hồ, từng bước loại bỏ tầng lớp quý tộc Trần, và sau đó xóa bỏ vương triều Trần, thiết lập một thiết chế mới: chế độ quân chủ tập trung và quan liêu.
Một trong những chính sách táo bạo nhất trong tư tưởng cải cách về kinh tế của Hồ Quý Ly là việc phát hành tiền giấy. Đây là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử nước ta trước đó. Sự ra đời của tiền giấy là một bước tiến dài trong lịch sử tiền tệ nước nhà, đáp ứng phần nào cho việc dùng tiền đồng chế tạo vũ khí, phục vụ cho an ninh quốc phòng và giải quyết những nguy cơ về khủng hoảng tài chính trong những năm cuối vương triều Trần.
Không chỉ vậy, Hồ Quý Ly còn tỏ ra là một nhà cải cách giáo dục tiến bộ. Ông mong muốn xây dựng một nền giáo dục toàn diện, phát huy vai trò sáng tạo của người học, không rập khuôn theo kinh điển Nho giáo. Với việc đặt ra chế độ thi cử một cách nghiêm ngặt, chú trọng cả chữ viết và toán học, tăng cường giáo dục đạo đức, lý tưởng vì nhà nước phong kiến tập quyền, nhà Hồ đã tạo ra được một đội ngũ trí thức đông đảo vừa có đức, vừa có tài góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng và củng cố và phát triển đất nước.
Việc dùng chữ Nôm để dịch những kinh điển của Nho giáo là một việc làm thể hiện tinh thần dân tộc cao, với mong muốn xây dựng một hệ thống chữ viết riêng cho dân tộc, không lệ thuộc vào chữ Hán là một đóng góp đáng kể vào quá trình Việt hóa nền văn học thành văn của nước ta, cho thấy tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Quý Ly mà không phải ai cùng thời với ông cũng dám nghĩ, dám làm như vậy.
Hạn chế
Bên cạnh những giá trị, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly cũng mắc phải một số hạn chế do điều kiện lịch sử chi phối.
Xét về tổng thể, trong khi đưa ra những tư tưởng cải cách của mình, Hồ Quý Ly đã thoát li thực tiễn, không xuất phát nhu cầu từ thực tiễn.
Ví như, trong tư tưởng cải cách quân sự, Hồ Quý Ly mong muốn nhanh chóng xây dựng một đội quân hùng mạnh để chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Mục đích là cao cả, thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của một vị vua. Tuy nhiên, cách làm có phần thô bạo, thiếu sự tính toán khi ông đã bắt cả trẻ con trong nước từ hai tuổi trở lên, nếu là con trai, phải ghi tên vào sổ quân để lớn lên sẵn sàng nhập ngũ. Việc làm này đã làm dân chúng hoang mang, bất ổn, không phục tùng. Hơn nữa, thời đó, dân số Đại Việt chỉ có chừng năm triệu dân, tình hình kinh tế lại trì trệ, sản xuất đình đốn thì việc tập hợp một đội ngũ đông đảo như vậy là điều không tưởng.
Hay trong chính sách phát hành tiền giấy, một ý nghĩ táo bạo, tiến bộ nhưng chưa thực sự xuất phát từ chính yêu cầu của nền sản xuất nước nhà mà lại xuất phát từ nhu cầu tài chính của Nhà nước. Kinh tế Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV tuy đã có sự thay đổi đáng kể so với trước với sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hóa. Nhưng đó mới chỉ là nền kinh tế hàng hóa ở trình độ thấp, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ yếu của đất nước. Vì vậy, sự ra đời của tiền giấy vào lúc này chưa cần thiết, nó đã gây ra những khó khăn nhất định cho đời sống nhân dân, làm thị trường rối loạn. Tuy cũng giải quyết một phần nào những khó khăn tài chính của Nhà nước, sử dụng tiền đồng để chế tạo vũ khí, nhưng với sự áp đặt, cưỡng chế dân chúng trong việc sử dụng tiền đồng, Hồ Quý Ly đã đi ngược lại lời dạy của người xưa “lấy dân làm gốc”. Và đây cũng chính là một trong những lý do cơ bản khiến cho nhà Hồ sụp đổ.
Không chỉ vậy, những cải cách của Hồ Quý Ly chưa thực sự triệt để, chủ yếu phục vụ giai cấp thống trị, cầm quyền, ít quan tâm đến lợi ích của dân chúng nên chưa giải quyết đến tận gốc những yêu cầu cấp thiết của thời đại. Trong khi đưa ra chính sách hạn điền, Hồ Quý Ly mong muốn loại bỏ vai trò của quý tộc tôn thất nhà Trần, tập trung tất cả ruộng đất vào tay Nhà nước. Song việc tiếp theo sau đó là phân phối lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho kinh tế địa chủ tư hữu phát triển thì Hồ Quý Ly không thực hiện được. Dân chúng vẫn phải làm thuê cho nhà nước, không được một quyền lợi cụ thể, thiết thực nào.
Chính sách hạn nô của Hồ Quý Ly cũng không nằm ngoài mục đích đảm bảo quyền lợi cho nhà nước phong kiến tập quyền. Nông nô, nô tì được giải phóng khỏi tay quý tộc, tôn thất nhà Trần nhưng lại trở thành quan nô của nhà nước phong kiến tập quyền. Nhà Hồ sử dụng họ làm lao dịch cho nhà nước: xây thành, đắp lũy….Về thực chất, nông nô không hề được thay đổi thân phận, chỉ là họ bị đổi chủ mà thôi.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, song tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly khá toàn diện, đi sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và phần nào đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của thời đại lúc bấy giờ. Xuất phát từ thực tiễn xã hội, tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly chứa đựng những yếu tố tiến bộ nhất định mà người đời sau cần ghi nhận. Song do hạn chế nội tại, do thời gian tiến hành cải cách quá ngắn ngủi, lại bị chi phối trong việc đối phó với các thế lực chống đối của quý tộc Trần, với nạn ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống quân Minh không thành công, đã dẫn đến sự cáo chung cho vương triều Hồ và sự nghiệp cải cách đất nước của ông, đất nước rơi vào tay nhà Minh sau 5 thế kỉ tồn tại, tự chủ.
Nguyên nhân thất bại
Lịch sử sẽ còn ghi dấu sự thất bại của Hồ Quý Ly như là bi kịch của một nhân vật, một số phận lịch sử, bi kịch của “cái mới” non trẻ bị thất bại. Nó thất bại bởi cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, bởi thiếu những nhân tố mà người xưa tổng kết: Thiên thời - địa lợi- nhân hòa. Như khi viết về Hồ Quý Ly, trong bài “Bình Ngô Đại cáo” Nguyễn Trãi đã từng ghi:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”.
Nhìn nhận lại thất bại của nhà Trần, có thể đưa ra những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nhà Hồ đã không thể làm được cái điều mà trước đây nhà Trần đã làm. Họ không thể tập hợp và huy động được sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân cả nước vào sự nghiệp chống cuộc xâm lăng. Đó cũng là điều dễ hiểu khi mà những cải cách của nhà Hồ chỉ nhằm duy trì và đảm bảo quyền lực thống trị của mình. Họ ít quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân lao động và các tầng lớp trung gian trong xã hội. Những cải cách của họ chỉ giải quyết một phần nào mâu thuẫn do thời đại đặt ra, chứ không thể xoa dịu lòng dân. Bởi để thực hiện những chính sách đó, nhà Hồ đã thực hiện cưỡng chế thô bạo đối với quần chúng nhân dân, gây ra những bất bình trong dân chúng, làm dân chúng không tin tưởng vào sự lãnh đạo của nhà nước. Hơn nữa, do lên ngôi từ việc soán ngôi vua Trần, Hồ Quý Ly đã bị người đời oán trách, lòng dân không phục. Xét dưới góc độ lịch sử, việc làm này không hề sai trái. Bởi lẽ, khi một triều đại đã mục rỗng, thối nát thì việc thay thế nó là một quy luật, một tất yếu lịch sử. Tuy nhiên quan điểm “trung quân” của Nho giáo lại không cho phép bất cứ ai hành động như vậy. Và chúng ta đều biết thời đại mà Hồ Quý Ly sống là thời đại hết sức đề cao Tống Nho. Và vì thế, việc cướp ngôi nhà Trần là việc làm “trái đạo” không thể chấp nhận thời bấy giờ. Hồ Nguyên Trừng đã từng thốt lên rằng: “Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Chỉ với một câu nói đó thôi cũng đủ thấy có được lòng tin yêu của dân chúng quan trọng đến mức nào. Chả phải vì thế mà một trong những nguyên tắc hàng đầu của người cầm quyền từ xưa tới nay là “lấy dân làm gốc” đó sao?
Hai là, mâu thuẫn giữa xu hướng tư hữu hóa với yêu cầu củng cố chế độ trung ương tập quyền. Chính mâu thuẫn này đã làm cho biện pháp cách của Hồ Quý Ly chưa thật sự triệt để, nửa vời, vừa gây ra sự chống đối của phe bảo thủ, vừa gây ra thất vọng đối với đông đảo nhân dân. Thực hiện chính sách hạn điền nhưng không chia ruộng đất cho nông dân nghèo mà chỉ dừng lại ở sự quản lý của nhà nước; cũng như chính sách hạn nô nhưng lại không giải phóng nô tì mà chỉ mới thay thế thân phận từ nô lệ của công hầu, quý tộc thành nô lệ của nhà nước, từ gia nô thành công nô. Không chỉ vậy, trong chính sách phát hành tiền giấy, cải cách về quân sự cũng như cải cách về chính trị, do không triệt để và không xuất phát từ thực tiễn tình hình đất nước lúc bấy giờ nên đã làm thị trường rối loạn, đời sống nhân dân khó khăn, quân đội sa sút ý chí. Chính vì vậy đã “không giải quyết được tình trạng khủng hoảng của xã hội đương thời, đã không cải thiện được đời sống đang lao đao lay lắt của nhân dân, lại còn đè nặng lên họ bằng thuế má nặng nề, phu dịch phiền tạp…”.((): Trương Hữu Quýnh: Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly, Tạp chí NCLS, số 20, Hà Nội, 1960
)
Ba là, do thực hiện cải cách trong thời gian ngắn ngủi, lại chịu sự xâm lược của quân Minh nên chưa thể thuyết phục được lòng dân tin theo. Cải cách nhà Hồ thất bại.
Nguyễn Trãi là người đương thời duy nhất đã chứng kiến, tham gia vào sự nghiệp cải cách, chống ngoại xâm của vương triều Hồ. Dưới con mắt của Nguyễn Trãi thì thất bại của Hồ Quý Ly chính là sự thất bại của một con người yêu nước có tinh thần dân tộc, có quyết tâm và ý chí chống ngoại xâm, chứ không phải là của kẻ đầu hàng phản bội.
Tuy thất bại, nhưng chúng ta không thể phủ nhận tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm đánh giặc và những cố gắng cải cách của họ Hồ trong một giai đoạn cực kì khó khăn của đất nước như Phan Huy Lê từng nhận xét: “Thất bại của Hồ Quý Ly có nguyên nhân của nó trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh và cả trong cải cách, nhưng đó là thất bại của một Nhà cải cách nhiều hoài bão. Thất bại đó có thể được ghi nhận như một bi kịch lịch sử”.((): Phan Huy Lê: Cải cách của Hồ Quý Ly và sự thất bại của triều Hồ, NCLS, Hà Nội, 1992, tr.8.
)
2.2.2. Ý nghĩa lịch sử
Khi thực tiễn xã hội thay đổi thì buộc những tư tưởng, chính sách của Nhà nước cũng phải điều chỉnh theo sao cho phù hợp với sự biến đổi đó. Nhận thức được điều này, với một quyết tâm cao, nền tảng tri thức vững chắc cùng tầm nhìn xa, Hồ Quý Ly đã thực hiện công cuộc cải cách của mình và đã đạt được những thành công đáng ghi nhận.
Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly được hình thành và phát triển vào những năm cuối vương triều Trần, thời kì mà vương triều Trần và xã hội Đại Việt lâm vào khủng hoảng và bế tắc. Nhu cầu cải cách trên nhiều lĩnh vực ở giai đoạn lịch sử này đã trở thành hiện thực và cấp thiết.
Qua thực tiễn 25 năm phục vụ dưới vương Trần (1371 - 1396), Hồ Quý Ly đã nhìn thấy những nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng, và mạnh dạn thực hiện tư tưởng cải cách của mình trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, kinh tế, giáo dục, nhằm củng cố quốc gia phong kiến trung ương tập quyền theo xu hướng chuyên chế quan liêu để đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng, có khả năng chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập tự chủ.
Tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly là tư tưởng của hành động, của tinh thần dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc. Tư tưởng Hồ Quý Ly mang ý thức hệ Nho giáo nhưng thực dụng, không giáo điều, ông giảng giải kinh sách của Nho giáo theo hiểu biết của mình và vận dụng nó vào điều kiện thực tiễn của đất nước, của triều đại.
Sự xuất hiện của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV đã tạo tiền đề cho những bước phát triển mới của lịch sử tư tưởng dân tộc trong quá trình xây dựng, củng cố quốc gia phong kiến trung ương tập quyền. Với tư tưởng cải cách của mình, Hồ Quý Ly đã đóng vai trò là người mở đầu thời điểm cải cách quan trọng trong lịch sử trung đại Việt Nam và đã để lại dấu ấn cho giai đoạn sau.
Do điều kiện lịch sử chi phối, Hồ Quý Ly không thể vượt ra khỏi hạn chế giai cấp, của thời đại ông đang sống và phải chịu sự chi phối của di sản do quá khứ để lại. Vì vậy, trong thời đại của mình, Hồ Quý Ly không thể không đặt lợi ích của giai cấp mình lên trên lợi ích dân chúng. Do đó, không nên quá khắt khe trong việc đánh giá về những tư tưởng cải cách của ông khi so sánh với thời đại ngày nay mà hãy nhìn vào những nét mới mẻ mà ông đã làm so với các bậc tiền bối. Trên cơ sở đó, sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá từ thất bại của nhà Hồ đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Một là, bài học “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Đây là bài học quan trọng, cơ bản mà bất cứ nhà cầm quân nào cũng phải ghi nhớ. Trần Hưng Đạo đã từng nói: “Nguồn gốc sức mạnh của đất nước chính là biết khoan thứ sức dân, để làm kế sâu, rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Dân là gốc rễ. Dân cường thì nước mạnh. Chỉ khi đoàn kết được toàn dân, quân dân một lòng thì không một khó khăn nào là không thể vượt qua. Hồ Quý Ly đã không để tâm lắm đến lời dạy của người xưa. Và đó là điều dễ hiểu vì sao cải cách nhà Hồ thất bại, vương triều Hồ sụp đổ dưới gót chân quân xâm lược nhà Minh.
Ngày nay, “quần chúng làm nên lịch sử” là bài học vỡ lòng của người cách mạng. Chuyện cũ và bài mới học ấy dễ nhớ, dễ lay động lòng người bằng những thể nghiệm thật độc đáo: chiến thắng của quân và dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống những kẻ thù sừng sỏ nhất và ngày nay là công cuộc đổi mới đất nước. Nếu lòng dân không thuận theo ngọn cờ của Đảng, nếu sức dân không như nước vỡ bờ thì làm sao có thể có kết quả kỳ diệu đến thế! Mà có sức dân như vậy vì lòng dân đã qui về một mối, quyết bẻ gãy gông xiềng thực dân, quyết rửa cái nhục nô lệ, quyết giành lại độc lập cho đất nước, tự do và hạnh phúc về cho bản thân mình.
Khát vọng lớn lao ấp ủ đã bao lâu nay giờ đã trở thành hiện thực. Nhân dân ta đang sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất. Vì thế, bài học sau thất bại của cải cách Hồ Quý Ly nói riêng và của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước nói chung, trước hết phải là bài học của sức dân, là bài học về lòng dân. Khởi động và qui tụ được lòng dân thì mới phát huy được sức dân, khiến nó như triều dâng thác lũ không gì ngăn được.
Soi kỹ bài học ấy vào thực tiễn của đất nước trước bao thách thức và vận hội, để càng hiểu sâu rằng có dân, được lòng dân thì có tất cả, không khởi động và phát huy được sức dân vì để mất lòng dân thì mất tất cả. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Câu nói của Bác Hồ còn văng vẳng đâu đây như nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng dân, yêu quí dân, biết phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân thì mới có thể giành thắng lợi.
Hai là, xây dựng hệ thống giáo dục toàn diện, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống.
Hồ Quý Ly là một người rất quan tâm đến giáo dục, ông luôn chú trọng đào tạo một tầng lớp trí thức khoa bảng có đầu óc thực tế hơn để phục vụ cho vương triều mới. Ông cố gắng đưa ra những chính sách kích thích tinh thần ham học hỏi, óc sáng tạo và tư duy lôgíc của người học bằng cách thay đổi quy chế thi cử, bổ sung thêm toán học vào cùng với phần thi viết chữ, không rập khuôn toàn bộ nội dung của kinh điển Nho giáo….
Những việc làm của Hồ Quý Ly nhằm xây dựng một đội ngũ trí thức không chỉ thông thạo kinh sách mà còn có tư duy lôgíc, khoa học, óc thực tế, sáng tạo và hết lòng đem tài năng đó phục vụ cho vương triều Hồ. Không phải đến thời nhà Hồ giáo dục mới được chú trọng phát triển mà nó cũng đã được các triều đại Lý, Trần rất mực quan tâm. Tuy nhiên, cái cách quan tâm của Hồ Quý Ly thật đặc biệt: không khuôn mẫu sách vở, không chỉ chú trọng văn mà còn quan tâm đến toán….
Trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, giáo dục, với vai trò đào tạo ra những lớp người ưu tú, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp của đất nước, ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng của mình. Vì lẽ đó, từ khi còn là nô lệ cho phong kiến phương Bắc đến khi hình thành quốc gia phong kiến độc lập; từ khi bị thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược đến khi được sống trong hoà bình, hạnh phúc, giáo dục vẫn mang trong mình một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những chính sách không thể thiếu để đưa đất nước vươn tầm khu vực và thế giới. Vì vậy, xây dựng hệ thống giáo dục toàn diện, gắn giáo dục với thực tiễn cuộc sống là một trong những chính sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Lời dạy của Bác Hồ về vai trò của giáo dục trong việc cải hóa con người cũ, xây dựng con người mới cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên”. Không những thế, giáo dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Người kêu gọi:
“Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam... phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên, công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên…Nó được coi như "kim chỉ nam" để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho tất cả mọi người. Hơn nữa, nguyên tắc này có tính chất quyết định trong việc chuyển hướng giáo dục và trở thành đặc trưng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính...
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm “học đi đôi với hành”, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
Ba là, thực hiện cải cách là yêu cầu tất yếu khách quan của thực tiễn đời sống xã hội.
Thực tiễn xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV đặt ra yêu cầu phải xoá bỏ chế độ đại điền trang, chế độ nô tì, xây dựng quan hệ kinh tế địa chủ - tá điền để đưa đất nước phát triển lên một giai đoạn mới. Với tầm nhìn nhạy bén của một nhà chính trị, Hồ Quý Ly đã nhận thấy nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng và đã khá táo bạo thực hiện tư tưởng cải cách trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện đúng lúc, dù chưa thể đáp ứng hoàn toàn những yêu cầu của xã hội Đại Việt lúc bấy giờ nhưng Hồ Quý Ly đã cho thấy tầm quan trọng của mình trong sự nghiệp củng cố quốc gia phong kiến trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế quan liêu để đưa đất nước vượt qua cơn khủng hoảng, có khả năng chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập tự chủ. Với tư tưởng cải cách của mình, Hồ Quý Ly đã tỏ ra là một con người táo bạo trong suy nghĩ, dũng cảm trong hành động, ông đã khẳng định rằng yêu nước phải thể hiện bằng hành động cụ thể, bằng tư duy muốn đổi mới trong hiện thực để đưa đất nước tiến lên.
Thực tiễn thay đổi, lý luận cũng phải thay đổi theo là bài học sâu sắc mà Hồ Quý Ly đã để lại cho đời sau. Có thể thấy rõ điều này trong công cuộc đổi mới của nước ta vào năm 1986. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì hậu quả của cuộc chiến tranh để lại hết sức nặng nề, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kẻ thù lại ra sức bao vây cấm vận kinh tế nước ta, thiên tai lũ lụt lại xảy ra nhiều, tình hình kinh tế xã hội ở thời kỳ hậu chiến rất phức tạp… Đứng trước tình hình đó nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là phải nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời củng cố quốc phòng, bảo vệ thành quả của cách mạng. Tuy nhiên, do rập khuôn cách làm của Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng và Nhà nước ta mắc nhiều sai lầm khuyết điểm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế xã hội làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
Nhận thức rõ sai lầm đó, Đại hội lần thứ VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới (12/1986), tiếp thu và vận dụng lý luận soi đường của chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Đại hội VI đã tự phê bình và phê bình những sai lầm khuyết điểm của Đảng, nhìn thẳng vào sự thật, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, xây dựng Đảng Cộng sản ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới.
Công cuộc đổi mới đất nước 1986 có ý nghĩa bản lề, tạo bước tiến vững chắc để đất nước từng bước khắc phục khó khăn, tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Và những thành quả mà Việt Nam đã giành được từ sau đổi mới là những bước tiến đáng ghi nhận, được bạn bè quốc tế công nhận, nhân dân thêm tin yêu vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. Thế mới thấy rằng đổi mới là tất yếu mà thực tiễn xã hội đòi hỏi nhưng vấn đề quan trọng là phải thực hiện đổi mới như thế nào để đem lại hiệu quả tốt nhất, và đổi mới phải hướng vào lợi ích của quần chúng nhân dân thì mới có thể đem lại thành công.
Bốn là, bài học về sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Một trong những nguyên nhân thất bại của nhà Hồ là chưa kết hợp khôn khéo giữa hai nhiệm vụ chiến lược này. Kết quả là không những công cuộc cải cách bất thành mà sự nghiệp chống giặc Minh cũng thất bại. Sự thất bại của nhà Hồ trước sự xâm lược của kẻ thù đã đưa nước ta vào cảnh bị đô hộ sau 5 thế kỉ độc lập, tự chủ. Mãi đến khi khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi thành công, nước ta mới được độc lập trở lại. Thất bại này đã trở thành bài học kinh nghiệm xương máu cho các triều đại sau cũng như cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nước ta sau này.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Với đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng, sự hy sinh vô cùng to lớn của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhân dân ở cả hai miền Nam, Bắc đã làm nên những chiến công hiển hách, ghi những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc bằng Đại thắng mùa Xuân 1975. Thành công này đã thể hiện sự đúng đắn tài tình trong sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh khi đã kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là 2 mặt cơ bản của mọi quốc gia, dân tộc khi trong quan hệ quốc tế chưa xóa bỏ được cơ sở tham vọng thống trị của dân tộc này đối với dân tộc khác. Ở Việt Nam, đây cũng là quy luật tất yếu khách quan, quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta qua hàng ngàn năm. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, rất phức tạp, không thể không giải quyết; đặc biệt trước sự vận động, biến đổi nhanh chóng, khó lường của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, của hàng loạt vấn đề toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế… Nước ta lại đang bị các thế lực chống CNXH đang tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Vì vậy, việc tăng cường mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN là một đòi hỏi khách quan. Để thực hiện được điều đó, Đảng, Nhà nước, nhân dân ta cần quan tâm giải quyết những mâu thuẫn đang tồn tại trong đời sống xã hội; phát huy hơn nữa tính ưu việt của CNXH; tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng XHCN cho các tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh xây dựng hệ thống chính trị; củng cố thế trận lòng dân vững chắc; thực hiện kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế; quan tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân và quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại. Đây là những yếu tố bảo đảm để huy động sức mạnh của toàn dân nhằm xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.
Công cuộc cải cách Hồ Quý Ly và những bài học mà cuộc cải cách này mang lại đã, đang và sẽ vẫn luôn được ghi nhận như một dấu ấn lịch sử quan trọng trong lịch sử Việt Nam thời kì trung đại; nó mở đầu cho bước phát triển mới của nhà nước quân chủ trung ương tập quyền và tiếp tục được hoàn thiện trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Những hạn chế mà công cuộc cải cách này mắc phải là những hạn chế mang tính lịch sử và do ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp lúc bấy giờ. Vì vậy, không nên quá khắt khe khi qui kết Hồ Quý Ly là một “kẻ soán ngôi” mà hãy nhìn vào những đóng góp mới mẻ và táo bạo mà ông đã đem lại cho lịch sử nước nhà vào lúc bấy giờ cũng như những kinh nghiệm lịch sử từ sự nghiệp cải cách của ông đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Trải qua hơn bảy thế kỉ, những giá trị tư tưởng mà Hồ Quý Ly để lại cho đời sau cho đến nay vẫn còn có những nhận định trái chiều. Tuy vậy, cần đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm phát triển mà nhận định và đánh giá. Phải đặt trong những điều kiện lịch sử ở chính thời đại Hồ Quý Ly để có những đánh giá sát đáng, khách quan nghiêm túc và công bằng hơn về những giá trị đích thực mà Hồ Quý Ly đã cống hiến cho lịch sử ở giai đoạn cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV.
Hàng loạt các công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly từ thời trung đại cho đến nay được thực hiện không chỉ chứng tỏ sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đến nhà tư tưởng tài ba lỗi lạc này mà còn cho thấy tầm ảnh hưởng của những tư tưởng đó tới sự phát triển của xã hội Việt Nam từ thời Hồ Quý Ly cho đến nay. Không chỉ các tác giả trong nước mà các tác giả nước ngoài cũng rất quan tâm đến Hồ Quý Ly và những tư tưởng cải cách tiến bộ của ông. A.B Pôliacốp, nhà Sử học người Nga đã nhận định: “Nhìn chung các cải cách của Hồ Quý Ly được tiến hành xuất phát từ tính chất đặc thù của lịch sử dân tộc Việt Nam và từ vị trí có tính chất quốc tế của nó”((): A.B Pôliacốp: Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỉ X-XIV, NXB- CTQG, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 1996, tr.279. Bản dịch TS.Vũ Minh Giang.
). Ông nhận định tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội, đảm bảo cho sự phát triển của nó về sau này; sự phồn vinh của Đại Việt dưới thời Lê thế kỉ XV cũng là do đã hoàn thiện được công cuộc cải cách mà Hồ Quý Ly đã mở đầu.
Cho đến nay, những ý kiến đánh giá, phẩm bình về nhân cách Hồ Quý Ly có lẽ chưa có học giả nào, nhà sử học nào vượt được khỏi sự đánh giá của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là người đương thời duy nhất đã chứng kiến, tham gia vào sự nghiệp cải cách, chống ngoại xâm của vương triều Hồ. Sự nhìn nhận, đánh giá của Nguyễn Trãi đã vượt khỏi khuôn khổ, thái độ của một di thần đánh giá lại triều đại của mình mà ông đứng trên quan điểm của một dân tộc anh hùng sau khi đã chiến thắng quân xâm lược Minh giành lại độc lập, với nhận thức sâu sắc của một nhà sử học, nhà tư tưởng vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của một dân tộc, với tinh thần nhân văn truyền thống, để đánh giá Hồ Quý Ly và vương triều Hồ một cách khách quan.
Cha con Nguyễn Trãi đến làm quan ở triều Hồ và đặt nhiều hi vọng vào triều đại đang có những cải cách táo bạo, toàn diện và có quyết tâm kháng chiến chống ngoại xâm. Trong một bài thơ miêu ta quan cảnh của núi Hàm Rồng, nơi đã từng là đồn lũy của Hồ Quý Ly để ngăn chặn quân Chiêm Thành từ phía Nam tràn ra cướp phá Thanh Hóa, Nguyễn Trãi đã ca ngợi Hồ Quý Ly là:
“Hồ trung nhật nguyệt thiên nan lão;
Thế thượng anh hùng thử nhất thì”((): Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ 2, NXB-KHXH, Hà Nội, 1976, tr.286;281;315.
).
Dưới con mắt Nguyễn Trãi thì sự thất bại của Hồ Quý Ly chính là sự thất bại của một con người yêu nước có tinh thần dân tộc, có quyết tâm và ý chí chống ngoại xâm, chứ không phải là của kẻ đầu hàng phản bội. Những tình cảm đọng lại trong thơ Nguyễn Trãi là sự cảm thông, tiếc nuối một nhân vật đầy tâm huyết với cuộc đời mà chí lớn bất thành.
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, kể từ thất bại của Hồ Quý Ly đã hơn bảy thế kỉ, nỗi hận nhà Hồ đã được hậu thế xem xét, đánh giá công bằng, khách quan hơn, trả lại những giá trị mà ông đã cống hiến cho lịch sử. Nhiều nhà sử học nghiên cứu đã tiếp nối sự đánh giá của Nguyễn Trãi về Hồ Quý Ly để khẳng định những đóng góp của ông cho lịch sử nước nhà một cách đúng đắn và công bằng hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Cúc, Hồ Quý Ly- nhà cải cách tiến bộ,Tạp chí NCLS, số 5, Hà Nội, 1992.
2. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên, 1995.
3. Đại Việt Sử kí toàn thư, NXB-KHXH, Hà Nội, tập I, II, 2003.
4. Võ Xuân Đàn, Hồ Quý Ly, nhà cải cách, - Nxb Giáo dục, 1998.
5. Trần Bá Đệ, Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002.
6. Phạm Đăng Thanh- Trương Thị Hòa, Lịch sử các định chế chính trị và pháp quyền Việt Nam, tập I, NXB-CTQG, Hà Nội, 1997.
7. Phan Huy Lê: Cải cách của Hồ Quý Ly và sự thất bại của triều Hồ, NCLS, Hà Nội, 1992.
8. Nguyễn Quang Ngọc, Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, 2002.
9. Lê Minh Quốc , Những nhà cải cách Việt Nam, Nxb Trẻ, 2009.
10. Trương Hữu Quýnh, Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly, Tạp chí NCLS, số (20), Hà Nội, 1960.
11. Trương Hữu Quýnh: Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly, Tạp chí NCLS, số 20, Hà Nội, 1960.
12. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Thân, Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009.
13. Trương Hữu Quýnh, Đào Tố Uyên, Phạm Văn Hùng, Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến 1858, NXB ĐHSP, 2004.
14. Ngô Thời Sĩ, Việt tiêu sử án, Văn hóa Á Châu xuất bản, Sài Gòn, 1960.
15. Nguyễn Trãi, toàn tập, NXB-KHXH, Hà Nội, 2000.
16. A.B Pôliacốp: Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỉ X-XIV, NXB- CTQG, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 1996, tr.279. Bản dịch TS.Vũ Minh Giang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HOQUYLY.doc