GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật tố tụng dân sự (TTDS) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Là luật hình thức độc lập mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật nội dung khác nhau như: Luật Dân Sự, Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, Luật Thương Mại, Luật Lao Động Nhưng những luật nội dung này đều mang những đặc trưng cơ bản của Luật Dân Sự như tính bình đẳng, tự quyết và thoả thuận giữa các bên đòi hỏi Luật tố tụng dân sự cũng phải thể hiện được bản chất tương ứng trong việc đánh giá và xác định vai trò quan trọng của các đương sự, đặt họ vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm dứt (bãi nại) tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó.
Kế thừa có chọn lọc các quy của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và phát triển đúng đắn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Mặc dù vậy, là một ngành luật còn non trẻ, kinh nghiệm lập pháp còn thiếu trong khi các quan hệ xã hội lại phát sinh và thay đổi một cách nhanh chóng nên qua một thời gian áp dụng Bộ luật đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý nói chung và cách nhìn nhận về vai trò, vị trí của đương sự trong hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt không phản ánh được đúng đắn bản chất của tố tụng dân sự, không phát huy được vai trò chủ động và tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay nhiều nhiệm vụ của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tồn đọng các vụ việc dân sự tại toà án ngày càng nhiều, tính minh bạch và thiếu khách quan còn phổ biến thể hiện ở việc các toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các toà cấp dưới với số lượng lớn.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã đi vào tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, các quy định của nhà nước qua từng thời kỳ, tham khảo luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới để hoàn thiện đề tài “ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với chế định quan trọng này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Là một vấn đề khó trong tố tụng dân sự, hoạt động chứng minh còn nhiều điểm đang tranh luận cũng như chưa thống nhất nên trong phạm vi còn hạn chế về kỹ năng cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, tác giả không có tham vọng nghiên cứu tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chứng minh nói chung. Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, từ đó chỉ rõ vai trò trung tâm và quan trọng nhất của đương sự.
Trong thực tiễn, khái niệm về đương sự trong tố tụng dân sự còn có nhiều tranh luận về mặt nội hàm (như ngoài nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có người yêu cầu, người bị yêu cầu, người liên quan trong việc dân sự, người kế thừa quyền và nghĩa vụ ) [1]. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Tố Tụng Dân Sự 2005 thì đương sự là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – những tư cách tố tụng chỉ được xác lập khi có vụ án dân sự xảy ra. Mặt khác, trong thủ tục “phi tụng” – giải quyết yêu cầu trong tố tụng dân sự, trong nhiều trường hợp người bị yêu cầu không xuất hiện (yêu cầu tuyên bố một người chết, mất tích ) nên tính chất đối lập trong tố tụng (đối tụng) giữa các bên không được thể hiện rõ ràng cũng như vai trò chứng minh của đương sự rất mờ nhạt. Vì lẽ đó, đề tài đi vào nghiên cứu, đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh trong việc giải quyết vụ án dân sự chứ không phải toàn bộ vụ việc dân sự (bao gồm yêu cầu về việc dân sự và vụ án dân sự )
Để làm nền tảng cho việc đánh giá, nhận xét được khách quan, đề tài tìm hiểu các quy định của hoạt động tố tụng về lĩnh vực dân sự của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, đối chiếu, so sánh các quy định trong luật tố tụng của một số nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới trong cùng lĩnh vực.
Khảo sát những số liệu thực tế nhằm bổ trợ cho những vấn đề lý luận.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi xây dựng, phân tích những khái niệm cơ bản như tố tụng dân sự, đương sự, đặc điểm, bản chất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự từ đó, chỉ rõ vai trò quan trọng, trung tâm của đương sự trong hoạt động này dựa trên sự so sánh, đối chiếu với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Phân tích rõ những tác động của xu thế thời đại ảnh hưởng đến vai trò chứng minh của đương, đồng thời đưa ra những luận điểm để giải thích về vai trò quan trọng nhất của đương sự.
Đề tài hướng đến giải quyết tính thực tế của vấn đề. Sau khi xây dựng và đánh giá về vấn đề lý luận chung, chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất và ngày càng quan trọng hơn, khái quát những mặt được và những mặt hạn chế của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của đương sự cũng như tạo cơ chế để họ có thể thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, giảm gánh nặng cho hệ thống tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, thống kê
5. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết các vấn đề dân sự đã được xây dựng và áp dụng từ lâu nhưng mới chính thức được pháp điển hóa một cách có hệ thống và đồng bộ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên các đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Những bài viết, công trình mang tính toàn diện và có hệ thống trước đây như“Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ của Vũ Trọng Hiếu (1998), “Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” – Phạm Hữu Thư, tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 9/1998) xây dựng trên Pháp lệnh TTGQVADS (1989), TTGQVAKT (1994) và TTGQTCLĐ (1996) đã hết hiệu lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo. Trong những năm gần đây, có một số bài viết, công trình liên quan như “Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình, tạp chí Luật học năm 2005, “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học năm 2004, “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Nguyễn Thị Minh Hằng, luận án tiến sĩ luật học năm 2007 Mặc dù đây là những công trình nhìn nhận các vấn đề về chứng minh ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng là cơ sở tham khảo quan trọng để tác giả có thể hoàn thành tốt phần nghiên cứu của mình.
6. Khả năng phát triển của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu nhìn nhận đầy đủ về vai trò tính chất quan trọng của đương sự trong quá trình chứng minh, phản ánh đầy đủ bản chất của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu một cách toàn diện và quy mô sẽ tạo ra những cơ chế mới phát huy toàn diện tính tích cực của đương sự trong tố tụng dân sự, cán bộ tòa án sẽ không phải mất quá nhiều thời gian cho một vụ việc mà vẫn đảm bảo được sự “tâm phục khẩu phục” của đương sự, giảm đi sự tồn đọng các vụ án dân sự ngày càng nhiều, tăng thêm lòng tin của nhân dân và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, theo đề án về việc cải cách cơ cấu của ngành tòa án tại Nghị Quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong thời gian tới sẽ có 4 cấp tòa án được thành lập là tòa sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm, tòa thượng thẩm và tòa án nhân dân tối cao. Việc thành lập thêm một cấp tòa án đồng nghĩa với việc phát sinh nhiều hơn các cơ quan, cán bộ, thêm nhiều gánh nặng cho ngân sách nhà nước vốn đã ngày càng eo hẹp. Khi hệ thống tòa án phát triển theo chiều cao thì đề tài đi vào giải quyết vấn đề theo chiều rộng, giảm bớt công việc cho ngành tòa án trao trả về cho phía đương sự. Như vậy, cho dù có thêm cấp tòa thì cũng vẫn đảm bảo được về vấn đề nhân sự, cơ cấu.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, giới thiệu chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 3 phần:
Phần thứ nhất là những vấn đề lý luận chung. Trong phần này tác giả xây dựng các khái niệm cơ bản như: tố tụng dân sự, đương sự, hoạt động chứng minh chỉ rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự cũng như khái lược một số nét cơ bản về quy định của pháp luật qua từng thời kỳ về vai trò chứng minh của đương sự.
Phần thứ hai với tiêu mục là “Xác định vai trò chứng minh của đương sự – một vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” là nội dung chính của đề tài. Tác giả đi vào giải quyết các vấn đề liên quan để chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong sự so sánh với các chủ thể khác của họat động chứng minh, khẳng định vai trò này ngày càng quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay.
Phần thứ ba, sau khi đi nghiên cứu một cách toàn diện và chặt chẽ các vấn đề lý luận ở hai phần trên, tác giả đi vào phân tích những bất cập, tồn tại của Bộ luật TTDS hiện hành và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục, giải quyết, hiện thực hóa những quy định của pháp luật còn chưa có cơ chế cụ thể đảm bảo.
CHÚ THÍCH:
[1] Xem: Giáo trình Luật tố tụng dân sự – Trường đại học Luật Hà Nội, tr 107, 108. Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử. NXB Chính trị quốc gia – Tưởng Duy Lượng chủ biên, tr 10, 11
[2] Từ điển luật học – NXB Tư Pháp, tr. 785
[3] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ? ý chủ biên tr. 1606
[4] Theo Pothier thì “Tố tụng là hình thức phải theo để đệ đơn kiện, kháng biện, can thiệp, cứu xét, phán xử thượng khống và thi hành án văn” hay như G.S. Solus thì “Dân Sự Tố Tụng bao gồm những định lệ chi phối việc tổ chức và điều hành công lý, đặt ra để đảm bảo cho tư nhân các sự chế tài và tôn trọng quyền lợi trong tư luật” – xem Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam (1962), NXB Khai Trí xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư Pháp. tr5 – 6
[5] Đại biểu Lê Văn Tâm, Lê Xuân Thân, Lê Thị Nga, Nguyễn Đình Lộc trong buổi làm việc tại hội trường của Quốc Hội khóa XI ngày 19/ 11/ 2003
[6] Xem các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao các năm 2004, 2005, 2006 phần các quyết định về Dân Sự, Kinh doanh, Thương mại, Lao động – Đặc san của Tòa án Nhân Dân Tối Cao.
[7] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ý chủ biên
[8] Nguyễn Hữu Đắc – Từ điển Luật Học – NXB từ điển Bách Khoa, Hà Nội 1999
[9] Bryan A.Garner (2001) Blacks law dictonari. ST Pual MNN
[10] Giáo trình Luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp tr 104
[11] Xem: Nguyễn Mạnh Bách (1996) Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải), NXB Đồng Nai, tr 76, 77
[12] Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003. tr 192
[13] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin (1998) Nguyễn Như ý chủ biên, tr 1217
[14] Ph. Anghen, chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984), tr 56
[15] xem: Chương II Thỉnh cầu và kháng biện, Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải) – Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Đồng Nai 1996, tr 16 – 20.
[16] Trần Văn Liêm (1970) Dân Luật quyển 1, Dân luật nhập môn thế nhân. tr 191
[17] Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam ( 1962 ) NXB Khai Trí, tr. 22
[18] Giảng văn pháp chế sử (1961-1962) – giáo sư Vũ Quốc Thông, quyển 3 – Tổ chức tư pháp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc
[19] Xem phụ lục một số bức ảnh về thủ tục tố tụng thời kỳ Pháp thuộc
[20] Xem chương Thủ tục phiên tòa sơ thẩm ở các pháp lệnh
[21] Xem chương Thủ tục phúc thẩm tại các pháp lệnh
[22] Phan Hữu Thư (2001) Xây dựng bộ luật Tố Tụng Dân Sự – những vấn đề lý luận và thực tiễn NXB Chính Trị Quốc Gia. tr 223
[23] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin ( 1998 ) Nguyễn Như ý chủ biên tr 1788
[24] Xem mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”
[25] Xem Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
[26] Trường đại học Luật Hà Nội (2001) công trình nghiên cứu khoa học cấp trường. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Tr.65
[27] C. Mac – Ph. Anghen (1983) tuyển tập. Tập 5 NXB Sự Thật – Hà Nội
[28] francais juridique – cours elementaire – Maison du droi Vietnamo – Francais p.3 (Giáo trình tiếng pháp pháp lý – Nhà pháp luật Việt Pháp (bản tiếng Pháp) tr.3)
[29] Giáo trình luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội – NXB Tư Pháp tr11
[30] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
[31] Mục 2 Nghị Quyết số 49 – NQ\TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[32] Khoản 4 điều XVI Hiệp định MARRAKESH thành lập WTO.
[33] Đinh Ngọc Hiện – Tư pháp dân sự và thủ tục tố tụng dân sự – Hội thảo những vấn đề lý luận và thực tiễn của tố tụng dân sự Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi
[34] Báo cáo số 01/ BC – TA của Tòa án nhân dân tối cao ngày 5 tháng 1 năm 2007
[35] Tiết 2.1 mục 2 phần III nghị quyết số 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31 tháng 5 năm 2005 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân Dân Tối Cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004
[36] Xem điều 132,149 BLTTDS CHLB Nga, Điều 11, 132,133 BLTTDS Pháp, Điều 70 Bộ Dân Sự Tố Tụng Pháp 1807 (được áp dụng ở Việt Nam trong một thời kỳ Pháp thuộc), Điều 259 Nghị Định 16-3-1910, Điều 374 Bộ Hộ Sự, Thương Sự Tố Tụng Trung Việt.
[37] Xem điều 10 Luật trợ gúp pháp lý, hướng dẫn chi tiết tại điều 2 Nghị Định số 07/2007/ NĐ – CP ngày 12 tháng 1 năm 2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật trợ giúp pháp lý.
[38] Xem Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp và Bộ Nội Vụ số 08/2008/ TTLT – BTP – BNV ngày 7 tháng 11 năm 2008 Về việc hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
[39] Kinh nghiệm của một số nước cho thấy nhờ có sự tham gia tích cực từ phía luật sư mà số lượng án mà tòa thụ lý phải đưa ra xét xử thấp nhờ công tác hòa giải như Canada (< 5% ), Thụy Điển, Đan Mạch (< 20%), Nhật Bản hình thành một quan điểm phổ biến: “Tòa án nhỏ – Hòa giải lớn”. Nhưng tại Việt Nam, số lượng án thụ lý phải đưa ra xét xử rất lớn cụ thể như ở TP. Hồ Chí Minh hàng năm thụ lý từ 26.000 – 28.000 vụ và tỉ lệ xét xử là khoảng 65%.
[40] Điều 751 BLTTDS Cộng Hòa Pháp : “Các bên đương sự phải cử luật sư, trừ trường hợp có quy định khác. Việc cử luật sư cũng có nghĩa là đã trọn nơi cư trú. Việc không nêu rõ việc cử luật sư của mình đối với bên kia cũng coi như vô hiệu.”
[41] Xem Tranh tụng trong tố tụng dân sự – một số vấn đề lý luận cơ bản. Ths. Nguyễn Thị Thu Hà – Khoa luật dân sự, trường đại học Luật Hà Nội, Trang thông tin pháp luật dân sự.
[42] Mục 2.2 nghị quyết số 49 – NQ/ TW của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính Trị, nghị quyết số 34/NQ – TW ngày 03 tháng 02 năm 2004 về một số chủ trương, chính sách giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, nghị quyết số 49 – NQ/ TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020… Trong đó, vai trò chứng minh của đương sự đã được quy định thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”[31].
Chính sự chỉ đạo và định hướng của Đảng đã dần nâng cao nhận thức cũng như tính hiệu quả trong hoạt động tư pháp ảnh hưởng đến vai trò chứng minh của đương sự. Khi đã là một nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng hàng đầu thì đòi hỏi toàn bộ hệ thống tư pháp phải có sự mở rộng hơn nữa quyền và nghĩa vụ cụ thể của đương sự, đặt đương sự vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình tố tụng giúp cho vai trò của họ ngày càng quan trọng và được quan tâm hơn.
2.4.2 Xu thế của sự hội nhập
Trong xu thế phát triển chung hiện nay, những thuật ngữ như “hội nhập”, “toàn cầu hóa” đang được nhắc đến liên tục trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quan hệ trên thế giới đang có sự giao thoa mạnh mẽ, mỗi quốc gia không thể bó hẹp mình trong phạm vi lãnh thổ mà phải tham gia một cách tích cực, chủ động mới có thể hội nhập và phát triển đất nước. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động gia nhập vào các tổ chức, diễn đàn lớn trên thế giới và thể hiện được vai trò của mình như Liên Hợp Quốc, WTO, Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Châu á-Thái Bình Dương(APEC), Diễn đàn á- Âu (ASEM)…đồng thời với các thời cơ mới, thử thách mới là nhiệm vụ phải “đảm bảo sự thống nhất của Luật, các quy định dưới luật và các quy tắc hành chính với các nghĩa vụ của mình…”[32]
Sân chơi chung đòi hỏi phải có luật lệ chung, mà luật lệ chung này được cấu thành trên pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau. Khi tham gia các quan hệ mang tính liên quốc gia của nhiều lĩnh vực khác nhau như thương mại, lao động, đầu tư… đòi hỏi sự hiểu biết không chỉ luật lệ của một quốc gia mà phải hiểu biết luật lệ của nhiều quốc gia, không chỉ của một ngành luật cụ thể mà còn phải tổng hợp của nhiều ngành luật liên quan. Khi tranh chấp phát sinh, không phải nhà nước là chủ thể của một bên tranh chấp mà đương sự được xác định là các bên tham gia quan hệ hợp tác. Đương sự cần thiết phải tự bảo vệ được mình. Xu thế hội nhập đã kéo theo sự ra tăng nhanh chóng các vụ tranh chấp xuyên quốc gia mà ở đó chúng ta đã tỏ ra lúng túng khi thiếu đi những sự hiểu biết về pháp luật của đối phương. Nguyên nhân sâu xa là do tính“bao cấp” trong lĩnh vực tố tụng trong một thời gian dài làm cho các đương sự ỷ lại vào nhà nước, coi việc giải quyết tranh chấp là của tòa án chứ không phải là của bản thâm mình. Điều này đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Các quốc gia phát triển trên thế giới từ lâu đã coi trọng việc tự bảo vệ của đương sự trong hoạt động tố tụng. Những học giả tư bản đã xây dựng mô hình giải quyết tranh chấp dân sự theo hướng các bên đương sự được quyền tự do sử dụng chứng cứ mà mình có để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước phía có lợi ích tranh chấp. Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền sử dụng các chứng cứ mà các bên đưa ra làm cơ sở cho phán quyết của mình. Thuật ngữ “cỗ máy ra phán quyết” được áp dụng một cách triệt để trong sự tự vận động của đương sự (hình thức tố tụng cáo tố).
Nhận thức được giá trị của việc giải quyết các tranh chấp không phải nằm ở nhiều thủ tục tố tụng, mà ở chỗ phát huy được vai trò chủ động, tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. BLTTDS 2004 ra đời đánh dấu sự thống nhất các thủ tục tố tụng dân sự, lao động, kinh tế, loại bỏ giai đoạn điều tra trong tố tụng dân sự, ý thức một cách rõ ràng về vai trò của đương sự và xây dựng các quy chuẩn tố tụng phù hợp với thông lệ quốc tế, giảm thiểu đi sự lúng túng của đương sự khi tham gia tranh tụng tại các phiên tòa trên thế giới. Việc nhận thức một cách toàn diện và xây dựng thành công các quy phạm pháp lý điều chỉnh tới vai trò của đương sự trong hoạt động chứng minh là một bước tiến lớn trong BLTTDS hiện hành.
Khi nghiên cứu, tìm hiểu một số bộ luật tố tụng dân sự của các nước phát triển và có nền lập pháp lâu đời như Nga, Pháp, Trung Quốc… chúng ta có thể nhận thấy sự tương thích đáng kể trong cách nhìn nhận về vai trò chứng minh của đương sự trong hoạt động tố tụng thể hiện sự kế thừa, tiếp thu có trọn lọc những sự tiến bộ trong lĩnh vực lập pháp. Khi có tranh chấp phát sinh các đương sự phía Việt Nam dù là nguyên đơn hay bị đơn cũng có thể tự bảo vệ mình trong quá trình giải quyết.
2.4.3 Quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn hiện nay ngày càng được quan tâm
Khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, đương sự còn mang trong mình các quyền của con người, quyền công dân. Những quyền này có mối quan hệ biện chứng với nhau, khi quyền con người, quyền công dân ngày càng được quan tâm hơn, đầy đủ hơn thì quyền đương sự cũng theo đó mà được nâng cao, ghi nhận. Ngược lại, sự ghi nhận ngày càng đầy đủ quyền đương sự trong tố tụng chính là sự thể hiện quyền công dân, quyền con người đang ngày càng phát triển. Thời gian vừa qua, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế liên quan đến quyền con người như Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, Công ước quốc tế về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, Công ước xóa bỏ mọi sự phân biệt đối với phụ nữ… và được cụ thể hóa thành các quyền của công dân quy định trong Hiến Pháp và pháp luật của nhà nước. Ngày 8/5/2009, tại Geneva (Thụy Sĩ) lần đầu tiên Việt Nam trình bày báo cáo các vấn đề về quyền con người tại kỳ họp thứ V của Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc với sự tham dự của 192 quốc gia thành viên và đã nhận được những sự phản hồi tích cực thể hiện sự quan tâm ngày càng cao của Việt Nam tới vấn đề này. Như trong báo cáo đã nêu “nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực cho mọi chính sách phát triển kinh tế – xã hội và luôn nhất quán trong việc bảo đản và thúc đẩy các quyền con người” Việt Nam luôn coi trọng quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đảm bảo thực hiện trên thực tế bằng những cơ chế, chính sách cụ thể. Là một bộ phận của hệ thống chính trị quốc gia nên “hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực tư pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng dân sự của tòa án nói riêng không nằm ngoài nguyên lý chung và trên cơ sở quyền con người về dân sự đã được khẳng định trong Hiến Pháp và Bộ luật dân sự”[33] Đây là mục tiêu cơ bản của tố tụng dân sự trong giai đoạn hiện nay. Đương sự đóng vai trò trung tâm trong tố tụng dân sự. Nếu không có đương sự thì không có tố tụng dân sự và đương sự thể hiện quyền và nghĩa vụ của mình chủ yếu thông qua hoạt động chứng minh. ở đó, đương sự có thể tự mình định đoạt đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chủ động và tích cực tham gia các quan hệ tố tụng đồng thời có thể giảm gánh nặng về thủ tục cũng như trách nhiệm của tòa án. Thông qua việc mở rộng các quyền của đương sự, quyền công dân, quyền con người, đương sự có thể dễ dàng trong hoạt động chứng minh tính khách quan của vụ án cũng như tăng thêm tính chịu trách nhiệm đối với các quyền và lợi ích của mình góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy các giao lưu dân sự, thực hiện thành công công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà Nước đã đề ra.
Tổng kết phần 2
Trong phần 2, tác giả đã đi vào nghiên cứu và chỉ rõ vai trò của đương sự là quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh thông qua bốn giai đoạn là thu thập, cung cấp, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Chỉ rõ những quy định của pháp luật liên quan đến những hoạt động cụ thể này cũng như chứng minh tính quan trọng nhất của đương sự thông qua việc so sánh vai trò chứng minh của đương sự có tính chất quyết định đến hoạt động chứng minh của các chủ thể khác như: người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, viện kiểm sát và tòa án nhân dân. Đồng thời với đó đã đưa ra những luận giải thích hợp về tính lợi ích trong các tranh chấp, sự thống nhất giữa luật nội dung và luật hình thức cũng như những lý luận về việc đương sự là người hiểu vụ án nhất để giải thích rằng tại sao đương sự lại là chủ thể quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh.
Trong giai đoạn hiện nay khi những tác động của công cuộc đổi mới hoạt động tư pháp, xu thế của sự hội nhập cũng như trong giai đoạn quyền công dân, quyền con người đang ngày càng được quan tâm hơn đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến vai trò chứng minh của đương sự khiến cho vai trò này ngày càng quan trọng hơn.
Từ việc nhận thức rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất thì việc tạo ra những cơ chế, quy định cụ thể để họ có thể làm tốt nhất công việc của mình, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp là rất cần thiết. Vấn đề này sẽ được giải quyết trong phần 3.
3. NHỮNG BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về vai trò chứng minh của đương sự
3.1.1 Đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong hoạt động chứng minh.
Khi các tranh chấp dân sự sảy ra thì tính lợi ích trong đó được thể hiện rất rõ ràng, các đương sự tham gia là nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của mình. Chính yếu tố lợi ích này sẽ là động lực hình thành và phát triển tính chủ động, nhanh chóng của đương sự trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, cần nhận thức và khai thác triệt để khả năng của đương sự trong hoạt động chứng minh. Một mặt giảm công việc của tòa án trong điều kiện “Các tranh chấp dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động gia tăng về số lượng và ngày càng phức tạp” [34]. Mặt khác tạo ra tính tự chịu trách nhiệm từ phía đương sự. BLTTDS đã quy định quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc cụ thể và nguyên tắc này có mối quan hệ biện chứng mật thiết với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự. Đương sự chỉ có thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình khi đảm bảo sự tự định đoạt và ngược lại, quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thể hiện rõ nét nhất khả năng tự định đoạt của đương sự. Theo đó, các quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự do chính hành vi tố tụng của họ quyết định. Khi đương sự đưa ra yêu cầu mà thực hiện được đầy đủ, chính xác quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình thì các quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được đảm bảo bằng phán quyết của tòa án. Khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng đắn, đầy đủ nghĩa vụ này cũng đồng nghĩa là họ đã tự mang lại cho mình một hậu quả pháp lý bất lợi . Hoạt động chứng minh theo đó mà cũng phải đảm bảo được sự tự chủ của đương sự, tòa án chỉ đóng vai trò hỗ trợ đương sự trong việc cung cấp, thu thập và thậm chí cả nghiên cứu, đánh giá chứng cứ.
Mặc dù là một nguyên tắc quan trọng nhưng quyền tự định đoạt của đương sự trong hoạt động chứng minh được quy định một cách chung chung và trên thực tế chưa có những biện pháp cụ thể để bảo đảm hoạt động của đương sự còn bị mang tính bị động và phụ thuộc quá nhiều vào tòa án như trong việc thu thập chứng cứ của đương sự còn phụ thuộc nhiều vào tòa án, việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của đương sự gần như không được quan tâm và chỉ thể hiện một cách hạn chế tại phiên tòa. Nhưng chính tại phiên tòa các quyền tự định đoạt trong hoạt động chứng minh lại một lần nữa không được đảm bảo khi mà thủ tục thẩm vấn diễn ra phổ biến, khả năng tranh tụng của đương sự bị hạn chế do thiếu kinh nghiệm tố tụng và không được quan tâm… Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc phát huy vai trò trung tâm, quan trọng nhất của đương sự trong hoạt động chứng minh nói riêng và toàn bộ tiến trình tố tụng dân sự nói chung cần thiết nhất là phải đảm bảo được quyền tự định đoạt của đương sự và tạo ra các cơ chế, biện pháp cụ thể để quyền này có thể thực hiện được một cách nhanh chóng, chính xác.
3.1.2 Đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự trong hoạt động chứng minh và sự triệt để tuân thủ pháp luật
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” là một nguyên tắc chỉ đạo được quy định tại Điều 52 Hiến Pháp 1992 thể hiện bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, các biện pháp hoàn thiện vai trò chứng minh của đương sự cũng phải đảm bảo được nguyên tắc cụ thể này bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc đương sự thể hiện vai trò chứng minh hàng đầu của mình. Chủ thể của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự rất đa dạng bao gồm các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của chung), tòa án, viện kiểm sát (trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án). Trong đó, vai trò của đương sự ở vị trí trung tâm và quyết định đến việc chứng minh của các chủ thể khác. Hơn nữa, các bên đương sự là những cá nhân, cơ quan, tổ chức có địa vị pháp lý bình đẳng nên các biện pháp đưa ra để hoàn thiện vai trò chứng minh của đương sự phải mang tính bình đẳng. Bình đẳng ở đây nghĩa là không có bất cứ sự phân biệt nào về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự. Không ai có bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào dù đó là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời hậu quả pháp lý bất lợi sẽ áp dụng cho tất cả các đương sự không thực hiện hay thực hiện một cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình. Có làm được như vậy mới giúp đương sự hoàn thành tốt quyền và nghĩa vụ chứng minh.
Bên cạnh đó, nhà nước pháp quyền đòi hỏi mọi hoạt động phải dựa trên quy định của pháp luật. Không chỉ đương sự phải triệt để tuân thủ pháp luật khi thực hiện hoạt động chứng minh mà đòi hỏi cả từ phía các cơ quan tổ chức có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ đương sự. Một mặt cần nâng cao ý thức trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức này mặt khác phải quy định các biện pháp chế tài cụ thể để áp dụng khi họ vi phạm, quy kết trách nhiệm về từng cá nhân cụ thể. Có như vậy hoạt động tố tụng mới diễn ra thuận lợi và suôn sẻ.
3.1.3 Việc hoàn thiện pháp luật phải cụ thể và có các biện pháp hữu hiệu để đảm bảo thực hiện trên thực tế
Một bộ phận luật pháp hiện tại còn mang nặng tính hình thức, chung chung khẩu hiệu và không có biện pháp bảo đảm cụ thể nên đã không phát huy được vai trò tích cực trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, các biện pháp hoàn thiện vai trò chứng minh của đương sự đòi hỏi phải tránh được hiện tượng chung chung, hình thức này mới mong có hiệu quả cao. Các biện pháp đưa ra phải hướng tới những chủ thể cụ thể của hoạt động chứng minh, những chủ thể có nghĩa vụ hỗ trợ với những biện pháp cụ thể và có tính thực tiễn cao, vừa dễ làm, dễ tiếp cận vừa có hiệu quả cao
3.1.4 Việc hoàn thiện pháp luật phải dựa trên sự học hỏi kinh nghiệm tiến bộ của các nước trên thế giới nhằm tạo ra tính tương thích, phù hợp.
Như đã phân tích ở trên, trong giai đoạn hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, có ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, đất nước trong đó có cả lĩnh vực tố tụng dân sự. Vì thế, hoàn thiện pháp luật về tố tụng cũng như vai trò chứng minh của đương sự không thể đặt ra ngoài sự vận động chung của thế giới, có như vậy khi tham gia tranh chấp quốc tế sự bỡ ngỡ sẽ giảm đi, tính chủ động được tăng lên và sẽ không quá khó khăn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích. Một trong những biện pháp được đưa ra là học hỏi, tham khảo tiếp thu có trọn lọc các quy định về tố tụng dân sự tại một số nước có nền lập pháp lâu đời trên thế giới sẽ rút ngắn được thời gian nghiên cứu cũng như thực tiễn áp dụng.
3.2. Những giải pháp cụ thể để hiện thực các quy định của pháp luật
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng tương ứng, muốn pháp luật phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc định hướng sự vận động của xã hội, phục vụ được mục tiêu của nhà nước thì đòi hỏi nó phải thực tế, phù hợp với những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội. Vấn đề về vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự cũng vậy, khi đã nhận thức được vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay thì cần thiết phải đưa ra được những giải pháp để đương sự có thể triệt để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Những giải pháp này cần cụ thể, dễ thực hiện và không chỉ dừng lại ở các nguyên tắc chung. Trong quá trình nghiên cứu BLTTDS 2004 về vai trò chứng minh của đương sự có thể nhận thấy một số điểm còn hạn chế. Dưới đây xin đi vào chỉ rõ những hạn chế đó đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết
3.2.1 Tạo điều kiện để đương sự có thể tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
Thứ nhất, theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Tuy nhiên, trên thực tế quyền quan trọng này của đương sự rất khó có thể thực hiện được. Thông thường thì chỉ khi nguyên đơn khởi kiện thì các tài liệu chứng cứ và đơn khởi kiện được thông báo cho phía bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được biết (Điều 174 – BLDS) và từ đó họ sẽ có văn bản trả lời (Điều 175 – BLDS). Còn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các bên xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên đương sự chỉ có “quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa án. Nhưng chính quyền được biết này lại mang tính chất chung chung khi không quy định một cách cụ thể ai là người phải thông báo cho đương sự khi có những chứng cứ mới được đưa ra. Khi có yêu cầu sao chụp phải có đơn yêu cầu và trong đơn “phải ghi cụ thể những tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp”[35]. Khi đương sự đã không biết những chứng cứ, tài liệu do bên kia cung cấp thì làm sao biết được mình cần sao chụp những gì? Đây là một quy định không thực tế. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam khi mà trình độ hiểu biết còn thấp việc hiểu biết về luật TTDS còn hạn chế nên không thể nào biết cũng như thực hiện quyền này của mình. Cá biệt trong nhiều trường hợp chứng cứ được cung cấp tại cấp phúc thẩm, các bên đương sự còn lại không thể có thời gian thu thập những chứng cứ để phản bác lại lập luận dựa trên chứng cứ mới của bên kia gây bất lợi cho họ
Chính vì vậy, BLDS nên tiếp thu một số kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới như Pháp, Liên Bang Nga cũng như pháp luật tố tụng dân sự trong một số thời kỳ ở nước ta về việc quy định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại – Đây được gọi là nguyên tắc đối tịch[36]. Nguyên tắc này vẫn có thể dẫn đến tình trạng bên được thông báo cố tình phủ nhận việc thông báo đó gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Nên các văn bản hoặc tài liệu photo này sẽ được chuyển cho bên còn lại thông qua tòa án – một cơ quan nhà nước có hoạt động chặt chẽ sẽ đảm bảo được tính nhanh chóng và quyền lợi của các bên. Nếu bên cung cấp chứng cứ cố tình không cung cấp bản sao hoặc văn bản thông báo cho bên còn lại thì có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế. Thời gian thông báo do thẩm phán ấn định tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể vì có thể thời gian chuẩn bị xét xử còn lại ngắn nhưng cần giới hạn trong khoảng từ 1 – 5 ngày. Đối với những trường hợp đương sự cung cấp chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 271 BLTTDS cần có quy định bổ xung là các chứng cứ mới này trước đó đương sự “không biết” hoặc “không thể biết”để tránh trường hợp đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ không cung cấp nhằm kéo dài quá trình tố tụng hoặc để gây bất lợi cho đương sự khác vì bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Khi không thể làm rõ về sự “không biết” hoặc “không thể biết”này thì không thể phủ nhận những chứng cứ này vì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người đưa ra chứng cứ, nên có thể quy định về chế tài phạt phải chịu án phí đối với những đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ đến cấp phúc thẩm mới cung cấp.
Thứ hai, trên thực tế có thể thấy hoạt động chứng minh là chỉ cho thấy rõ là đúng, là có thật bằng lý lẽ hoặc bằng chứng cứ đây là công việc chủ yếu của đương sự. Tuy nhiên, việc có công nhận là đúng, là có thật hay không lại thuộc về tòa án. Hiện nay các tòa án vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía đương sự, còn nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đồng nhất nghĩa vụ cung cấp chứng cứ với nghĩa vụ chứng minh, các bên đương sự chỉ thực hiện một phần nhỏ quyền, nghĩa vụ nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa. Đây là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Do đó, cần thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của hoạt động chứng minh từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ mới có thể phát huy được vai trò quan trọng và trung tâm của họ.
Một trong các biện pháp có thể áp dụng để khắc phục được nhược điểm này là hình thành một phiên tòa trù bị. Phiên tòa trù bị sẽ do một thẩm phán được phân công xét xử vụ việc đó chủ trì. Phiên tòa bao gồm các bên đương sự, họ sẽ được xem xét toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ đồng thời đưa ra nhận định của mình thể hiện quyền nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Phiên tòa trù bị sẽ không có bất cứ một phán quyết nào được đưa ra. Tuy nhiên, nó sẽ có vai trò vô cùng quan trọng tác động đến thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi đó họ sẽ có một cái nhìn khách quan hơn toàn diện hơn về vụ việc có tranh chấp. Đồng thời với đó là các bên đương sự có thể nhận định một cách tỉ mỉ về vụ án, chuẩn bị tốt nhất cho phiên tòa chính thức diễn ra theo đúng quan điểm tranh tụng, phát huy dân chủ đối với các bên và tăng cường được sự tin tưởng của đông đảo nhân dân. Phương án này có thể dẫn đến một khó khăn khác là gây ra việc kéo dài tố tụng cũng như tốn kém thời gian. Tuy nhiên, chỉ với một thẩm phán tham gia chủ trì cũng như thời gian tiến hành ngắn (chỉ một ngày) so với hiệu quả thiết thực mà nó mang lại thì phương án này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Thứ ba, một trong những vướng mắc diễn ra khá phổ biến trong thời gian vừa qua khi áp dụng bộ luật TTDS liên quan đến việc tiếp cận chứng cứ của đương sự chính là ở chỗ các chứng cứ, tài liệu nằm trong sự kiểm soát của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác mà họ lại không phối hợp giúp đỡ các đương sự cũng như tòa án trong việc cung cấp các loại chứng cứ này. Có thể thấy rằng thời gian tiến hành họat động tố tụng đối với một vụ án cụ thể thường rất ngắn (thông thường từ 2- 4 tháng) nếu như những cá nhân, cơ quan tổ chức này cố tình kéo dài, không cung cấp chứng cứ thì sẽ làm cho việc tự bảo vệ của đương sự khó khăn hơn rất nhiều. Cá biệt có trường hợp khi tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức này chỉ cung cấp một cách vụn vặt các chứng cứ hoặc ở mỗi giai đoạn lại cung cấp những chứng cứ khác nhau thậm chí đối lập nhau ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của bản án.
Bộ luật TTDS hiện hành chỉ quy định một cách rất chung chung về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tại đoạn 2 khoản 2 Điều 94 “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của tòa án trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu” mà không có quy định cụ thể để đảm bảo nghĩa vụ đó. Vì vậy, cần có một hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Theo đó, khi không thể cung cấp được chứng cứ thì phải thông báo cụ thể bằng văn bản đồng thời với đó là quy kết trực tiếp vấn đề trách nhiệm. Đối với tổ chức thì quy trách nhiệm cụ thể về người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó để họ có thể thực hiện nghĩa vụ này mà không hề có sự cản trở nào. Đối với cá nhân, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời thì có thể quy định vấn đề phạt tiền để răn đe tùy thuộc vào tính chất cũng như mức độ vi phạm.
3.2.2 Tạo điều kiện để đương sự có thể tự bảo vệ
Đương sự có vai trò quan trọng hàng đầu, họ phải tự bảo vệ lấy quyền và lợi ích của mình khi có tranh chấp xảy ra phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, điều này khác hẳn so với trong tố tụng hình sự khi mà bị can bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự là thuộc về phía tòa án đương sự hoàn toàn có thể “im lặng” mà quyền và lợi ích của họ trong một chừng mực nhất định vẫn được bảo đảm. Mặc dù vậy, có thể khẳng định ngay rằng khả năng tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là rất thấp nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ dân chí chưa cao, sự hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa khi mà người dân đã đi kiện cơ quan điện lực vì đã trồng cột điện “nhìn” vào bàn thờ nhà mình… thì hoàn toàn có thể nhận thấy rằng đây là những đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Năm 1997 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức pháp lý hỗ trợ cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, ngày 29/6/ 2006 Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật trợ giúp pháp lý, ngày 23 tháng 6 năm 2008 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 792/QĐ- TTg về việc phê duyệt đề án “Quy hoạch mạng lưới trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và chi nhánh của trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015” đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về vấn đề này. Tuy nhiên theo các văn bản trên đối tượng được hưởng sự hỗ trợ chỉ là đối tượng đói nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào các dân tộc thiểu số, người già, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa[37]… Hơn nữa các cơ quan được thành lập chỉ có ở cấp tỉnh (biên chế khoảng 16 người) và các chi nhánh thành lập ở các đơn vị hành chính cấp huyện (biên chế khoảng 3 người)[38]. Như vậy là chưa đủ trong điều kiện các tranh chấp ngày càng phức tạp và phát sinh ngày càng nhiều hơn với nhiều đối tượng khác nhau và không phải ai cũng đủ hiểu biết để có thể biết được các tổ chức này. Cần thiết phải tạo ra một cơ chế hỗ trợ tất cả các đương sự ngay từ ban đầu, thậm chí là trước khi khởi kiện mà phải gần gũi với nhân dân.
Giải pháp được đưa ra đối với các trường hợp này có thể là thành lập các tổ trợ giúp pháp lý thuộc cấp huyện, trong một số địa phương có số lượng tranh chấp dân sự nhiều có thể tiến tới thành lập tại các xã, phường, thị trấn, các doanh nghiệp… Những tổ trợ giúp này có thể nằm trong các hội như Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Công Đoàn… số lượng chỉ khoảng 1-2 người vì hoạt động mang tính thường xuyên và chỉ có vai trò tư vấn. Chức năng của các tổ tư vấn này bao gồm cả việc giúp đỡ đương sự khi có ý định khởi kiện, đề ra các đối tượng cần chứng minh trong mỗi vụ án cụ thể hay nói cách khác là “bày” cho đương sự biết cần phải làm gì để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của mình. Khi đó, đương sự hoàn toàn có thể chủ động trong việc tìm kiếm và thu thập chứng cứ, giảm đáng kể gánh nặng cho ngành tòa án. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu các tranh chấp phát sinh vì khi được tư vấn các bên sẽ đánh giá, nhìn nhận chính xác khả năng thắng kiện của mình và đưa ra quyết định thích hợp có hay không khởi kiện ra tòa án.
Ngoài ra, khi đương sự không có đủ khả năng về kiến thức pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng trước tòa án thì họ có thể nhờ những người đáp ứng được yêu cầu này tham gia tố tụng, thay mặt mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đây chính là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông thường, họ là những luật sự – những người được đào tạo một cách bài bản về công tác pháp lý, có kinh nghiệm tố tụng nhưng cũng có thể là những người khác khi đương sự có đủ sự tin tưởng vào khả năng của họ. Trong điều kiện hạn chế về nhận thức thì đây là giải pháp quan trọng để đương sự có thể tự bảo vệ mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp sẽ hướng dẫn để đương sự có thể biết được cần phải thu thập những tài liệu, chứng cứ gì để làm cơ sở cho yêu cầu hay phản yêu cầu của mình, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời nếu được tham gia sớm họ có thể tư vấn cho đương sự của mình biết được những điểm mạnh, những bất lợi. Hoạt động này tạo điều kiện tốt nhất để đương sự nhìn nhận một cách thấu đáo về khả năng thắng kiện của mình, giúp cho việc hòa giải có thể diễn ra thuận lợi, giảm đi tương đối các vụ tranh chấp phát sinh tại tòa án[39]. Hiện nay vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được trú trọng quan tâm cũng như thiếu đi cơ chế để đảm bảo cho họ có thể tham gia một cách nhanh chóng, dễ dàng. Người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự chỉ tham gia khi đã có tranh chấp sảy ra, hồ sơ của vụ án đã tương đối hoàn thiện công việc của họ chỉ là đi tìm kiếm những căn cứ có lợi cho thân chủ của mình trong phạm vi hạn hẹp của bộ hồ sơ đã hình thành tại tòa án.
Chính vì vậy, một trong các biện pháp để tăng cường sự tự bảo vệ của đương sự là khuyến khích sự tham gia từ phía luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong điều kiện hiện tại, không thể đòi hỏi sự tham gia của luật sư mang tính chất bắt buộc như trong hoạt động tố tụng dân sự của Pháp[40], tuy nhiên có thể mở rộng các biện pháp cụ thể khuyến khích sự tham gia của họ như giảm bớt các thủ tục xác lập khi tham gia, phổ biến quyền được nhờ luật sư, người bảo vệ ngay khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, yêu cầu các đoàn luật sư tỉnh, thành phố tham gia giải quyết một số vụ việc cụ thể của những đối tượng cụ thể như đối tượng chính sách, gia đình nghèo…
Một trong các biện pháp để đương sự có thể chủ động bảo vệ mình khi tham gia tố tụng dân sự đó là trao trả đương sự một số quyền thu thập chứng cứ. Chứng cứ là vấn đề mấu chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng cứ thì cũng không có hoạt động chứng minh và đương sự không thể bảo vệ được mình. Chính vì vậy, công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng nhất trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại như cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Hiện tại có nhiều biện pháp thu thập chứng cứ khác nhau như lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, biên bản đối chất, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, kết luận giám định, kết quả định giá tài sản… hầu hết các chứng cứ trên muốn có được đều phải thông qua tòa án, đương sự thấy cần thiết thì yêu cầu tòa án tiến hành lấy chứng cứ. Đây là những quy định đã làm giảm đi khả năng chủ động của đương sự trong việc thu thập chứng cứ bởi phải thông qua hoạt động chủ quan của cán bộ tòa án, chỉ khi những cán bộ này “xét thấy” cần thiết thì mới cho tiến hành thu thập chứng cứ. Bên cạnh đó, những gì mà tòa án và các bên đương sự quan tâm khi tiến hành các biện pháp này chính là kết quả của quá trình đó như thế nào? có nghĩa là chứng cứ thu thập được là gì chứ họ không nhất thiết phải quan tâm đến cách thức tiến hành ra sao. Mặc dù nếu để các đương sự quá tự do thì sẽ dẫn đến việc thu thập chứng cứ không khách qua nhưng trong luật tố tụng dân sự đã dự liệu các trường hợp không đồng ý thì họ có thể tiến hành tố cáo chứng cứ giả mạo theo quy định tại Điều 91 BLTTDS đối với những chứng cứ vật chất hoặc Điều 98 BLTTDS đối với hành vi cung cấp sai sự thật của người làm chứng.
Như vậy, có thể trao trả đương sự một số quyền thu thập chứng cứ cơ bản mà không phải thông qua tòa án như trưng cầu giám định, lấy lời khai của người làm chứng. Biện pháp này có thể giảm bớt gánh nặng cho tòa án cũng như tạo cho đương sự khả năng chủ động cao trong việc tự bảo vệ mình, phát huy vai trò trung tâm trong hoạt động tố tụng dân sự.
3.2.3 Mở rộng tranh tụng tại phiên tòa – một yêu cầu cơ bản
Vai trò chứng minh của các đương sự được thể hiện một cách cụ thể và trọng tâm nhất trong phiên tòa. Khi đó, các bên sẽ đưa ra những chứng cứ, cơ sở pháp lý mà mình có để bảo vệ những luận điểm của mình, tính dân chủ, minh bạch cũng như tính chính xác trong phán quyết của tòa án cũng từ đây mà hình thành và được tôn trọng. Do đó, việc mở rộng phạm vi, hiệu quả của tranh tụng trong tố tụng dân sự là yêu cầu cấp thiết.
Tranh tụng, về mặt khái niệm được hiểu là “kiện tụng”, theo nghĩa Hán Việt được hiểu là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”. Xung quanh quan điểm về khái niệm tranh tụng còn có nhiều ý kiến khác nhau như “tranh tụng chỉ là mối tương quan pháp lý giữa các đương sự”, “tranh tụng phát sinh hai mối tương quan: giữa các đương sự tranh nại với nhau và với đương sự với quốc gia, mà đại diện là tòa án có thẩm quyền” hay “sự tranh tụng là quá trình từ khi tố quyền được hành xử cho đến khi có một phán quyết của tòa án”[41]. Tuy nhiên, có thể thấy hai đặc điểm cơ bản nổi bật là tranh tụng trong tố tụng dân sự thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa và tranh tụng áp dụng với các bên đương sự với nhau, kết quả của nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng mang tính cưỡng chế của nhà nước. Tranh tụng thể hiện được vị trí quan trọng của đương sự trong hoạt động chứng minh, nó là quyền của các đương sự trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án thực sự chỉ đóng vai trò của một vị trọng tài trong việc đề ra các đối tượng cần chứng minh còn các đương sự tự do sử dụng chứng cứ, lập luận.
Việc mở rộng tranh tụng không những phù hợp với quan điểm “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[42] của Đảng mà còn là một yêu cầu tất yếu trong xu thế hội nhập khi các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng một cách triệt để nguyên tắc này. Còn tại Việt Nam quá trình tố tụng vẫn diễn ra theo lối xét hỏi, hội đồng xét xử chỉ tiến hành hỏi tại phiên tòa với những vấn đề còn chưa được rõ. Hiện tượng bản án đã được quyết định trước khi có phiên tòa, phiên tòa chỉ là một hình thức để “hợp thức hóa bản án” đã có từ trước vẫn còn phổ biến. Vai trò của đương sự không được để ý nhiều, thể hiện ở trình tự phiên tòa là xét hỏi trước rồi mới đến tranh luận, số lượng các điều luật quy định vấn đề xét hỏi nhiều hơn hẳn so với các quy định về vấn đề tranh luận (15/ 4), thủ tục hỏi bắt đầu từ phía hội đồng xét xử, khi các bên muốn hỏi phải được sự đồng ý của HĐXX. Cá biệt tại một số tòa án, HĐXX còn hạn chế thời gian tranh luận của các bên đương sự. Cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm này.
Giải pháp được đưa ra cho vấn đề này là cần phải quy định vấn đề tranh tụng thành một nguyên tắc là nguyên tắc tranh tụng. Như đã phân tích ở trên thì những nguyên tắc là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, khi đưa tranh tụng lên thành một nguyên tắc sẽ mang tính chất chỉ đạo cho toàn bộ quá trình tố tụng. Tòa án sẽ phải quan tâm hơn đến quyền của các bên đương sự cũng như tạo ra sự nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của đương sự. Ngoài ra, còn phải có các biện pháp cụ thể đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế như nghiêm cấm việc xây dựng phán quyết trước khi mở phiên tòa. Vì khi đã tiến hành phán quyết từ trước thì theo tâm lý chủ quan của HĐXX sẽ gây khó khăn cho phía đương sự bất lợi trong phán quyết đó cũng như tạo ra tâm lý ngại sửa đổi bản án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên. Thứ hai, quy định tiến hành thủ tục tranh luận trước khi xét hỏi bởi khi tranh luận các bên tự do đưa ra những ý kiến của mình và bảo vệ nó, tòa án sẽ định hướng quá trình tranh luận để làm rõ những căn cứ giải quyết tranh chấp về pháp luật nội dung. Khi các bên đã hoàn thành thủ tục tranh luận thì HĐXX sẽ hỏi những vấn đề còn chưa được rõ để làm căn cứ cho phán quyết của mình. Có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng và dân chủ trong phiên tòa.
3.2.4 Giải quyết vấn đề tài chính
Trong hoạt động chứng minh, việc thu thập chứng cứ là một khâu quan trọng nhất để tạo ra những cơ sở vững chắc cho quan điểm của các bên. Có nhiều cách thức khác nhau để tiến hành việc thu thập chứng cứ, nhưng trên thực tế không phải lúc nào đương sự cũng có thể tự mình lấy được các chứng cứ. Chứng cứ nằm ở nhiều nguồn khác nhau, có thể từ lời khai của người làm chứng, có thể trong các kết luận mang tính khoa học như giám định… việc thu thập các chứng cứ này không chỉ đơn thuần là tốn công sức của đương sự mà còn tốn kém cả tiền bạc. Luật tố tụng dân sự đã quy định rất rõ ràng về các chi phí tố tụng trong đó có cả các chi phí cho hoạt động thu thập chứng cứ như chi phí giám định, chi phí định giá, chi phí cho người làm chứng… (mục 2 chương IX – BLTTDS 2004) theo đó bên nào có yêu cầu tiến hành phải nộp tiền tạm ứng chi phí sau đó khi có bản án mới xác định cụ thể đối tượng phải nộp. Tuy nhiên, khoản tiền nộp tạm ứng chi phí tố tụng như trên cũng không phải vấn đề nhỏ bởi thu nhập tại nhiều địa phương còn thấp mà các khoản chi phí tố tụng này thì không phải nhỏ, đôi khi ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên đương sự, hạn chế khả năng thu thập chứng cứ. Ví dụ như trường hợp người mẹ đi kiện xác định cha cho con. Mẹ đứa trẻ có nghĩa vụ chứng minh người đàn ông bị kiện là cha đứa trẻ. Việc xác định này là rất khó khăn khi thiếu bằng chứng và biện pháp cuối cùng được tìm đến là biện pháp giám định. Người yêu cầu giám định ở đây là mẹ của đứa trẻ nên sẽ phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Tuy nhiên, chi phí giám định thường khá lớn (giao động trong khoảng 20 triệu đồng), nhiều trường hợp sẽ không có đủ tiền để nộp tạm ứng nên sẽ rất dễ ảnh hưởng đến tính chính xác của bản án cũng như quyền lợi của cả người mẹ và đứa trẻ.
Không thể quy định miễn cũng như quy định dễ dãi đối với các chi phí tố tụng này bởi như vậy sẽ dẫn đến tình trạng yêu cầu một cách tràn lan, không cần thiết ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước trong điều kiện các tranh chấp dân sự đang ngày càng nhiếu. Nhưng cũng cần thiết phải quan tâm để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng khó khăn nên quy định trong từng trường hợp cụ thể tòa án sẽ cho phép tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ cần chi phí có sự hỗ trợ từ phía ngân sách nhà nước. Những trường hợp này phải đảm bảo được hai điều kiện. Thứ nhất, đối tượng nộp tam ứng phải là những người thực sự khó khăn về kinh tế như gia đình nghèo, đối tượng chính sách… họ không thể có đủ tiền để nộp. Điều kiện thứ hai là trong vụ án đó không còn cách nào khác để nhận định chính xác đối với đối tượng tranh chấp (như ví dụ trên nếu như đã có đủ căn cứ để suy luận người đàn ông là cha của đứa trẻ thì sẽ không cần phải tiến hành trưng cầu giám định).
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp đưa ra để hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc nâng cao hiệu quả và tính chủ động, tích cực của đương sự trong hoạt động chứng minh thể hiện qua các giai đoạn của quá trình thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các biện pháp này khi đi vào thực tế sẽ có hiệu quả tích cực nên cần thiết phải được áp dụng sớm.
Lời kết
Pháp luật tố tụng dân sự là một biện pháp bảo đảm thực tế cho các quyền và lợi ích về dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Xuất phát từ bản chất đặc biệt của quá trình tố tụng là sự độc lập, tự quyết của các đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua hoạt động chứng minh – quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Nên vai trò của đương sự trong đó là quan trọng nhất và có tính chất quyết định đến hoạt động chứng minh của các chủ thể khác. Trong hoàn cảnh hiện nay, vai trò này ngày càng quan trọng hơn khi quá trình giao lưu quốc tế trên mọi lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động đòi hỏi sự tương thích về văn hóa pháp lý cũng như thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, việc nhận thức một cách đầy đủ về vai trò chứng minh quan trọng nhất của đương sự trong tố tụng dân sự của Việt Nam giai đoạn hiện nay và tạo ra những cơ chế, biện pháp thiết thực, hữu hiệu để họ có thể phát huy được hết khả năng tích cực của mình là vô cùng cần thiết.
Đề tài trên đây tác giả đã đi vào nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện để chứng tỏ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án dân sự đặt trong hoàn cảnh hiện tại, chỉ rõ những bất cập, tồn tại và đưa ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục, hoàn thiện với mục đích giúp đương sự phát huy mạnh mẽ khả năng của mình và phần nào giảm gánh nặng cho ngành tòa án.
Tuy nhiên, Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc học hỏi, tìm hiểu nhưng trong phạm vi còn hạn hẹp về khả năng nghiên cứu của một sinh viên, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nên rất mong mỏi có được sự đóng góp thẳng thắn từ phía những người quan tâm đến vấn đề quan trọng này!
CHÚ THÍCH:
[1] Xem: Giáo trình Luật tố tụng dân sự – Trường đại học Luật Hà Nội, tr 107, 108. Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử. NXB Chính trị quốc gia – Tưởng Duy Lượng chủ biên, tr 10, 11
[2] Từ điển luật học – NXB Tư Pháp, tr. 785
[3] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ? ý chủ biên tr. 1606
[4] Theo Pothier thì “Tố tụng là hình thức phải theo để đệ đơn kiện, kháng biện, can thiệp, cứu xét, phán xử thượng khống và thi hành án văn” hay như G.S. Solus thì “Dân Sự Tố Tụng bao gồm những định lệ chi phối việc tổ chức và điều hành công lý, đặt ra để đảm bảo cho tư nhân các sự chế tài và tôn trọng quyền lợi trong tư luật” – xem Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam (1962), NXB Khai Trí xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư Pháp. tr5 – 6
[5] Đại biểu Lê Văn Tâm, Lê Xuân Thân, Lê Thị Nga, Nguyễn Đình Lộc… trong buổi làm việc tại hội trường của Quốc Hội khóa XI ngày 19/ 11/ 2003
[6] Xem các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao các năm 2004, 2005, 2006 phần các quyết định về Dân Sự, Kinh doanh, Thương mại, Lao động – Đặc san của Tòa án Nhân Dân Tối Cao.
[7] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ý chủ biên
[8] Nguyễn Hữu Đắc – Từ điển Luật Học – NXB từ điển Bách Khoa, Hà Nội 1999
[9] Bryan A.Garner (2001) Blacks law dictonari. ST Pual MNN
[10] Giáo trình Luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp tr 104
[11] Xem: Nguyễn Mạnh Bách (1996) Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải), NXB Đồng Nai, tr 76, 77
[12] Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003. tr 192
[13] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin (1998) Nguyễn Như ý chủ biên, tr 1217
[14] Ph. Anghen, chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984), tr 56
[15] xem: Chương II Thỉnh cầu và kháng biện, Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải) – Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Đồng Nai 1996, tr 16 – 20.
[16] Trần Văn Liêm (1970) Dân Luật quyển 1, Dân luật nhập môn thế nhân. tr 191
[17] Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam ( 1962 ) NXB Khai Trí, tr. 22
[18] Giảng văn pháp chế sử (1961-1962) – giáo sư Vũ Quốc Thông, quyển 3 – Tổ chức tư pháp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc
[19] Xem phụ lục một số bức ảnh về thủ tục tố tụng thời kỳ Pháp thuộc
[20] Xem chương Thủ tục phiên tòa sơ thẩm ở các pháp lệnh
[21] Xem chương Thủ tục phúc thẩm tại các pháp lệnh
[22] Phan Hữu Thư (2001) Xây dựng bộ luật Tố Tụng Dân Sự – những vấn đề lý luận và thực tiễn NXB Chính Trị Quốc Gia. tr 223
[23] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin ( 1998 ) Nguyễn Như ý chủ biên tr 1788
[24] Xem mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”
[25] Xem Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
[26] Trường đại học Luật Hà Nội (2001) công trình nghiên cứu khoa học cấp trường. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Tr.65
[27] C. Mac – Ph. Anghen (1983) tuyển tập. Tập 5 NXB Sự Thật – Hà Nội
[28] francais juridique – cours elementaire – Maison du droi Vietnamo – Francais p.3 (Giáo trình tiếng pháp pháp lý – Nhà pháp luật Việt Pháp (bản tiếng Pháp) tr.3)
[29] Giáo trình luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội – NXB Tư Pháp tr11
[30] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
[31] Mục 2 Nghị Quyết số 49 – NQ\TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[32] Khoản 4 điều XVI Hiệp định MARRAKESH thành lập WTO.
[33] Đinh Ngọc Hiện – Tư pháp dân sự và thủ tục tố tụng dân sự – Hội thảo những vấn đề lý luận và thực tiễn của tố tụng dân sự Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi
[34] Báo cáo số 01/ BC – TA của Tòa án nhân dân tối cao ngày 5 tháng 1 năm 2007
[35] Tiết 2.1 mục 2 phần III nghị quyết số 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31 tháng 5 năm 2005 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân Dân Tối Cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004
[36] Xem điều 132,149 BLTTDS CHLB Nga, Điều 11, 132,133 BLTTDS Pháp, Điều 70 Bộ Dân Sự Tố Tụng Pháp 1807 (được áp dụng ở Việt Nam trong một thời kỳ Pháp thuộc), Điều 259 Nghị Định 16-3-1910, Điều 374 Bộ Hộ Sự, Thương Sự Tố Tụng Trung Việt.
[37] Xem điều 10 Luật trợ gúp pháp lý, hướng dẫn chi tiết tại điều 2 Nghị Định số 07/2007/ NĐ – CP ngày 12 tháng 1 năm 2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật trợ giúp pháp lý.
[38] Xem Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp và Bộ Nội Vụ số 08/2008/ TTLT – BTP – BNV ngày 7 tháng 11 năm 2008 Về việc hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
[39] Kinh nghiệm của một số nước cho thấy nhờ có sự tham gia tích cực từ phía luật sư mà số lượng án mà tòa thụ lý phải đưa ra xét xử thấp nhờ công tác hòa giải như Canada (< 5% ), Thụy Điển, Đan Mạch (< 20%), Nhật Bản… hình thành một quan điểm phổ biến: “Tòa án nhỏ – Hòa giải lớn”. Nhưng tại Việt Nam, số lượng án thụ lý phải đưa ra xét xử rất lớn cụ thể như ở TP. Hồ Chí Minh hàng năm thụ lý từ 26.000 – 28.000 vụ và tỉ lệ xét xử là khoảng 65%.
[40] Điều 751 BLTTDS Cộng Hòa Pháp : “Các bên đương sự phải cử luật sư, trừ trường hợp có quy định khác. Việc cử luật sư cũng có nghĩa là đã trọn nơi cư trú. Việc không nêu rõ việc cử luật sư của mình đối với bên kia cũng coi như vô hiệu.”
[41] Xem Tranh tụng trong tố tụng dân sự – một số vấn đề lý luận cơ bản. Ths. Nguyễn Thị Thu Hà – Khoa luật dân sự, trường đại học Luật Hà Nội, Trang thông tin pháp luật dân sự.
[42] Mục 2.2 nghị quyết số 49 – NQ/ TW của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
phụ lục
một số bức ảnh về thủ tục tố tụng thời kỳ pháp thuộc – thời kỳ quyền con người, quyền công dân, quyền đương sự không được quan tâm
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2004.
2. Bộ Luật Dân Sự 2005.
3. Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự của nước Cộng Hòa Pháp. NXB Chính Trị Quốc Gia (1998).
4. Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự của Liên Bang Nga. NXB Tư Pháp (2005)
5. Báo cáo số 01/ BC – TA của Tòa án Nhân Dân Tối Cao ngày 5 tháng 1 năm 2007.
6. Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn Thị Minh Hằng Luận án tiến sĩ Luật Học năm 2007.
7. Các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án Nhân Dân Tối Cao các năm 2004, 2005, 2006 phần các quyết định về Dân Sự, Kinh doanh, Thương mại, Lao động – Đặc san của Tòa án Nhân Dân Tối Cao.
8. C. Mac – Ph. Anghen (1983) tuyển tập. Tập 5 NXB Sự Thật – Hà Nội.
9. Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ? ý (chủ biên).
10. Đinh Ngọc Hiện – Tư pháp dân sự và thủ tục tố tụng dân sự. Hội thảo những vấn đề lý luận và thực tiễn của tố tụng dân sự Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi.
11. Giáo trình Luật tố tụng dân sự – Trường đại học Luật Hà Nội. NXB Tư Pháp 2005.
12. Giảng văn pháp chế sử (1961-1962) – Giáo sư Vũ Quốc Thông quyển 3 – Tổ chức tư pháp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
13. Hiến Pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1992. NXB Chính Trị Quốc Gia (2007).
14. Hiệp định MARRAKESH thành lập WTO.
15. Luật Trợ Gúp Pháp Lý 2006.
16. Luật lệ về tố tụng dân sự. Tòa án Tối Cao (1976).
17. Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải) – Tiến sĩ, Luật Sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Đồng Nai 1996.
18. Nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”.
19. Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam (1962), NXB Khai Trí xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư Pháp.
20. Nguyễn Hữu Đắc- Từ điển Luật Học, NXB từ điển Bách Khoa, Hà Nội 1999
21. Nghị quyết số 49 – NQ\TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban chấp hành trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
22. Nghị định số 07/2007/ NĐ – CP ngày 12 tháng 1 năm 2007 của Chính Phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật trợ giúp pháp lý.
23. Nghị quyết số 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31 tháng 5 năm 2005 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân Dân Tối Cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004.
24. Từ điển luật học – NXB Tư Pháp.
25. Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003.
26. Trần Văn Liêm (1970) Dân Luật quyển 1, Dân luật nhập môn thế nhân
27. Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
28. Trường đại học Luật Hà Nội (2001), công trình nghiên cứu khoa học cấp trường – Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự.
29. Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp và Bộ Nội Vụ số 08/2008/ TTLT – BTP – BNV ngày 7 tháng 11 năm 2008 Về việc hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
30. Trang thông tin pháp luật dân sự.
31. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996.
33. Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế 1994.
33. Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự 1989.
34. Pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử. NXB Chính trị quốc gia, Tưởng Duy Lượng (chủ biên).
35. Ph. Anghen, Chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984).
36. Phan Hữu Thư (2001) Xây dựng bộ luật Tố Tụng Dân Sự – Những vấn đề lý luận và thực tiễn NXB Chính Trị Quốc Gia.
37. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
38. Bryan A.Garner (2001) Blacks law dictonari. ST Pual MNN.
39. Francais juridique – cours elementaire – Maison du droi Vietnamo – Francais (Giáo trình tiếng Pháp pháp lý (bản tiếng Pháp) – Nhà pháp luật Việt Pháp).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- GI7898I THI7878U 2727872 TI.doc