Đề tài Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam

Thế kỷ 21, mở ra trước mắt chúng ta rất nhiều cơ hội phát triển bên cạnh những thách thức rất lớn đối với các quốc gia đang phát triển mà Việt Nam là một trong những quốc gia đó. Vấn đề cấp bách hiện nay đối với chúng ta không phải là có thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH hay không mà là chúng ta thực hiện nó như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao đáp ứng được mục tiêu phát triển lâu dài cho đất nước. Đứng trước những vận hội và thách thức mới, Đảng và Nhà nước ta cần phải không ngừng củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập và phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nâng cao vai trò của mình bằng cách không ngừng đổi mới các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình trong nước đồng thời phải liên tục hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng về chính sách phát triển trên từng lĩnh vực cụ thể từ đó chúng ta mới có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế đã đặt ra nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Điều này càng có ý nghĩa khi mà quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu sắc bên cạnh sự cạnh tranh cũng đang diễn ra ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết. Vậy một Việt Nam sẽ như thế nào sau 10 hoặc 20 năm nữa ? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi chúng ta – những con người Việt Nam vốn được xem là cần cù lao động và chịu khó học hỏi nghiên cứu cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị mà trong báo cáo chính trị của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra hay không? Đây là một câu hỏi lớn mà chỉ có thời gian mới có thể trả lời một cách đầy đủ, chính xác và trung thực cho chúng ta.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười lao động và tập thể người lao động, triệt tiêu nguồn lực từ thành phần kinh tế tư nhân. Đơn điệu, chia cắt, hình thức, máy móc, cứng nhắc trong tổ chức các loại hình tổ chức kinh tế và tổ chức sản xuất kinh doanh. Những việc làm đó đều do chủ trương nôn nóng, chủ quan duy ý chí cộng với sai lầm trong tổ chức chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nên thời kỳ này nền kinh tế đã lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông nghiệp yếu kém không đáp ứng được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy được tác dụng. Nhà nước hầu như không điều khiển được quá trình CNH-HĐH chính là thực trạng vai trò của nhà nước trong thời kỳ này. 2. Vai trò của Nhà nước ta trong quá trình CNH-HĐH sau năm 1986. Sau năm 1986, Nhà nước không làm chức năng sản xuất kinh doanh mà chỉ làm các chức năng quản lý Nhà nước thông qua: kế hoạch hoá định hướng tạo mọi điều kiện cho sản xuất kinh doanh, điều tiết, kiểm tra, kiểm soát. Cụ thể là các nhiệm vụ: 2.1. Định hướng quá trình CNH-HĐH. Nhà nước giữ vai trò có tính chất quyết định đến thành bại, kìm hãm thúc đẩy quá trình CNH-HĐN của một nước. ở nước ta, Nhà nước đã định hướng quá trình CNH-HĐH theo 4 nội dung sau: 2.1.1. Quá trình CNH-HĐH của Việt Nam đã được định hướng theo chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nội dung chủ yếu của định hướng XHCN đã được xác định là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng và văn minh. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, CNH-HĐH đã và đang được thực hiện trong những thể chế chính trị khác nhau với những mục tiêu hoàn toàn như nhau. ở nước ta, thực hiện CNH-HĐH nhằm “cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển cuả sức sản suất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Từ đó, có thể thấy rằng, đặc điểm bao trùm, nói lên tính chất khác biệt của CNH-HĐH ở nước ta so với các nước phương Tây và các nước theo thiết chế chính trị phương Tây là ở chỗ, chúng ta thực hiện CNH-HĐH đất nước nhằm tạo ra tiền đề vật chất, khoa học kỹ thuật, công nghệ và con người để xác lập sự thắng lợi của CNXH ở nước ta”. Vì thế CNH-HĐH đất nước phải góp phần duy trì và củng cố quyền lực chính trị của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, phải đảm bảo tính định hướng của chính trị. CNH-HĐH vì lợi ích của giai cấp nào?. Thiếu quan điểm trong việc giải quyết vấn đề đó rất có thể đất nước được HĐH, nhưng khi đó trung tâm quyền lực không còn nằm trong tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Khi đề cập đến khả năng diễn ra sự việc như vậy Lênin viết: “Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Những điều đó chính là nguyên nhân để Hội nghị Trung ương 8 đã xem “CNH-HĐH phải theo định hướng XHCN” là quan điểm chiếm vị trí hàng đầu trong các quan điểm chỉ đạo để thực hiện CNH-HĐH đất nước. 2.1.2. Định hướng quan trọng thứ hai đã được Việt Nam xác định là hướng vào xuất khẩu có tính đến những nhu cầu của thị trường trong nước. Trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn. Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã phát triển rất kém hiệu quả và rơi vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Từ sau Đai hội Đảng lần thứ VI, Nhà nước ta mới bắt đầu uốn nắn lại nền kinh tế, thay đổi chiến lược phát triển phù hợp với tình hình đất nước. Sau năm 1986, đặc biệt là trong những năm gần đây, thấy rõ khuyết điểm của chiến lược “thay thế nhập khẩu”, Nhà nước ta đã chủ trương kết hợp mô hình “hướng ngoại’ với mô hình “hướng nội” lấy “hướng ngoại” làm ưu tiên bằng cách phát triển sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH phải kết hợp giữa thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế với việc giữ và mở rộng thị trường trong nước. Trong sự mở rộng ấy thị trường quốc tế được coi là trọng tâm. Sự kết hợp này vừa đảm bảo cho nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, tạo cơ sở và động lực phát triển sản xuất trong nước, khai thác lợi thế của đất nước. Mặt khác quy mô và sự phát triển của thị trường trong nước cần được phát huy đến mức tối đa góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Việc vận dụng quan điểm này đã thể hiện trực tiếp trong các chính sách như: chính sách xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn tồn tại cùng với các ngành nghề truyền thống. Xác định rõ nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hại chế, sản phẩm không có sức mạnh cạnh tranh đặc biệt là sản phẩm công nghiệp chậm thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, năng suất lao động chưa tăng do chưa mạnh dạn áp dụng công nghệ mới... Trước tình hình đó, Nhà nước đã chủ động giúp đỡ các doanh nghiệp bằng cách thiết lập lên các cơ chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với trình độ sản xuất công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn của nhà nước ta đã có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của công nghiệp quốc gia. Bên cạnh đó bằng chương trình khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất cho mục tiêu xuất khẩu đã có một số doanh nghiệp thưc hiện tốt như công ty LG, DAEWOO,... bước đầu đã có những sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao trên thị trường thế giới với nhãn hiệu: “Made in Vietnam”. Để đẩy mạnh chiến lược phát triển của mình, Nhà nước đã xây dựng và hình thành nên các khu công nghiệp lớn trải khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Nhìn chung các khu công nghiệp này đã dần thu hút được nhiều công ty nước ngoài, ngoài ra cũng còn rất nhiều doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư. Theo đánh giá của ban quản lý các khu công nghiệp thì cho đến nay các khu công nghiệp hiện có đã đi vào hoạt động ổn định, tạo dựng được lòng tin cho các nhà doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Thông qua các khu công nghiệp đã hình thành, chính phủ đã kêu gọi vốn đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu sẵn có của các địa phương, tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động nhàn rỗi. Thể hiện sự linh hoạt trong chính sách điều hành của nhà nước, chính phủ đã chủ động xây dựng khu công nghiệp quan trọng tại khu vực miền Trung vốn được coi là khu phải gánh chịu nhiều thiên tai thông qua việc quyết tâm xây dựng khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất tại Quảng Ngãi. Đến nay đã có một số nhà đầu tư là các tập đoàn lớn trên phạm vi quốc tế đã đầu tư vào khu công nghiệp này. Thế vẫn chưa đủ, Nhà nước còn chủ động tạo ra các tam giác kinh tế của các miền Bắc, Trung, Nam và coi đây là đầu mối phát triển các ngành công nghiệp và giao lưu hàng hoá chẳng hạn như hình thành khu tam giác kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh và khu tam giác TP Hồ Chí Minh-Vũng Tàu-Bình Dương. Đây là hai khu tam giác quan trọng bậc nhất của cả nước, góp phần thúc đẩy tốc độ phát triển công nghiệp của các vùng trong cả nước tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi chính sách phát triển ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. 2.1.3. Định hướng thứ ba là kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, hợp tác... tự do phát triển trong các lĩnh vực được phép. Kinh nghiệm thế giới cũng như trong nước cho thấy kinh tế nhà nước hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhất là trong quá trình CNH-HĐH. Đặc biệt để giữ được định hướng XHCN thì vai trò của nhà nước càng tỏ ra quan trọng đối với nước ta. Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò then chốt trong một số lĩnh vực quan trọng: kinh tế công cộng, quốc phòng, an ninh, kinh tế môi trường, phát triển KH-CN, xuất khẩu và nhập khẩu. Đồng thời, nó giữ vai trò quan trọng trong việc bình ổn giá cả trên thị trường, đảm bảo sự ổn định về kinh tế và đời sống trong những điều kiện thiên tai, địch hoạ, khắc phục những rủi ro và bất trắc xảy ra trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức rõ vai trò của thành phần kinh tế này đối với Việt Nam trong quá trình CNH-HĐH, Nhà nước đã chủ trương định hướng kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo bên cạnh đó khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, hợp tác... tự do phát triển trong lĩnh vực được phép. Mặc dù định hướng như vậy nhưng do thời gian thực hiện chưa lâu nên quá trình này vẫn nằm trong thời kỳ quá độ. Bên cạnh những tiến bộ bước đầu kinh tế nhà nước còn bộc lộ những mặt yếu kém và hạn chế điều đó được thể hiện ở chỗ cơ cấu Nhà nước chưa được thay đổi hợp lý, còn mất cân đối cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và kỹ thuật do trong nhiều năm kinh tế Nhà nước đã được bao cấp trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, lực lượng kinh tế Nhà nước giữ vai trò độc quyền, không có một lực lượng kinh tế khác cạnh tranh, do đó khi chuyển sang cơ chế mới thì nhiều cơ sở kinh tế nhà nước không thích nghi được với điều kiện mới nên hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế nhà nước nói chung đạt hiệu quả thấp, mới huy động được 40-50% năng lực sản xuất. Những tính chất kể trên phản ánh tính kém hiệu quả của kinh tế Nhà nước, mặt khác phản ánh sự biến đổi quá chậm chạp về cơ cấu các thành phần trong nền kinh tế, phản ánh tình trạng bảo thủ trì trệ trong việc xắp xếp lại kinh tế Nhà nước cũng như các chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát triển. Do đó, trong thời gian tới Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể nhằm tiến hành chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp với tình hình mới thể hiện rõ định hướng đúng đắn mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 2.1.4. Định hướng thứ tư là tập trung các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm. Xuất phát từ thực tế chúng ta đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc tạo ra các mối giao lưu hàng hóa giữa các miền, giữa các trung tâm kinh tế trong nước. Vì vậy, Nhà nước đã đầu tư rất nhiều vào cho việc phát triển cơ cấu hạ tầng. Trong nhiều năm qua, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như kết hợp nguồn vốn trong nước với các nguồn vốn tài trợ không hoàn lại (ODA), đầu tư trực tiếp (FDI) và thậm trí còn vay nợ nước ngoài để xây dựng lại cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã bị tàn phá sau nhiều năm chiến tranh. Việc cải tạo và xây dựng các tuyến đường giao thông huyết mạch quốc gia mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển sản xuất trong cả nước và với các nước trong khu vực. Việc phát triển các tuyến đường giao thông phải đảm bảo liên kết được các khu vực kinh tế trọng điểm của quốc gia. Cụ thể tuyến đường bộ xuyên Việt đã được cải tạo nâng cấp rất nhiều từng bước được đáp ứng được nhu cầu giao lưu thương mại giữa các miền đất nước, ví như việc cải tạo quốc lộ 1A nối liền từ cực Bắc đất nước (Lũng Cú, Hà Giang) tới miền cực Nam của đất nước (Xóm Mũi, Cà Mau), và quốc lộ 5 nối liền khu tam giác kinh tế phía Bắc... Ngoài ra chính phủ còn đầu tư xây dựng con đường mới mang tên Hồ Chí Minh nối liền từ Bắc vào Nam. Những định hướng chủ yếu trên đây của Nhà nước ta có thể nói là rất mới mẻ so với các định hướng CNH trước đây như ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, kinh tế quốc doanh thống trị trên mọi lĩnh vực, xem trọng thay thế nhập khẩu và hướng nội... Trên cơ sở định hướng trên các chính sách kinh tế của Nhà nước phải lựa chọn ưu tiên cho quá trình CNH. Những ưu tiên đó là các ngành và lĩnh vực xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 2.2. Phát triển khoa học và công nghệ. Quá trình CNH đặt ra những yêu cầu mới về quản lý Nhà nước dưới góc độ coi trọng khoa học - kỹ thuật. Nó bao gồm cả nghiên cứu và phổ biến khoa học và kỹ thuật nhằm từng bước phục vụ CNH. Muốn vậy, phải đào tạo cán bộ khoa học và và xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học cần thiết, kết hợp với việc phổ biến rộng rãi những hiểu biết khoa học và kỹ thuật trong đông đảo quần chúng, thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. Sản xuất và sáng chế khoa học gắn bó với nhau. Khoa học nhằm nâng cac năng suất lao động. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã có các đổi mới đối với các chính sách này như sau: 2.2.1. Đổi mới các chính sách KH-CN. ý thức sâu sắc vai trò của cuộc cách mạng KH-CN trong quá trình CNH-HĐH, chúng ta luôn “Coi KH-CN là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế-xã hội”. Tháng 4-1991, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết về “KH-CN trong sự nghiệp đổi mới”. Tiếp theo, trong Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và chính sách KH-CN phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế”. Những chính sách liên quan đến KH-CN được thể hiện trong những chính sách về: chuyển dịch cơ cấu theo hướng CNH; tài chính - tiền tệ; lao động và cán bộ; kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp và xây dựng cơ cấu sản xuất nhiều tầng... Ngoài ra, Nhà nước cũng ban hành một loạt các chính sách thể hiện từng mặt cụ thể của phát triển KH-CN. Đó là “ Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam”; “ Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp”; “ Pháp lệnh chất lượng hàng hoá”; “Pháp lệnh đo lường”... Năm1991, Chính phủ đã ra Quyết định thành lập “ Hội đồng chính sách KH-CN quốc gia” với nhiệm vụ: chỉ đạo xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển KH-CN, xem xét chủ trương đầu tư, phân bố ngân sách và các chính sách lớn về khuyến khích phát triển KH-CN và hợp tác quốc tế. Cùng với các chính sách khác, các chính sách KH-CN đã tác động tích cực đến đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp, nâng cac trình độ kỹ thuật sản xuất. Tuy nhiên, nó vẫn còn các hạn chế và cần phải khắc phục. 2.2.2. Các mặt hạn chế xung quanh vấn đề ban hành các chính sách KH- CN của Nhà nước. Nhà nước còn chưa thoát khỏi tập quán của nền kinh tế chỉ huy, vẫn nắm giữ độc quyền mọi hoạt động KH-CN. Nhà nước trực tiếp điều hành các hoạt động có liên quan và ngay cả trong cộng đồng KH-CN cũng chưa có tập quán tự vận động như trong xã hội đã quen với KTTT. Nhà nước chưa có cơ chế buộc và khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện đầu tư nghiên cứu như một nhu cầu tồn tại để chiến thắng trong cạch tranh. Còn thực hiện chính sách bình quân chủ nghĩa kiểu kinh phí nghiên cứu “cho một nơi một ít”. Cơ chế thanh quyết toán tài chính chưa kích thích các nhà khoa học sống bằng nghề nghiên cứu, hoặc buộc phải “dối trá” trong thanh quyết toán. Cộng đồng khoa học còn nặng quán tính chờ đợi chính sách “đãi ngộ” kiểu bao cấp, thậm chí ở một số nơi đã xảy ra tình trạng maphia ở các mức độ khác nhau về đấu thầu đề tài, chương trình, nghiệm thu đề tài, chương trình nghiên cứu và triển khai... Hiện nay, hệ thống KH-CN nước ta đang ở trong một tình trạng luẩn quẩn và nghịch lý. Một mặt, hệ thống này chưa được xã hội chấp nhận từ nhận thức đến hành động, cần xây dựng và phát triển nó như một bộ phận nền tảng trí tuệ của nền kinh tế- xã hội đất nước. Chất xám bị lãng phí nghiêm trọng và đội ngũ KH-CN, đặc biệt là đội ngũ có tâm huyết nghiên cứu khoa học, giảng dạy, đào tạo cảm thấy lúng túng khi xác định vai trò của mình trong công cuộc CNH-HĐH đất nước. Mặt khác, bản thân hệ thống KH-CN hoạt động kém hiệu quả, lực lượng phân tán, sản phẩm nghiên cứu ít được nền kinh tế - xã hội chấp nhận, không ít trường hợp gây lãng phí nguồn kinh phí vốn đã hạn hẹp cho KH-CN. Chính sách và cơ chế quản lý chưa đổi mới phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, do vậy trong chừng mực nào đó đã gây nên tâm lý hoài nghi về vai trò của KH-CN trong hoàn cảnh ở nước ta hiện nay. 2.3. Sự tác động của Nhà nước vào chính sách tài chính - tiền tệ. Các chính sách tài chính tiền tệ có tác động to lớn đến tiến trình phát triển kinh tế – xã hôị và phát triển công nghiệp của đất nước. Quá trình thực hiện các chính sách này gắn liền với quá trình ban hành và thực hiện các chính sách về huy động các nguồn vốn vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội. Ngoài phần vốn đầu tư của Nhà nước được nhằm vào những công trình mới và trọng điểm, việc đầu tư đổi mới kỹ thuật mở rộng sản xuất thuộc trách nhiệm của các doanh nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cũng ban hành một loạt các chính sách để huy động vốn trong dân cư, khuyến khích mở rộng liên doanh liên kết và huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, theo tinh thần các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đã ban hành các Luật thuế doanh thu, Luật tiêu thụ đặc biệt và luật thuế lợi tức... nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, động viên sự đóng góp của các cơ sở sản xuất, động viên sự đóng góp của các cơ sở kinh doanh vào Ngân sách Nhà nước, bảo đảm sự công bằng kinh tế, kết hợp lợi ích của Nhà nước, của tập thể và của người lao động. Nhà nước sử dụng công cụ thuế như một công cụ chính sách vĩ mô chủ yếu để quản lý kinh tế. Trong quá trình thực hiện, các luật thuế đã phát huy tác dụng tích cực và thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách nước ta hiện nay. Nhưng tuy đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần, nhưng các luật thuế hiện hành cũng bộc lộ nhiều nhược điểm. Chẳng hạn, sự trùng lặp trong tính thuế; thất thu thuế còn lớn, đặc biệt trong khu vực ngoài quốc doanh và hoạt động xuất nhập khẩu; năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ thuế còn yếu... Chính sách lãi suất tín dụng đã được nhận thức rõ hơn và được sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Ngoài ra, trong chính sách tài chính tiền tệ, thời kỳ này Nhà nước đã chuyển từ tỷ giá hối đoái cố định sang tỷ giá hối đoái linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách này thể hiện việc thay thế sự áp đặt chủ quan của nhà nước bằng sự điều tiết của thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Bên cạch đó, bản thân hệ thống tổ chức tài chính cũng có những biến đổi sâu sắc. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính phân biệt rõ hệ thống ngân hàng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và hệ thống ngân hàng làm chức năng kinh doanh. Cùng với sự ra đời của một loạt các tổ chức tín dụng ngân hàng ngoài quốc doanh, một số ngân hàng liên doanh với nước ngoài cũng được thành lập và một số ngân hàng nước ngoài được phép đặt chi nhánh ở Việt Nam đã góp phần thiết thực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. 2.4. Phát triền nguồn nhân lực. Một trong những nguồn nhân lực quan trọng bậc nhất của nước ta hiện nay là đội ngũ tri thức. Theo thống kê năm 1995, so với một số nước có mức thu nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo ở nước ta hiện nay là tương đối lớn. Đội ngũ này đã có những cống hiến to lớn vào hai cuộc kháng chiến và góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Thế nhưng, thực trạng đội ngũ của ta có một số vấn đề sau đây: Thứ nhất, sự già hoá của đội ngũ tri thức. Trong các viện và trung tâm khoa học, tuổi bình quân tiến sĩ là 52,8; phó tiến sĩ 41,8... Như vậy sắp tới đội ngũ này về hưu thì sẽ gây nên tình trạng thiếu hụt cán bộ, khoa học kế cận. Thứ hai, việc đầu tư của Nhà nước vào KH-CN cũng như GD-ĐT chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta muốn mau chóng trở thành một nước công nghiệp, muốn hội nhập với thế giới phát triển, GD-ĐT tạo nguồn nhân lực, nhân tài phải luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước ta đã có những cố gắng lớn tăng nguồn đầu tư tài chính cho GD-ĐT. Tỷ trọng ngân sách Nhà nước chi cho GD-ĐT tăng hàng năm và tăng nhanh trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cấp bách của CNH-HĐH. Thứ ba, cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta chưa hợp lý. Tỷ lệ đại học, trung học chuyên nghiệp, công nhân của nước ta hiện nay là 1/1,6/3 trong khi ở các nước trong khu vực là 1/4/10. Ngoài ra, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của ta mới chỉ đạt 10% so với tổng số thu nhập là rất thấp. Bên cạnh đó, việc phân bố cán bộ theo ngành nghề cũng vẫn còn nhiều vấn đề cần bàn tới. Thứ tư, hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ tri thức. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số bộ phận cán bộ KH-CN không còn hào hứng với công việc của mình, xin được chuyển sang những ngành nghề không phải được đào tạ, phần lớn là những khỏe trẻ và có năng lực. Còn sinh viên ra trường chỉ muốn xin vào các liên doanh, không muốn xin vào các viện nghiên cứu, trường học hoặc các cơ quan Nhà nước. Chúng ta khẳng định coi nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản và quyết định cho sự phát triển để thực hiện CNH-HĐH. Nhưng ở giai đoạn hiện nay, với thực trạng nguồn nhân lực của nước ta, đòi hỏi cần phải có sự đột phá về các chính sách, các giải pháp. Điều đó được xem là một thách thức trực diện với chính phủ và với mọi tổ chức và từng người dân trong xã hội. Nói chung, Nhà nước ta đã có những tác động khá tích cực vào quá trình CNH-HĐH và thực tế, sau hơn 15 năm đổi mới nước ta đã có những chuyển biến khá sâu rộng trên tất cả các ngành và lĩnh vực. Nhưng do quá trình CNH-HĐH của nước ta theo định hướng XHCN là khá mới mẻ so với thế giới nên ta không thể dựa hoàn toàn vào kinh nghiệm của các nước trên thế giới mà phải “mò mẫm từng bước” cùng với việc xuất phát điểm của chúng ta rất thấp. Đó là những mặt hạn chế không thể tránh khỏi và đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao vai trò của mình hơn nữa. Có như vậy thì quá trình CNH mới thành công, nước ta mới đuổi kịp được các nước phát triển trên thế giới. Chương3 Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH. Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Mọi quốc gia trong các trường hợp thành công hay không thành công trong quá trình CNH-HĐH đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu từ việc xác định vai trò của Nhà nước. Vì thế xuất phát từ thực trạng vai trò của Nhà nước ta trong quá trình CNH-HĐH đã phân tích ở chuơng 2. Trong thời gian tới để nâng cao vai trò của mình, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau: 1. Tiép tục đổi mới các chính sách phát triển công nghiệp. Công cuộc đổi mới ở nước ta là một quá trình liên tục và nhất quán. Do tính phức tạp của việc chuyển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nên những trục trặc và thiếu sót là không tránh khỏi. Tính liên tục và nhất quán của công cuộc đổi mới đòi hỏi phải quan tâm đặc biệt đến việc Nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách phát triển công nghiệp. Cụ thể là các chính sách cơ bản sau đây: 1.1. Chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng lãnh thổ và chính sách đầu tư. Việc điều chỉnh của Nhà nước vào cơ cấu công nghiệp đòi hỏi phải làm từng bước, những điều chỉnh đột biến có thể gây nên những đảo lộn lớn về kinh tế xã hội vì vậy trước mắt Nhà nước cần có những giải pháp sau: Thứ nhất, nâng cao chất lượng các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành. Để nâng cao tính khả thi của chiến lược quy hoạch ngành, điều quyết định phải nâng cao chất lượng của chiến lược và quy hoạch phát triển ngành theo hướng xây dựng chiến lược 10 năm đi đôi với tầm nhìn 20 năm. Gắn chiến lược phát triển ngành với chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường của các doanh nghiệp thuộc ngành. Các bản chiến lược, quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở: coi trọng công tác điều tra nghiên cứu, nhu cầu và sự thay đổi của thị trường, dự báo tiến bộ khoa học công nghệ của ngành và tác động của nó tới sự phát triển của ngành, đánh giá đầy đủ nguồn nhân lực, cơ hội, thách thức, khả năng cạnh tranh. Tổ chức phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch. Có quy hoạch xây dựng tổng thể và quy hoạch từng cơ sở sản xuất kinh doanh. Gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện. Các chiến lược quy hoạch xây dựng trên sẽ được thực hiện thông qua chương trình mục tiêu, dự án phát triển. Thứ hai, phát triển mạnh mẽ các thị trường: sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ, thông tin lao động, vốn (gồm cả thị trường chứng khoán). Nhà nước và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm phát triển thị trường trong nước và nước ngoài. Nhà nước tác động đến thị trường trên các khía cạch: xây dựng và thực hiện cơ chế và chính sách khuyến khích giao lưu hàng hoá; Xây dựng các chính sách bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; Đặt hàng cho các doanh nghiệp sản suất và cung ứng một số loại hàng hóa, dịch vụ; Ký kết các hiệp định với nước ngoài . Thứ ba, đầu tư, chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư bằng biện pháp đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư để nâng cao khối lượng vốn đầu tư. Cần tăng vốn đầu tư trong nước qua chính sách tiết kiệm trong dân và khuyến khích đầu tư vào sản xuất, nâng cao vốn tự có của các doanh nghiệp, phát triển các nguồn vốn liên doanh, liên kết, vốn cổ phần, phát hành trái phiếu và cổ phiếu. Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng: Đầu tư có trọng điểm, tránh tràn lan. Ưu tiên đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành trọng điểm, nhất là các ngành mũi nhọn; Chuyển hướng mạnh mẽ từ đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh tế, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và nước ngoài. 1.2. Chính sách phát triển các thành phần kinh tế. Trong chính sách này, cần phải kiên quyết sắp xếp lại kinh tế Nhà nước theo hướng đảm bảo cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hoạt động có hiệu quả, thực sự phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Chúng ta không tư nhân hoá kinh tế Nhà nước, nhưng phải thị trường hoá nền kinh tế, không bao cấp, bù lỗ tràn lan, chúng ta chấp nhận cạnh tranh và từng bước tiến hành cổ phần hoá một số DNNN làm ăn không có hiệu quả. Giảm bớt tỷ trọng kinh tế Nhà nước theo nguyên tắc ngành nghề nào kinh tế tập thể, tư nhân cá thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì tạo điều kiện cho nó phát triển, còn ngành nghề nào kinh tế Nhà nước làm tốt thì tạo điều kiện cho nó phát triển. Đối với hợp tác xã, cần có biện pháp củng cố theo nguyên tắc tự nguyện với nội dung hoàn toàn khác trước. Ngoài ra, khuyến khích kinh tế tư nhân tự do phát triển theo luật định, không hạn chế tư nhân, cá thể bỏ vốn đầu tư vào sản phẩm mà Nhà nước cho phép. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tài sản, quyền làm ăn hợp pháp và giúp đỡ những đầu tư đúng hướng. Bên cạnh đó, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ phù hợp với quá trình CNH-HĐH đất nước. Không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ, không ngừng đổi mới kinh tế Nhà nước và cả đối với thành phần kinh tế tư nhân, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời, Nhà nước cần thực hiện hệ thống luật lệ đơn giản, đồng bộ, rõ ràng, ổn định và dễ thực hiện nhằm tạo môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi, khuyến khích đầu tư, sáng tạo tài năng, nhất là tài năng kinh doanh. Muốn như vậy, Nhà nước cần phải có các chính sách đòn bẩy mạnh mẽ làm cho tỷ trọng kinh tế của các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể tăng lên và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm hàng hoá cho xã hội. Vì thế, Nhà nước cần xây dựng các định hướng kế hoạch đúng đắn để hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển theo một cơ cấu hợp lý, hài hoà, đồng thời phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giỏi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. 1.3. Chính sách khoa học và công nghệ. Quản lý Nhà nước chỉ có thể phát huy được vai trò tích cực, to lớn khi thực hiện thực tế cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật. Để làm được điều này, Nhà nước cần có chiến lược lộ trình và chính sách công nghệ cho nền kinh tế quốc dân, cho ngành và mỗi doanh nghiệp. Gắn chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm với chiến lược thị trường. Đến 2020 đất nước phải xây dựng được nền công nghiệp nội sinh đủ mạnh đáp ứng nhu cầu cơ bản về công nghệ của nền KTQD và cơ sở hạ tầng tương xứng. Trong vòng 10-20 năm tới cần ưu tiên tập trung đổi mới công nghệ cho một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác chế biến dầu khí, điện tử tin học, chế biến thuỷ sản, dệt may; Đi ngay vào công nghệ tiên tiến hiện đại với một số ngành có nhu cầu, có điều kiện và khả năng như bưu chính viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới; Nỗ lực đổi mới công nghệ trong các ngành phục vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên; Đầu tư thích đáng cho đổi mới và phát triển công nghệ đối với các lĩnh vực gia công chế biến và lắp ráp, nâng cao hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm nông lâm thuỷ sản, nâng cao giá trị gia tăng trong các ngành dệt may, lắp ráp ô tô tiến tới hạn chế xuất khẩu nông sản không qua chế biến và nâng cao chất lượng hàng dệt may, lắp ráp ô tô, điện tử; HĐH công nghệ truyền thống và áp dụng các công nghệ phù hợp với vùng nông thôn rộng lớn. Nhà nước cần xây dựng lộ trình đổi mới, phát triển công nghệ theo hai giai đoạn: Từ nay đến năm 2005: Đổi mới công nghệ các ngành KTQD dựa trên công nghệ nhập từ nước ngoài, đẩy mạnh phát triển tiềm lực KH-CN của các doanh nghiệp lớn, phấn đấu để cuối giai đoạn này tạo được năng lực công nghệ nội sinh; Giai đoạn 2005-2020: Công nghệ nhập và công nghệ nội sinh sẽ là nguôn lực của quá trình đổi mới công nghệ của các ngành kinh tế. Cụ thể, trước mắt Nhà nước cần thực hiện các công việc sau: - Cần sớm ban hành “luật KH và CN” và các văn bản dưới luật nhằm từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này, phục vụ phát triển KT- XH. - Thực hiện đổi mới cơ chế, chính sách tiền lương, gắn với kết quả nghiên cứu và ứng dụng KH - CN vào sản xuất đối với các chương trình trọng điểm, đặc biệt là các chương trình về nông thôn và miền núi. - Phát huy nội lực bao gồm tổng hợp các nguồn lực trong nước, đó là vốn, tài sản, cơ sở vật chất kỹ thuật đã tích lũy được, tài nguyên chưa đưa vào sử dụng và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người - sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống văn hóa của dân tộc ta. Chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ KH và CN, có mong muốn được góp phần xây dựng đất nước. - Tăng cường hợp tác quốc tế là một yếu tố cơ bản của sự phát triển KH-CN ở nước ta vì nó góp phần đắc lực vào sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ khoa học qua khâu đào tạo, bồi dưỡng, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ quan nghiên cứu và cung cấp các thông tin, tài liệu khoa học, mẫu vật trao đổi... Đồng thời có các biện pháp khắc phục dần sự phụ thuộc về KH và CN vào phía nước ngoài, loại bỏ thủ tục rườm rà, thiếu thủ tục và quan liêu, để nâng cao hiệu quả trong sự hợp tác. Tóm lại, công việc trước mắt của Nhà nước đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ là cần phải tập trung giải quyết dứt điểm từng giải pháp nêu trên. Có làm như vậy thì mới thực sự nâng cao được hiệu quả của quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầy sôi động này. 1.4. Chính sách tài chính tiền tệ. Tài chính ngân hàng vừa là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, vừa là một công cụ mạnh để Nhà nước can thiệp vào điều tiết kinh tế. Để nâng cao vai trò của Nhà nước trong CNH-HĐH đòi hỏi Nhà nước phải có một thực lực kinh tế mạnh. Điều đó đòi hỏi phải đổi mới các chính sách tài chính tiền tệ tập trung vào một số nội dung sau: - Tăng cường, củng cố tài chính quốc gia thông qua chính sách thuế và thu chi ngân sách hợp lý. Đối với chính sách thuế cần xây dựng biểu thuế ưu tiên cho sản xuất xuất khẩu. Còn với việc nhập khẩu, cần có sự phân biệt nhập khẩu để phục vụ trực tiếp cho xuất khẩu, nhập khẩu để sản xuất tiêu dùng nội địa và nhập khẩu để phục vụ trực tiếp cho tiêu dùng. Trước mắt Nhà nước cần thay thế từng bước chế độ phân phối cô-ta bằng chế độ thuế quan để điều tiết cơ cấu xuất nhập khẩu và hạn chế những tiêu cực trong việc cấp cô-ta, trong xuất nhập khẩu. - Tăng cường tài chính doanh nghiệp theo hướng khuyến khích và nâng cao khả năng tự tích luỹ của các đơn vị cơ sở. Cần định hướng cho các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính của mình vì thực tế việc sử dụng nguồn tài chính của các doanh nghiệp chỉ mang lại những hiệu quả ngắn hạn, trước mắt thậm chí gây lãng phí nghiêm trọng khi xem xét một tổng thể một thời gian dài.Vì vậy Nhà nước cần có chính sách kinh tế cụ thể, có khuyến khích, có hạn chế rõ ràng hợp lý trong việc sử dụng tài chính hiện nay là một việc làm hêt sức cần thiết và quan trọng. -Mở rộng các hình thức huy động vốn xã hội và vốn nước ngoài vào phát triển kinh tế là một giải pháp quan trọng để thúc đẩy CNH-HĐH nền kinh tế. Sức mạnh kinh tế tổng hợp của một quốc gia phải được nhìn nhận và đánh giá trên các nguồn: nhà nước, nhân dân và khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Để tận dụng và khai thác các nguồn đó, Nhà nước phải có cơ chế và chính sách thu hút vốn hợp lý nhằm động viên mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế. - Chuyển hoạt động của ngân hàng sang kinh doanh thương mại. Khi đó Nhà nước phải tách chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng ra khỏi chức năng kinh doanh của của các ngân hàng thương mại nhằm tránh hịên tượng độc quyền trong lĩnh vực ngân hàng taọ điều kiện phát triển nền kinh tế hiện nay. - Đổi mới chính sách tiền tệ theo hướng đồng tiền vừa là mục tiêu vừa là phương tiện kinh doanh, vừa có khả năng chuyển đổi sang các đồng ngoại tệ 1.5. Chính sách kinh tế đối ngoại. Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách này. Cần có chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đúng đắn. Chỉ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành và lĩnh vực cần thiết quan trọng mà nước ta chưa có điều kiện phát triển. Không liên doanh những ngành, những sản phẩm mà trong nước có khả năng sản xuất. Phát triển và mở rộng các đối tác là các nước đang phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Đặt chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng cường quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sau khi cấp giấy phép. Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ mặt hàng xuất khẩu. 2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ CNH-HĐH đã và đang đòi hỏi phải củng cố và tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy Nhà nước cần phải đổi mới bộ máy của mình bằng các biện pháp bao gồm: Cải cách nền hành chính quốc gia, đổi mới bộ máy của Quốc hội, cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương đang được tiến hành mạnh mẽ hiện nay ở nước ta. Việc làm đó cần được khẳng định trong việc sửa đổi văn bản pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định một trong những nhiệm vụ để xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước trong những năm tới là cải cách hành chính Nhà nước. Báo cáo tại Đại hội nhấn mạnh: “ trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt, công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính”. Muốn cho hoạt động quản lý có hiệu quả và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn thì bản thân bộ máy cũng cần có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp; bảo đảm xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước tinh gọn, điều hành theo cơ chế tập trung thống nhất, thông suốt và có hiệu lực từ Chính phủ đến chính quyền địa phương các cấp đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, cơ sở; xác định rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của các cấp chính quyền. Trước yêu cầu đó, pháp luật một lần nữa lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong thể chế hoá các chủ trương đó thành các quy định cụ thể của pháp luật. Luật pháp với tính cách là phương thức tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền cần tạo ra những chuẩn hoá về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước thông qua việc quy định rõ ràng cơ cấu tổ chức, thẩm quyền chức năng, đặc biệt là các quan hệ mang tính quyền lực giữa các cơ quan công quyền, bảo đảm cho các cơ quan Nhà nước thực hiện mọi hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Theo tinh thần đó, những lý luận và những kinh nghiệm về đổi mới, cải cách bộ máy Nhà nước cần nhanh chóng chế định hóa thành các quy phạm pháp luật. Việc đổi mới các quy phạm pháp luật nhằm củng cố và tăng cường hoạt động quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện CNH-HĐH, một mặt giải phóng các cơ quan Nhà nước khỏi các hoạt động quản lý trực tiếp của quá trình sản xuất kinh doanh, chấm dứt sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý Nhà nước vào các hoạt động cụ thể của các chủ thể kinh tế, bảo đảm cho các chủ thể kinh tế thực sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, pháp luật tăng cường, củng cố quyền hạn và sức mạnh cho các cơ quan Nhà nước trong các hoạt động kiểm tra, giám sát các chủ thể kinh tế để kịp thời sử lý các hiện tượng sai trái, tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời quy định chặt chẽ và rành mạch về mặt pháp luật các chế độ, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước trong quá trình quản lý các mặt đời sống kinh tế- xã hội. Có nghĩa là trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức và của từng loại cán bộ, công chức được xác định bằng các quy định của pháp luật. Vì vậy sự đổi mới pháp luật trong lĩnh vực này có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo đảm sức mạnh của Nhà nước, uy tín của các cơ quan Nhà nước và của cán bộ quản lý. Dù đây không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng đó chính là sự đề cao trách nhiệm cụ thể của các cơ quan Nhà nước, nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ, và lấy đó để “quy trách nhiệm” khi cần thiết là một trong những phương hướng cần được ưu tiên trong việc hoàn thiện pháp luật tổ chức ở nước ta. Sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta chỉ thực sự đạt được các mục tiêu của nó khi được tiến hành trên cơ sở pháp luật, được quy định và được đảm bảo bởi luật pháp. Vì thế các luật về tổ chức Nhà nước với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam cần được đổi mới. Các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước cần được đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Bộ máy nhà nước ta hiện đang có những chuyển biến tích cực theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khoá VII) của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII). Đứng trước nhu cầu của CNH-HĐH, bộ máy của Nhà nước phải càng được đổi mới mạnh mẽ hơn. Vì vậy, các luật về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, tổ chức và hoạt động của Hội đông nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp cần thiết phải xem xét, sửa đổi để có thể tạo được các cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng và hoạt động của Nhà nước. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy Nhà nước, trước hết là các văn bản pháp luật về bầu cử, công vụ Nhà nước cần được hoàn thiện hơn nữa theo hướng phát hiện “nhân tài” và củng cố chế độ trách nhiệm để nhanh chóng hình thành được đội ngũ cán bộ thực sự có trách nhiệm để giaỉ quyết các vấn đề công việc của Nhà nước. 3. Phát huy nhân tố con người. Nhận thức rõ rằng, cuộc cạnh tranh gay gắt nhất hiện nay trên thế giớil à cuộc cạnh tranh về vấn đề nhân tài. Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời việc bồi dưỡng nhân tài; càng không tách rời việc nâng cao phát huy năng lực nội sinh, tố chất trí tuệ của hàng triệu người lao động ở tuyến đầu sản xuất. Vì thế công tác cán bộ phải là vấn đề đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải biết rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở đó phát huy năng lực cá nhân, hội tụ được trí tuệ tập thể. Các thế hệ đi trước phải tôn trọng, nâng đỡ thậm chí cả học hỏi lớp trẻ, vì công việc chung. - Nhà nước cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ KH và CN, nhất là cán bộ đầu đàn. Nâng cao chất lượng GD- ĐT ở tất cả các bậc đại học, từng bước tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế. Cần phát hiện sớm các tài năng và có các hình thức đào tạo phù hợp. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để có thể nhanh chóng tiếp thu KH và CN hiện đại của các nước phát triển. - Thực hiện công bằng, văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát hiện và đào tạo nhân tài. Đảng đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này. Các bộ ngành phải thực hiện các nghị quyết của Đảng một cách nghiêm túc. Cần tạo lập một thể chế thuận lợi cho sự phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài trong quá trình phát triển đất nước dựa trên cơ sở phát triển KH và CN cũng như GD- ĐT, trong cơ chế thị trường, trong nền kinh tế nhiều thành phần. Cần tuyệt đối tránh xu hướng coi trọng đầu tư của cải vật chất hơn đầu tư con người... Trong thực tế chính sách cào bằng mức lương, mức lương của kỹ sư, thạc sỹ, phó tiến sỹ mà chúng ta đang thực hiện trong mấy năm gần đây cần phải được xem xét lại. Có lẽ chính sách này là một trong những yếu tố cơ bản làm già hóa đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao hiện nay. Nó cũng trả lời câu hỏi vì sao sinh viên, cán bộ khoa học trẻ có năng lực trong nhiều năm gần đây không chuyên tâm nghiên cứu mà chỉ lo học tiếp thị và học ngoại ngữ, làm thuê cho các công ty nước ngoài. Đây là nguyên nhân gây ra hiện tượng chảy máu chất xám từ các cơ quan Nhà nuớc. Vì một tương lai của đất nước ở thế kỷ XXI, vì một đội ngũ cán bộ đầu đàn, và một dân tộc có tri thức cao thì cần có cơ chế, chính sách đúng đắn để động viên thanh niên học tập, rèn luyện, đảm bảo những điều kiện nhất định để cán, bộ công chức yên tâm làm việc. - Cần đưa việc cấp bằng, chứng chỉ trong nước đi vào nề nếp. Đây là biện pháp tôn vinh nguồn nhân lực đã được đào tạo thực sự và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Nhiều cán bộ khi còn là học sinh trong các trường tiểu học, trung học chỉ học trung bình, khi ngoài 40,50 tuổi muốn giữ vị trí của mình hay thăng tiến chỉ cần học hàm thụ một vài năm là có một bằng đại học, bằng thạc sỹ hay cao hơn. Liệu những người có những tấm bằng dễ dàng như vậy còn tôn trọng và thúc đẩy phát triền nhân lực trong nước hay không? Để lành mạnh đội ngũ trí thức, các cơ quan chức năng nên thanh tra, kiểm tra chặt chẽ quá trình đào tạo ở các cấp, bảo đảm chất lượng theo đúng quy trình, quy chế đào tạo. - Tăng cường đầu tư tài chính của Nhà nước, đồng thời tăng cường quản lý, kiểm tra tổ chức sử dụng một cách hợp lý. Hội nghị Trung ương lần thứ hai (khóa VIII) đã định hướng đầu tư cho KH và CN tăng dần đến năm 2000 là 2% và đối với GD-ĐT là 15% trong tổng chi ngân sách Nhà nước là rất đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hiện nay, còn có hiện tượng “ xin” và “ cho” một số đề tài và dự án, gây tiêu cực và lãng phí tiền của của Nhà nước, của nhân dân, cần chấn chỉnh sớm để làm lành mạnh hoạt động đầu tư nâng cấp cho KH và CN cũng như GD- ĐT. - Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân - lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam. Tóm lại, vấn đề tăng cường quản lý Nhà nước là một điều kiện cần trong suốt quá trình thực hiện CNH-HĐH, nhưng chưa đủ. Muồn hoàn thành sự nghiệp CNH ở Việt Nam theo tư tưởng của Chủ Tịch Hồ CHí Minh thì phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phát huy tối nội lực và tranh thủ tốt nhất nguồn lực bên ngoài. Xuất phát từ một định hướng chính trị đúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước vừa bao hàm ý nghĩa rộng vừa có những nội dung trước mắt, vừa mang tính chiến lược, lâu dài, và cần phải luôn nhận thức đúng đắn vấn đề cơ bản là dựa vào quần chúng nhân dân, coi đó là diểm tựa để thực hiện quản lý Nhà nước. Kết luận Thế kỷ 21, mở ra trước mắt chúng ta rất nhiều cơ hội phát triển bên cạnh những thách thức rất lớn đối với các quốc gia đang phát triển mà Việt Nam là một trong những quốc gia đó. Vấn đề cấp bách hiện nay đối với chúng ta không phải là có thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH hay không mà là chúng ta thực hiện nó như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao đáp ứng được mục tiêu phát triển lâu dài cho đất nước. Đứng trước những vận hội và thách thức mới, Đảng và Nhà nước ta cần phải không ngừng củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập và phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nâng cao vai trò của mình bằng cách không ngừng đổi mới các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện tình hình trong nước đồng thời phải liên tục hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng về chính sách phát triển trên từng lĩnh vực cụ thể từ đó chúng ta mới có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế đã đặt ra nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Điều này càng có ý nghĩa khi mà quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu sắc bên cạnh sự cạnh tranh cũng đang diễn ra ngày càng quyết liệt hơn bao giờ hết. Vậy một Việt Nam sẽ như thế nào sau 10 hoặc 20 năm nữa ? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi chúng ta – những con người Việt Nam vốn được xem là cần cù lao động và chịu khó học hỏi nghiên cứu cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị mà trong báo cáo chính trị của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đã đề ra hay không? Đây là một câu hỏi lớn mà chỉ có thời gian mới có thể trả lời một cách đầy đủ, chính xác và trung thực cho chúng ta. Danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Sỹ Cương. Hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo yêu cầu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Tổ chức Nhà nước số7/1999. Trang 20-21. TS. Phan Xuân Dũng. Tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Quản lý Nhà nước số 4/99. Trang 5-8. TS Nguyễn Mạnh Huấn. Thời cơ và thách thức đối với phát triển khoa học và công nghể trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý kinh tế số 250. Trang 37-42. PTS. Nguyễn Duy Hùng. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của các nước ASEAN. Nxb Chính trị quốc gia, 1996,139tr. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực. NXB Thống kê, Hà Nội, 1994,409tr PTS. Trần Thanh Lâm. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Quản lý Nhà nước số 4/99. Trang 9-11. GS. TS Nguyễn Đình Phan. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.Kinh tế phát triển. Trang22-26. GS. TS Phạm Ngọc Quang. Chính trị với kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Trang14-17. TS Nguyễn Văn Sáu. Những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Nghiên cứu lý luận số 3/1996. Trang 49-52. Mục lục Lời mở đầu.......................................................................................................1. Nội dung...........................................................................................................2. Chương1. Lý luận chung về vai trò Nhà nước trong CNH-HĐH.....................2. 1. Quan niệm mới về CNH...............................................................................2. 2. Tính tất yếu khách quan và nội dung về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH...............................................................................................4. 2.1. Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH.................................................................................................................4. 2.2. Nội dung vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH......................5. 2.2.1. Hoạch định các chính sách kinh tế.........................................................5. 2.2.2. Thể chế hóa các chính sách thành pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm túc những pháp luật đó...................................................................................11. 2.3. Kinh nghiệm về CNH-HĐH ở các nước ASEAN....................................11. Chương 2. Thực trạng về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam........................................................................................................13. 1. Vai trò của Nhà nước ta trong quá trình CNH-HĐH trước năm 1986........13. 2. Vai trò của Nhà nước ta trong quá trình CNH-HĐH sau năm 1986...........14. 2.1. Định hướng quá trình CNH-HĐH ..........................................................14. 2.2. Phát triển KH-CN....................................................................................18. 2.2.1. Đổi mới các chính sách KH-CN...........................................................18. 2.2.2. Các mặt hạn chế xung quanh vấn đề ban hành các chính sách KH-CN của Nhà nước..................................................................................................19. 2.3. Sự tác động của Nhà nước vào chinh sách tài chính – tiền tệ..................20. 2.4. Phát triển nguồn nhân lực........................................................................21. Chương 3. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH.............................................................................22. 1. Tiếp tục đổi mới các chính sách phát triển công nghiệp............................22. 1.1. Chính sách điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng, lãnh thổ và các chính sách đầu tư.....................................................................................................................22. 1.2. Chính sách phát triển các thành phần kinh tế.........................................24. 1.3. Chính sách KH-CN..................................................................................24. 1.4. Chính sách tài chính – tiền tệ..................................................................26. 1.5. Chính sách kinh tế đối ngoại...................................................................27. 2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước........27. 3. Phát huy nhân tố con người........................................................................29. Phần 3. Kết luận.............................................................................................31.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35238.doc
Tài liệu liên quan