Đề tài Vấn đề cổ phần hoá nhà nước

Thực hiện cổ phần hoá đối với nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu và có tầm quan trọng chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế cũng như đi lên chủ nghĩa xã hội của ta. Cùng với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, Đảng và nhà nước ta cũng chủ trương khuyến khích việc thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá trong các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, tiến tới mở rộng cổ phần hoá ở các thành phần kinh tế, tạo lập một thị trường chứng khoán phát triển toàn diện và đồng bộ, hoà nhập với xu thế chung của toàn cầu.

doc31 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề cổ phần hoá nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng nói chung lại tất cả các mục tiêu trên đêù có cùng bản chất và về thực chất là chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu nhà nước toàn phần thành công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước hoặc công ty cổ phần hoá tư nhân, tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính theo yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với những mục tiêu đó thì rõ ràng cổ phần hoá đã được Đảng và nhà nước ta hết sức chú trọng bởi những ưu thế trên nhiều mặt. Cụ thể đó là: - Cổ phần hóa giải quyết được khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho nó mở rộng sản xuất kinh doanh. Chức năng của chế độ cổ phần hoá là thúc đẩy quá trình xã hội hoá tư bản (vốn), thu hút và tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên lý kinh tế tiền đẻ ra tiền theo công thức T-H-T’. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không có nghĩa là tư nhân hoá hoàn toàn tài sản trong xã hội, mà là xã hoá vốn. Nó có ưu điểm là giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho nhà nước, nhà nước có thể chuyển sang đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển xã hội. - Cổ phần hoá thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. Cổ phần hoá đảm bảo sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất, trên phần vốn đóng góp của họ và thực sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó. Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động... trong công tác sản xuất kinh doanh, biến họ thành nhà kinh doanh thực sự từ vị trí công chức nhà nước, sống chết vì tồn tại và phát triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện thuận lợi để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh trong tình hình mới. - Cổ phần hoá cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được chỉ đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. Đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doanh nghiệp mà tập thể cổ đông giao phó va hoạt động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế làm giảm hiệu quả và gây tác hại tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó thực hiện quyền làm chủ và chủ động thực sự cho công ty xí nghiệp cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung trong các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. - Cổ phần hoá tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy điều hành công ty cổ phần: Đại hội cổ đông - Hội đồng quản trị – Giám đốc điều hành, để kết hợp phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần giải quyết thoả đáng cùng một lúc quyền lợi của nguời cổ đông có vốn với người lao động tham gia sức lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể thuê hoặc chọn từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành công cho cải tiến, đổi mới quản lý công ty cổ phần mở ra cho nó triển vọng rộng lớn hơn. - Cổ phần hoá tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hoá được tự chủ, chủ động trong quan hệ tự nguyện liên doanh liên kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh. Với những ưu thế kể trên, cổ phần hoá đã và đang được xem là lối ra phù hợp cho khu vực kinh tế nhà nước, góp phần đưa nền kinh tế nhà nước lên đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. 2. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được coi là một tất yếu. Cơ sở của vấn đề này được bắt nguồn từ: - Yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ơ nước ta hiện nay, trình độ xã hội hoá về lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi phải xã hội hoá về quan hệ sản xuất phải công hữu tuyệt đối hay quá rộng lớn về tư liệu sản xuất mà phải là nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp với nhiều mức độ xã hội hoá. - Đặc trưng của thời kỳ quá độ là cùng tồn tại và đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau giữa những yếu tố bộ phận của nền kinh tế cũ, tư hữu với những yếu tố, bộ phận của nền kinh tế mới xây dựng công hữu. Công ty cổ phần chính là hình thức kinh tế quá độ, đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Nó có tác động to lớn trong thực tiễn. Nhà nước rút ra được một lượng vốn ra khỏi doanh nghiệp để đầu tư vào những nơi cần thiết đồng thời huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội đưa vào công ty cổ phần để phát triển sản xuất, tạo điều kiện chuyên môn hoá, nâng cao trình độ, hiệu quả trong quản lý bằng việc cử tuyển những chuyên gia giỏi giữ các chức vụ trong bộ máy của công ty phát huy nhiệt tình trách nhiệm cao của những người lao động từ đó đưa tới tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Cơ sở thực tế của tính tất yếu cổ phần hoá đã được chứng minh dựa trên hàng loạt hoạt động cổ phần hoá trong các công ty cổ phần ở trên khắp các quốc gia trên thế giới. Làn sóng cổ phần hoá doanh nghiệp đã được dấy lên từ cuối thập kỷ 70 tại Vương quốc Anh. Với hàng chục công ty được cổ phần, tính đến cuối năm 1991 tổng số tiền mà nhà nước Anh thu được là 34 tỷ bảng. Cổ phần hoá được lựa chọn là hình thức khả dụng nhất để chuyển đổi sở hữu nhà nước, cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân cho hợp lý và hiệu quả. Và đến nay đã có hơn 100 quốc gia đang phát triển với những quan điểm chính trị và kinh tế khác nhau đèu tích cực xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả ở những nước phát triển cũng rất chú trọng đến vấn đề này. Ơ nước ta, vấn đề cổ phần hoá được đặt ra từ rất sớm, xuất phát từ tình hình kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay với khoảng 5740 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 58% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, chỉ có 50% doanh nghiệp là làm ăn có hiệu quả (đây là xét tổng quát), còn làm ăn có lãi thực sự thì chỉ có 30%. Tổng số tiền mà nhà nước thu được từ doanh nghiệp chỉ chiếm 30% trong doanh thu ngân sách nhà nước. Đặc biệt nếu tính thêm cả chi phí về tài sản cố định, đất đai theo giá thị trường thì hoàn toàn không có tích luỹ. Một trong số nguyên nhân đó là do trang bị kỹ thuật máy móc, thiết bị, nhà xưởng, ...quá lạc hậu (so với thế giới lạc hậu 2đến 3 thế hệ, có thiết bị lạc hậu 4 đến 5 thế hệ ). Hiện có đến 54% doanh nghiệp nhà nước trung ương và 74% doanh nghiệp nhà nước địa phương còn sản xuất thủ công (tính theo số liệu năm). Quy mô doanh nghiệp bé, vốn ít. Thực tế vốn hoạt động chỉ bằng 80% vốn ghi trong danh sách, riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản, hàng hoá mất mát, kém phẩm chất và thua lỗ chưa được xử lý. Với thực trạng tài chính kỹ thuật như trên, doanh nghiệp hầu như không có khả năng đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh trên thị trường. Ngân sách nhà nước không đủ để bao cấp. Chỉ có cổ phần hoá là giải pháp tối ưu, vừa tạo môi trường huy động vốn cho doanh nghiệp lại tạo ra động lực để doanh nghiệp bước vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả, kinh tế. 3. Quan điểm của Đảng và tiến trình cổ phần hoá từ 1986-2002. 3.1. Một số quan điểm của Đảng về cổ phần hoá Từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Với chủ trương cụ thể là thực hiện cổ phần hoá, Đảng đã thể hiện quan điểm lý luận của mình về cổ phần hoá, với đối tượng ban đầu là các doanh nghiệp nhà nuớc, thực chất là cổ phần hoá một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Mục tiêu của cổ phần hoá đó là hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước. Cùng với những tư tưởng đó Đảng đã đưa ra một số quan điểm khác nhằm định hướng cho quá trình cổ phần hoá ở nước ta, cụ thể: - Quan điểm 1: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Đảng chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước mà thực chất là cổ phần hoá một bộ phận thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. Với mục đích đó chúng ta đưa ra nhiều dạng công ty cổ phần nhưng có thể quy về hai nhóm chính: * Nhóm các công ty cổ phần trong đó nhà nước có tỷ trọng sở hữu nhà nước hoặc nắm giữ cổ phiếu khống chế (51%) hoặc không nắm giữ sở hữu cổ phiếu khống chế. Nhóm nay bao gồm các công ty kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu hoặc bằng cách bán một phần tài sản doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp. * Nhóm bao gồm các doanh nghiệp cổ phần hoá theo thể thức bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động, nhà nước rút vốn của mình. Nhà nước sẽ chỉ tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Với những ngành, lĩnh vực về sản phẩm và dịch vụ khác nhà nước chỉ cần giữ thị phần một cách vừa đủ. Ngoài ra nhà nước không cần phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế. - Quan điểm 2: Dựa vào điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá nhằm chuyển sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao. - Quan điểm 3: Nếu nhằm mục tiêu tư sản hoá công nhân, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì nhà nước cần chú ý đến điều kiện mức thu nhập của cong nhân có khả năng mua cổ phiếu dưới dạng trả góp cũng như tỉ trọng vốn tự có trong tổng số vốn pháp định của doanh nghiệp. - Quan điểm 4: Mọi tài sản cuả doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể, là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần vốn tự có của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên thuộc về nhà nước và trở thành vốn cổ phần nhà nước trong công ty cổ phần. Khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị còn lại để cổ phần hoá cần đưa vốn tự có vào bảng cân đối. Ngoài ra khi tiến hành cổ phần hóa đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để có cách xử lý nguồn vốn này một cách hợp lý tránh đánh đồng những doanh nghiệp làm ăn tốt do đầu tư thêm với doanh nghiệp chỉ dựa vào nguồn vốn nhà nước. - Quan điểm 5: Việc xác định giá trị của doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình để có sự kết hợp hợp lý những phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. - Quan điểm 6: Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Việc bán cổ phần có thể được bán trực tiếp tại các trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý. - Quan điểm 7: Để thực hiện thành công chương trình cổphần hoá nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà còn cầnphải mất một khoản phí tổn nhất định như chi phí bảo hiểm, trợ cấp mất việc, chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi cho tầng lớp dân cư... Thực tiễn cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hóa để mưu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn làlợi ích trước mắt của việc thu hồi vốn đối với nhà nước. - Quan điểm 8: Theo tinh thần quyết định 202- HĐBT thì các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật doanh nghiệp cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Bên cạnh đó, cùng với việc chuyển sang cổ phần hoá, nhà nước cần gấp rút xây dựng một đội ngũ cán bộ (đội ngũ các nhà sáng lập viên) độc lập không phụ thuộc vào hàng ngũ công chức ở các bộ chủ quản và địa phương để thay mặt nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổphần có sự tham gia cuẩ nhà nước. Ngoài ra còn phải xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt khu vực nhà nước và tư nhân. - Quan điểm 9: Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần. Cùng với những quan điểm trên, Đảng đã chủ trương chỉ đạo thực hiện quá trình này thông qua một số chính sách và nghị quyết từ 1986-2002. 3.2. Tiến trình chỉ đạo cổ phần hoá (1986-2002). Năm 1986 tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI có chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Đến 11/1987 Hội đồng bộ trưởng (ngày nay là Chính phủ) có chủ trương cổ phần hoá một số bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là sẽ thí điểm ở một số ngành, lĩnh vực, sau khi tổng kết rút kinh nghiệm sẽ nhân rộng toàn quỗc. Tháng 5/1990, Hội đồng bộ trưởng có quyết định 143/ HĐBT nhắc lại chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước. 11/1991, nghị quyết TWII khoá VII của Đảng đã chỉ rõ chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng ở phạm vi thích hợp. 08/06/1992: Hội đồng bộ trưởng có chỉ thị 202CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp thành công ty cổ phần. 04/03/1993: Ban hành chỉ thị số 84/TTg của thủ tướng chính phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. 07/05/96: Ban hành nghị định số 28/CP chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 06/1996: Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng có khẳng định “Cổ phần hoá không phải là tư nhân hoá” va nhấn mạnh “ phải triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp để huy động thêm vốn, tạo động lực phát triển.” 26/03/ 1993: Nghị định số 25/CP về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP. 20/08/1997, thủ tướng chính phủ có chỉ thị 658/TTg về việc thúc đẩy cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước. 29/06/1998 thủ tướng chính phủ lại ban hành nghị định số 44/1998-NĐ-CP về việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần, thay thế nghị định 28/CP. Năm 1999, Nghị định 103/ 1999 NĐ-CP có chủ trương thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cùng với đa dạng hoá về sở hữu. 09/2001, Nghị quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng lần thứ IX của Đảng khẳng định “ Mục tiêu của cổphần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo nguời lao động tham gia, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh...” 26/04/2002, chính phủ ban hành quyết định số 58/QĐ-TTg về phân loại doanh nghiệp nhà nước, trong đó nhà nước phải nắm toàn bộ sở hữu một số lớn các doanh nghiệp ở những lĩnh vực được coi là có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. 19/06/2002, chính phủ ban hành nghị định số 64/NĐ-CP thay nghị định số 44/NĐ-CP, về việc xác định quyền được mua cổ phiếu của các tổ chức, cá nhân nguời Việt Nam và nước ngoài. 09/09/2002, Bộ tài chính ra thông tư số 79 hướng dẫn định giá tài sản doanh nghiệp và xác định cơ cấu chính phủ khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp. 12/07/2002 nghị định số 69/ NĐ-CP hướng dẫn thanh toán nợ đọng trong doanh nghiệp. 12/09/2002, thông tư số 80 của Bộ tài chính quy định về ưu tiên bán cổ phiếu cho nguời lao động, nhà sản xuất, cung ứng vật tư trong các doanh nghiệp nông, lâm ngư nghiệp với giá ưu đãi. Như vậy, thông qua những thông tư chỉ thị Đảng và nhà nước ta đã thể hiện tính nhất quán và kiên trì với chủ trương cổ phần hoá nhằm đẩy nhanh thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. II. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 1. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 1986-2002. Xét về tốc độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thì mặc dù Đảng ta đã có chủ trương sớm về cổphần hoá và đã theo sát chỉ đạo với nhiều văn bản pháp quy hướng dẫn đồng thời đã tổ chức thí điểm rồi rút kinh nghiệm sau đó mới tiến hành rộng rãi nhưng tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm chạp. Theo như một vài số liệu thì từ 1992-1997 trong vòng năm ta cổ phần hoá được 28 doanh nghiệp nhà nước. Sau nghị định 44/NĐ- CP được chính phủ ban hành năm 1998 tốc độ cổ phần hoá mới được đẩy nhanh phần nào với 102 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong năm. Đến 1999, theo kế hoạch của thủ tướng chínhphủ dự định các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 tiến hành cổ phần hoá 450 doanh nghiệp nhà nước nhưng tổng kết lại ta chỉ tiến hành được 220 doanh nghiệp ( khoảng 49% kế hoạch). Tương tự, chỉ tiêu đặt ra năm 2000 là 337 doanh nghiệp nhưng ta chỉ hoàn thành được xấp xỉ 50% tức là 171 doanh nghiệp (có số liệu cho là 221 doanh nghiệp). Phương thức chung được sử dụng trong giai đoạn 1992-2000 là chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo loại hình cổ phầnhoá. Đến 2001-2002 các loại hình bán khoán và giẩi thể bắt đầu được đưa vào sử dụng. Cụ thể, trong 228 doanh nghiệp được đưa vào cổ phần hoá năm 2001 thì có 200 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 17 doanh nghiệp theo loại hình bán, 41 doanh nghiệp theo loại hình khoán, còn 30 doanh nghiệp là giải thể. Đến năm 2002, ta cổ phần hoá 139 doanh nghiệp trong đó 116 doanh nghiệp theo loại hình cổ phần hoá, 5 doanh nghiệp theo loại hình bán, 13 doanh nghiệp theo loại hình khoán còn lại 5 doanh nghiệp theo hình thức giải thể. Nếu tính theo quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu nhànước theo cơ quan chủ quản thì năm 2001 có 25 doanh nghiệp thuộc các bộ chủ quản ( bằng 8,3% tổng số doanh nghiệp chuyển đổi ), 255 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố quản lý (bằng 88,2%) và 8 doanh nghiệp thuộc các tổng công ty quản lý ( 3,5%). Đến tháng 9/2002 số doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi sở hữu thuộc các bộ chủ quản là 30 trong tổng số 139 doanh nghiệp (xấp xỉ 21,5%), 96 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố (xấp xỉ 69%) và 13 thuộc các tổng công ty ( xấp xỉ 9,5%). Tính hết ngày 31/05/2001,trong số các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá, số doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 1 tỷ đồng chiếm 35%, từ 1-5 tỷ đồng chiếm 38,5%, từ 5-10 tỷ đồng chiếm 20,4% và trên 10 tỷ chiếm 6,1%. Hiện tại, nhà nước có cổ phần ở 367 doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chiếm 59,2%. Số công ty cổ phần nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ là 49 đơn vị (chiếm 8% ) trong đó số phần trăm cổ phần nhà nước nắm giữ cao nhất là 80% và thấp nhất là 4,9%. Về cơ cấu ngành nghề của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá có 57% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông...38% thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, 5% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản. Về thị trường chứng khoán, sự ra đời của thị trường chứng khoán là một điều tất yếu, góp phần tạo ra một thị trường vận hành một cách đồng bộ, với sự hoạt động của thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường vốn. Thị trường chứng khoán giúp các công ty cổ phần nói riêng và doanh nghiệp nói chung điều tiết được việc phát hành cổ phiếu hay chứng khoán phù hợp với thị trường. Mặt khác, nó thúc đẩy công ty cổ phần làm ằn có hiệu quả kinh tế hơn, đoàng hoàng hơn. Bởi lẽ, với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác là những nhà quản lý các công ty cổ phần phải tính toán, làm ăn đoàng hoàng và hiệu quả kinh tế. Dân chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty kinh doanh đoàng hoàng và thành đạt. Xây dựng thị trường chứng khoán trên cơ sở các doanh nghiệp mà nhà nước cổ phần hoá là một chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên đây mới chỉ là giải pháp mang tính đột phá nhằm góp phần thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán. Ơ nước ta, sau hơn mấy năm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với một số lượng lớn các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Với những thành công bước đầu đó, ngày 20/07/2002, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động, chính thức đánh dấu sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2001, ta có 5 loại cổ phiếu đi vào hoạt động ( REE, SAM, HAP, TMS, LAF )của 5 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phát triển tốt được chính thức niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung. Đến nay, đã có gần 20 loại cổ phiếu đang hoạt động trên thị trường. Sắp tới hứa hẹn có thêm nhiều doanh nghiệp nữa cũng tham gia vào hoạt động trong thị trường. Tổng kết lại thì đến tháng 9/2002, cả nước ta đã có khoảng 990 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, trong đó 167 doanh nghiệp thuộc bộ ngành, 751 doanh nghiệp thuộc tỉnh thành phố, 72 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91. Tuy nhiên so với chỉ tiêu đặt ra chỉ tiêu này chỉ chiếm 48% (trong chỉ tiêu 2000 doanh nghiệp được cổ phàn hoá). Số các doanh nghiệp nhà nước từ 12 300 doanh nghiệp (1991) đến nay còn khoảng 5200 doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp GDP tăng từ 36,5% đến 42%, đóng góp 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Nhà nước rút được gần 1500 tỷ đồng để đầu tư vào những nơi cần thiết, huy động được 2500 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội tham gia đầu tư vào các công ty cổ phần nhà nước, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hoá và phát huy vai trò chỉ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, theo điều tra của công ty tư vấn đầu tư và kinh doanh Hà Mịnh thuộc phòng Thương Mại và công nghiệp Việt Nam thực hiện với sự giúp đỡ và hợp tác của Ngân hàng Thế giới, Viện quản lý kinh tế TW và ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp thuộc văn phòng cổ phần thì sau khi cổ phần thì sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp đã đạt được các chỉ tiêu sau: - Về tài chính: Hơn 90% doanh nghiệp khẳng định tình hình tài chính tốt hơn so với trước, 78% các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có doanh thu tăng so với trước đây, 83%số doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá có vốn kinh doanh so với trước, 91% số doanh nghiệp có lãi . - Về vấn đề lao động và động lực lao động: Hơn 80% doanh nghiệp sau cổ phần hoá có chuyển biến rõ rệt về thu nhập cho người lao động và cán bộ quản lý. Về sự quan tâm của quản lý và lao động về lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh cũng chuyển biến rõ rệt, động lực làm việc tăng. Nếu xét theo tỷ suất doanh thu trên tổng số lao đọng của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá ta thấy: Có đến 75% số các doanh nghiệp có năng suất lao động tăng. Với các doanh nghiệp có năng suất lao động giảm ta thấy có nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng doanh thu nhỏ hơn so với tốc độ tăng lao động do doanh nghiệp mở rộng quy mô. Mức sinh lời của lao động (được tính trên cơ sở so sánh lợi nhuận với tổng số lao động) cũng tăng với số doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 70%. Số lượng lao động của các doanh nghiệp hầu hết đều có sự biến động theo xu hướng tăng (78% số doanh nghiệp) và đều cùng đi với việc sử dụng có hiệu quả. Mức độ giải quyết công ăn việc làm cho số lao động cũ cũng được các doanh nghiệp giải quyết tối đa. Kết quả tính toán chung cho thấy có tới 60% số lao động ở các doanh nghiệp hiện nay là số lao động cũ từ các doanh nghiệp hiện nay là số lao động cũ từ các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá chuyển sang. -Về vấn đề công nghệ, sản phẩm và thị trường: Khoảng 70% doanh nghiệp sau cổ phần hoá có sự nâng lên về trình độ kỹ thuật, trang thiết bị và công nghệ. Hầu hết doanh nghiệp đều có nỗ lực mở rộng thị truờng tiêu thụ, cải tiến kỹ thuật vận dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tất cả các số liệu trên là những tín hiệu rất đáng khích lệ chứng tỏ tính đúng đắn trong đường lối của Đảng và nhà nước và tính tất yếu của cổ phần hoá trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích kể trên quá trình cổ phần hoá vẫn còn chứa đựng một số những tồn tại bất cập đó là: - Về tốc độ cổ phần hoá: Kể từ thời điểm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đầu tiên ( 7/1993) tiến độ cổ phần hoá hầu như không năm nào đạt được kế hoạch. Trong 6 năm(1992-1997) tiến trình cổ phần hoá gần như dậm chân tại chỗ: Năm 1993 cổ phần hoá được 2 doanh nghiệp, năm 1994 - 1 doanh nghiệp, năm 1995 - 2 doanh nghiệp, năm 1996 - 5 doanh nghiệp, năm 1997 - 5 doanh nghiệp. Năm 1998 ta cổ phần hoá được 100 doanh nghiệp đạt 40%, 1999 cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp đạt 62,5% kế hoạch. Năm 2000 ta cổ phần hoá được 140 doanh nghiệp đạt 41,5% kế hoạch. Như vậy, có thể thấy rằng tiến trình cổ phần hoá của ta diễn ra quá chậm. Nhiều bộ, ngành, cấp, tổng công ty, địa phương chưa có chủ trương tiến hành cổ phần hoá hoặc có nhưng triển khai chậm. Tính đến cuối năm 2000 mới có 51 tỉnh và 14 bộ, tổng công ty, chính phủ trình bày kế hoạch cổ phần hoá và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đến năm 2000. Một số ngành đưa ra kế hoạch cổ phần hoá mang tính chất đối kháng, hình thức, thực chất muốn giữ toàn bộ số doanh nghiệp đang quản lý ở hình thức nhà nước sở hữu 100% vốn. ở một số doanh nghiệp còn tình trạng trốn tránh cổ phần hoá do đối tượng quản lý không muốn cổ phần do sợ mất chức quyền, do những người lao động sợ bị thất nghiệp sau khi cổ phần hoá. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do chính sách của Đảng và nhà nước không được phổ biến sâu rộng và chưa rõ ràng cụ thể đối với từng đối tượng, chưa có các thông tư chỉ thị hướng dẫn cụ thể. Đây là một tồn tậi cần sớm giải quyết. - Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp đạt kết quả chưa cao. Số doanh nghiêp không có cổ đông ngoài tham gia còn nhiều, tính đến hết năm 1999có 169/370 doanh nghiệp. Số các doanh nghiệp có cổ đông ngoài tham gia thì lại có tỷ lệ góp vốn thấp (84/370 doạnh nghiệp có tỷ lệ vốn góp của cổ đông ngoài từ 1- 20% ). Số doanh nghiệp cổ phần hoá có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài ít và tỷ lệ góp vốn thấp ( ví dụ như công ty Container phía nam 10%, Công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương 10%, công ty cổ phần thiết bị thương mại 30%). Theo kết quả báo cáo thì tính đến ngày 15/08/2000, 460 doanh nghiệp được cổ phần hoá mới thu được 1900 tỷ đồng từ dân chúng (Bao gồm công nhân viên chức của doanh nghiệp và người ngoài doanh nghiệp). Nguyên nhân là do chưa áp dụng mạnh hình thức giữ nguyên giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để huy động thêm vốn (Tính đến hết 2001 có 51/505 doanh nghiệp cổ phần hoá áp dụng hình thức này). - Có hiện tượng gian lận trong định giá giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá thấp hơn giá trị thực chất làm thất thoát tài sản nhà nước. Nguyên nhân là do chưa thống nhất trong phuơng pháp định giá tài sản doanh nghiệp giữa nhà nước và doanh nghiệp. Phương pháp định giá hiện nay được xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp “ giá trị tài sản ròng” (tức giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu bằng giá trị thị trường của tài sản trừ đi giá trị của công nợ ) và phương pháp “ định giá theo khả năng sinh lời của tài sản” ( tức dựa trên các dòng tiền dự tính xuất hiện trong tươnglai do tài sản mang lại). Phương pháp hiện nay cho phép loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá những tài sản thuộc đối tượng thanh lý không cần dùng, các khoản công nợ khó đòi. Đối với doanh nghiệp có lợi thế doanh nghiệp thì chỉ tính 30% giá trị lợi thế để đề phòng các rủi ro có thể xảy ra trong tương lai. Nhưng nó cũng có những bất cập đólà do chỉ có duy nhất một phương pháp tính giá trị nên nếu như có sai sót gì thì cũng không thể có phuơng pháp khác kiểm chứng. Quan niệm cấu thành giá trị doanh nghiệp cũng không hợp lý, các giá trị doanh nghiệp bằng tổng gía trị tài sản hữu hình, vô hình và lợi thế doanh nghiệp, như vậy thì lợi thế doanh nghiệp nằm ngoài giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Phương pháp định giá doanhnghiệp chủ yếu chỉ căn cứ vào sổ sách kế toán chứ không căn cứ vào giá thị trường. Tính lợi thế doanh nghiệp dựa trên cơ sở so sánh lợi nhuận nội bộ ngành, đã bỏ ra lợi thế kinh doanh giữa ngành này với ngành khác, tuy điều này là phù hợp với tình hình thực tiễn về thông tin kinh tế ở Việt Nam. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc “giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổphần hoá mà người mua và bán cổ phần đều có thể chấp nhận được”. Tuy nhiên trên thực tế hoàn toàn không có thoả thuận gì giữa người mua và bán cổ phần, và việc định giá doanh nghiệp vẫn mang tính chất chủ quan do có nhiều yếu tố tác động. - Thị trường chứng khoán tuy đã đi vào hoạt động nhưng vẫn chưa ổn định và chưa khẳng định được sự cần thiết của mình. Hoạt động của thị trường vẫn chưa được phổ cập, dẫn tới sự hiểubiết về thị trường vẫn còn khá mờ mịt đối với nhiều đối tượng ... Trên đây là một số vấn đề đã và đang tồn tại trong quá trình cổ phần hoá đòi hỏi cần sớm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng từ đó có thể đưa ra các giải pháp hợp lý. 2. Một số nhân tố ảnh hưởng. Tác động đến quá trình cổ phần hoá có rất nhiều nhân tố tác động bao gồm cả những nhân tố chủ quan cũng như những nhân tố khách quan, những nhân tố thuận lợi cũng như những nhân tố khó khăn. Trước tiên, xin được trình bày những nhân tố góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá của chúng ta đi đến đuợc những bước đáng khích lệ như ngày hôm nay. 2.1. Các nhân tố thuận lợi. - Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý của ta đã được xác lập về cơ bản, đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thực hiện “ thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. - Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của vấn đề cổ phần hoá mà cụ thể thực hiện ban đầu là áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Từ đó đưa ra những chính sách khuyến khích nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá đồng thời theo sát chỉ đạo nhằm thực hiện cổ phần hoá một cách toàn diện, hiệu quả. - Tình hình kinh tế tài chính của ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả trên thị trường... Cùng với việc hình thành thị trường chứng khoán ngày 20/07/2002, luật đầu tư nước ngoài ra đời và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của nước ngoài bằng cổ phiếu vào các doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành cổ phần hoá. - Chúng ta đã có những kinh nghiệm và bài học quý báu rút ra từ thực tiễn cổ phần hoá ở các nước phát triển trên thế giới. 2.2. Những nhân tố khó khăn. - Tư tưởng, quan điểm về cổ phần hoá vẫn chưa được quán triệt một cách triệt để và toàn diện trong các cấp, bộ ngành, địa phương và đối với người lao dộng. Công tác tuyên truyền giáo dục từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước từ TW đến địa phương về cổ phần hoá vẫn chưa được đẩy mạnh. Nhiều cấp ngành chưa quán triệt đầy đủ nghị quyết của Đảng về công tác cổ phần hoá, chưa nhận thức được mục đích, ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá, chưa thực sự quan tâm đến cổ phần hoá, do đó trong chỉ đạo và tổ chức triển khai còn mang tính chất đối phó, do dự, chần chừ, thiếu kiên quyết trông chờ vào sự tự nguyện của doanh nghiệp, chưa gắn trách nhiệm của lãnh đạo các địa phương, các tổng công ty với việc triển khai và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của chính phủ. Một số cơ quan quản lý lo bị mất quyền quản lý đối với các doanh nghiệp trực thuộc, các tổng công ty lo ngại khi cổ phần hoá sẽ giảm quy mô, vốn tài sản, doanh thu, và tiêu chí xếp hạng, người lao động lo sợ việc làm không ổn định, mất việc làm, mất sự bảo hộ của nhà nước. Ngoài ra , trong quan niệm của nhiều người ở các cơ quan quản lý lại xem doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá là thành phần kinh tế ngoài nhà nước nên việc giải quyết các yêu cầu kinh doanhkhông bình đẳng như với các doanh nghiệp nhà nước khác như: trong vấn đề vay vốn ngân hàng, xin cấp đất... Chính thực tế này đã làm nhiều doanh nghiệp nản lòng mặc dù trong chủ trương chính sách chung không hề có sự phân biệt này. Điều này là do các cán bộ quản lý chưa nắm rõ chính sách, chủ trương để giúp đỡ các doanh nghiệp. Những chính sách về quyền lợi đối với các giám đốc công ty, các nhà quản lý doanh nghiệp cũng chưa có hoặc là chưa cụ thể, điều này làm cản trở rất nhiều tiến trình cổ phần hoá của ta. - Sự chỉ đạo của các cấp như chính phủ, bộ, ngành, tỉnh, thành phố, tổng công ty 90-91 còn thiếu kíên quyết và chưa sâu sát, kịp thời, còn nặng về kêu gọi, động viên chung chung, chưa đi sâu vào khảo sát, nắm bắt tình hình, chưa xây dựng chương trình, đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp, cụ thể với lộ trình tiến độ, bước đi, chưa kiểm tra đánh giá và có biện pháp kịp thời tháo goã những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Nhất là công tác tổng kết thực tiễn, đúc kết, nhân rộng mẫu hình tiên tiến về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở các ngành, địa phương chưa được sự chỉ đạo tích cực, chưa có sức thuyết phục rộng rãi. Một số nơivẫn chưa hình thành ban cổ phần hoá hoặc nếu có cũng chỉ là đối phó. Vẫn chưa có chính sách, biện pháp xử lý đối với những nơi làm sai, làm chậm hoặc không thực hiện cổ phần hoá. Sự phân quyền, hướng dẫn và phối hợp giữa trung ương và địa phương chưa thông suốt, sự chồng chéo, bỏ trống vẫn là điều đáng bàn. Việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá chưa được triển khai đồng bộ với các biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước khác vì thế chưa thật sự tạo được môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn được ưu đãi hơn, việc này dẫn tới tâm lý ngại cổ phần hoá. - Cơ chế chính sách về cổ phần hoá: Cơ chế chính sách về cổ phần hoá chưa đồng bộ, quy trình, thủ tục cổ phần hoá phức tạp. Thủ tục cổ phần hoá phải trải qua rất nhiều bước và lại phụ thuộc vào rất nhiều cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều ban hệ nhưang không có tổ chức nào có đủ thẩm quyền để giải quyết các vướng mắc từ A-Z. Việc quy định quyền được mua cổ phiếu lần đầu tài khoản 1 và 2 Nghị định 44/CP đã làm hạn chế khả năng mua cổ phiếu của các nhà đầu tư cả trong và ngoài doanh nghiệp. Quy đinh mỗi cá nhân được mua tối đa không quá 10% vầ doanh nghiệp không quá giá trị cổ phiếu cuả công ty, quy định các thành viên ban giám đốc công ty và người thân không được sở hữu số cổ phần nhiều hơn mức trung bình của các cổ đông trong công ty không tạo được sự an tâm của các nhà đầu tư, cổ phần ưu đãi cho các thành viên chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ 20%, hạn chế cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài là 30%. Thủ tục xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, mất nhiều thời gian. Hiện nay chúng ta vẫn chưa có phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Sự phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm như việc xử lý nợ khó đòi, thẩm định giá nhà xưởng, máy móc, quyền sử dụng đất và tính toán lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó chúng ta vẫn chưa có quyết sách quy định cụ thể những doanh nghiệp nào cần phải cổ phần hoá, việc giải quyết quyền lợi cho người lao động sau cổ phần hoá vẫn còn nhiều bất cập... Điều này đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp tuy đã được chỉ định cổ phần hoá nhưang vẫn đang rối bời về nợ phải trả nợ khó đòi nên chưa thể tiến hành ngay cổ phần hoá. Đi cùng với kỹ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức quản lý yếu kém, tiêu cực, mất doàn kết nội bộ, tài chính không minh bạch tạo ảnh hưởng lớn làm chậm tiến trình cổ phần hoá. - Các nhân tố ảnh huởng đến hậu cổ phần hoá: + Việc quản trị và điều hành của các công ty sau cổ phần hóa: Thực tế ở nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hoá, nhiều công ty chưa được tổ chức, hoạt động đúng với quy định của pháp luật và điều lệ của côngty cổ phần. Nhiều công ty sau cổ phần hoá vẫn giữ nguyên bộ máy cũ, chỉ đôn một số vị trí lên (Giám đốc thành chủ tịch hội đồng quản trị, phó giám đốc doanh nghiệp nhà nước trở thành giám đốc công ty cổ phần...). Và vì vậy nên ít đổi mới tư duy, cung cách làm ăn, phong cách hoạt động vẫn mang dáng dấp của doanh nghiệp, vẫn vận dụng các quy định đối với doanh nghiệp nhà nước để hoạt động. Đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hoá mà nhầ nước vẫn giữ cổ phần chi phối( trên 50%) thì có nguy cơ phong cách hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn như doanh nghiệp nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước đối với công ty vẫn còn nặng nề, tình trạng các tổ chức Đảng, chính quyền vẫn còn can thiệp một cách hành chính vào công ty cổ phần vẫn còn khá phổ biến. Vấn đề nguời đại diện phần vốn của nhà nước trong công ty cổ phần vẫn còn nhiều bất cập, nhiều người đại diện vừa là đại diện cho nhà nước lại vừa là cổ đông. Việc lựa chọn thành viên trong hội đồng quản trị chủ yếu chỉ dựa trên lượng vốn góp mà không chú ý đến trình độ chuyên môn nghề nghiệp, sự am hiểu ngành nghề kinh doanh. Chưa có sự phân định rõ ràng về phạm vi quyền hạn cuẩ các cấp quản trị dẫn đến tình trạng thực hiện không đúng quyền hạn và trách nhiệm dẫn đến chồng chéo lấn sân hoặc bỏ trống. Ơ nhiều công ty cổ phần, do chưa nhận thức đúng và đầy đủ về công ty cổ phần nên các cổ đông hoặc là vượt quá quyền hạn hoặc là không sử dụng hết quyền hạn của mình. Việc bán vầ chuyển giao cổ phần chủ yếu là chỉ tồn tại trong nội bộ doanh nghiệp nên thiếu nhà đầu tư chiến lược(cổ đông chiến lược bên ngoài doanh nghiệp) để tham gia quyết sách tạo chuyển biến lớn với công ty. + Các quy định của nhà nước về vấn đề cổ phiếu (cổ phiếu có ghi tên và không ghi tên), đối tượng và số lượng giới hạn được mua cổ phiếu, tỷ lệ cổ phần nhà nước cần nắm giữ đối với từng loại doanh nghiệp được cổphần hoá, thời hạn được chuyển nhượng cổ phần tự do, việc đăng ký tham gia thị trường chứng khoán... còn nhiều bất cập thiếu tính khả thi và ít hiệu quả. Vấn đề chuyển nhượng cổ phần diễn ra khá tự do không thông qua sổ đăng ký cổ đông dẫn tới tình trạng không thể kiểm soát. Chẳng hạn là tình trạng người ngoài công ty nhờ người lao động đứng tên mua cổ phần hay tình trạng người lao động chuyển nhượng ngay trong ba năm đầu vượt quá 80% số cổ phần do mình sở hữu. Mặc dù đã có nghị định 64/CP có bổ sung quy định về cổ đông sáng lập (khoản 2 điều 6) và đưa ra quy định nguời lao động được mua cổ phiếu ưu đãi, có ghi danh nhưng không được chuyển nhượng trong 3 nằm đầu nhưng các chế tài đi cùng với quy định để xử lý khi có vi phạm vẫn chưa phát huy tính hiệu quả. + Một số vấn đề tồn tại trong tiền trình cổ phần hoá sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục giải quyết đó là: * Chưa xử lý dứt điểm nợ tồn đọng (nợ khó đòi) trước khi cổ phần hoá nên doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn phải tiếp tục gặp khó khăn trong đòi nợ, trả lãi đối với khoản nợ khó đòi này. Tuy đã có cơ chế của chính phủ tạo điều kiện cho phép xử lý các khoản nợ và tài sản trước khi chuyển đổi song cơ chế này cũng chỉ có giới hạn vầ thiếu chi tiết. Chưa có chính sách xử lý về những tài sản mà doanh nghiệp còn giữ sau cổ phần hoá, điều này dẫn tới sự không rõ ràng và thiếu trách nhiệm trong quản lý tài sản. Ngoài ra các doanh nghiệp vẫn có thể khai thác số tài sản này. * Thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp phức tạp và rắc rối. Do quy định không tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá, nhất là đối với các doanh nghiệp ở các thành phố lớn có vị trí đẹp nên có sự chênh lệch giá trị cổ phần lớn sau khi chuyển đổi phát sinh từ giá trị của đất. * Chưa có chính sách quy định việc bố trí sắp xếp những lao động dôi dư sâu cổ phần hoá cũng như bố trí công việc cho các cán bộ quản lý nếu như sau cổ phần hoá không được bầu vào ban lãnh đạo của công ty. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hoá. *Việc thực hiện các chính sách ưu đãi của nhà nước cho các doanh nghiệp cổ phần hoá (ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước như doanh nghhiệp mới thành lập, trường hợp không đủ các điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của luật khuyến khích đầu tư thì đưọc miễn giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghhiệp trong hai năm đàu hoạt động) chưa được thống nhất, do đó dẫn đến trường hợp xin cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nhiều lần nhưng chưa được cấp. Hay như việc vay vốn ở các doanh nghiệp sau cổ phần hoá, theo như quy định sẽ được hưởng cơ chế lãi suất áp dụng như đối với doanh nghiệp nhà nước ... nhưng trong thực tế Ngân hàng chỉ giải quyết cho những doanh nghiệp mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, còn những doanh nghiệp khác chỉ được áp dụng trong hai năm đầu sau khi chuyển đổi, các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá vẫn phải thế chấp vay vốn, còn các doanh nghiệp nhà nước vvẫn được tín chấp. Việc bị kỳ thị, phân biệt đối xử này ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của cổ phần hoá. Ngoài ra vẫn chưa có sự thống nhất giữa Luật doanh nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Chưa có những hướng dẫn doanh nghiệp sau cổ phần hoá về nguồn cung cấp thông tin, cung cấp các văn bản pháp quy của nhà nước, về chế độ nâng bậc để phù hợpvới chế độ BHXH... iiI. Một số kiếnnghị nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. 1. Về tư tưởng: Cần phải quán triệt tinh thần các nghị quyết TW3, Nghị quyết TW5 của ban chấp hành TW Đảng khoá IX trong toàn thể cán bộ, Đảng viên và người lao động để nhận thức được tính tất yếu, sự cần thiết trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trang bị những kiến thức cơ bản về hình thức kinh tế công ty cổ phần trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Làm rõ trách nhiệm của cán bộ quản lý kinh tế, nhất là các giám đốc doanh nghiệp, động viên, kích thích bằng lợi ích kinh tế đối với người lao động cùng tham gia cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 2. Về hệ thống chính sách: Cần đổi mới và hoàn thiện chế độ chính sách về tổ chức và quản lý quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá thì có thể thể chế hoá các mục tiêu, nguyên tắc, nội dung, phương pháp cổ phần hoá ở một văn bản cao hơn nhằm bảo đảm niềm tin và cơ sở pháp lý vững chắc cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, song song với việc sửa đổi những ưu đãi về thuế, về công suất ưu đãi. Trong việc định giá trị doanh nghiệp nên thống nhất để tránh xảy ra vấn đề khó khăn trong xác định giá cho các tổ chức và doanh nghiệp đồng thời lại tạo ra các lỗ hổng để làm thất thoát tài sản cuả nhà nước. Giải pháp đưa ra đó là hoặc là thực hiện cơ chế đấu thầu giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước khi cổ phầnhoá thay cho định giá bằng hội đồng nhằm chống tiêu cực và làm thiệt hại cho nhà nước, hoặc là thông qua những công ty trung gian để dựa trên quan hệ “cung cầu” của thị trường để định giá. Với các vấn đề liên quan đến giải quyết các khoản nợ hay tồn vốn hay tài sản trong quá trình cổ phần hoá cần sớm có các chính sách, quy định cụ thể rõ ràng cho từng trường hợp để bổ sung thêm cho các chính sách đã có sẵn. Ngoài ra, cũng cần đưa ra các chính sách nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động và ban quản trị cũ của doanh nghiệp để làm gọn công tác tư tưởng bớt đi một nhân tố làm chậm tiến trình cổ phần hoá. 3. Trong công tác chỉ đạo : Tăng cường hiệu quả trong công tác chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá giữa các bộ, ngành, địa phương và các tổng công ty nhằm tạo sự thống nhất cao ngay trong việc chỉ đạo sắp xếp đổi mới doanh nghiệp. Làm rõ và nâng cao tính chịu trách nhiệm trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ cần phân cấp mạnh mẽ cho các đại diện chủ sở hữu quyền quyết định sắp xếp hệ thống doanh nghiệp do mình quản lý. Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm phê duyệt các đề án sắp xếp doanh nghiệp của các tỉnh thành phố và của các ngành. Trong quá trình thực hiện phân cấp, các nguyên nhân chậm chễ, chần chừ tiến hành cổ phần hoá cần được làm rõ và có biện pháp xử lý thích hợp. 4. Giải pháp cho các vấn đề phát sinh ở hậu cổ phần hoá: -Về vấn đề quản trị sau cổ phần hoá: Để tạo ra sự đổi mới thực sự trong bộ máy quản trị của công ty cổ phần cần phải có một số sự đổi mới toàn diện từ các chính sách của nhà nước đến tư tưởng của các thành viên tham gia góp cổ phần. Nhà nươc cân phải đưa ra một khung pháp lý đồng bộ, thống nhất, quy định cụ thể xem loại doanh nghiệp nào cần giữ cổ phần của nhà nước, còn lại các doanh nghiệp nhỏ và vừa...cần thực hiện bán 100% cổ phiếu cho các đối tượngkhông phải là nhà nước. Đây là điều kiện tiềnđề để thực hiện thay đổi bộ máy quản trị ở các doanh nghiệp nhà nước và các côngty cổ phần hậu cổ phần hoá. Đồng thời nhà nước cũng nên có quy định để hạn chế sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản cũ và mới. Mọi sự can thiệp của cơ quan chủ quản vào công ty cổ phần phải qua hình thức bỏ phiếu của người đại diện. Với người đại diện sở hữu vốn của nhà nước cần có quy định cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm của họ, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa nhà nước và người quản lý trực tiếp phần vốn nhà nước. Để nâng cao chất lượng của công tác quản trị ở các công ty cổ phần cần hoàn thiện mối quan hệ trong tổ chức điều hành giữa đại hội cổ đông, giám đốc điều hành và ban kiểm soát. Tăng cường đào tạo, nâng cao sự hiểu biết và trình độ quản lý của các nhà quản trị. Hội đồng quản trị phải có tính đại diện cao, uy tín, đảm bảo thể chế dân chủ minh bạch công khai trong tổ chức điều hành. Bên cạnh đó cũng cần phải nâng cao nhận thức cho người lao động về quyền của cổ đông, của các cơ quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng của côngty nhằm làm cho cổ đông (đặc biệt là người lao động ) nắm rõ được quyền hạn và tráchnhiệm của mình tránh tình trạng lạm quyền hoặc làm chủ hình thức. Cần phát huy vai trò của đại hội cổ đông tron gtổ chức, điều hành côngty cổ phần. Nhằm tránh sự chồng chéo hoặc bỏ trống trong bộ máy quản lý cần xác định rõ và thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm giữa hội đồng quản trị và Ban giám đốc. -Về vấn đề tài chính : Giải quyết dứt điểm các vấn đề tài chính còn tồn đọng từ trước quá trình cổ phần hoá như xử lý các khoản nợ đọng. Để làm được điều này thì ngoài việc dựa vào các quy định đã được Đảng và nhà nước đưa ra (như Nghị định 64/2002/NĐ-CP ) cần phải có một cơ quan chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc cổ phần hoá một doanh nghiệp. Cơ quan này ngoài việc lo thủ tục cổ phần hoá còn chịu trách nhiệm đề ra các phương pháp xử lý các khoản nợ, định giá cho doanh nghiệp, cơ cấu về cổphần lần đầu, bán cổ phần lần đầu, chịu trách nhiệm về tính công khai, minh bạch trong định giá, bán cổ phần. Trong công tác tài chính ở công ty cổphần cần thực hiện chính sách công khai, minh bạch đúng quy định của pháp luật. Chức năng nhiệm vụ của bộ phận tài chính cần phải được xác định rõ ràng. Nếu có điều kiệnnhanh chóng tham gia vào thị trường chứng khoán vừa tạo thuận lợi cho thu hút vốn thông qua việc cung cấp thôngtin về tình hình tài chính cho các nhà đầu tư, lại vừa tạo sức ép để bộ máy quản trị hoạt động có hiệu quả. Có cơ chế công khai về thành lập và phân phối các quỹ, thiết lập và cải thiệnmối quan hệ với khách hàng và các tổ chức tín dụng. - Về công tác lao động sau cổ phần hoá: Nhà nước cần ban hành chính sách lao động dài hạn giải quyết cho số lao động dôi dư ssau cổ phần hoá nói chung và cho số lao động dôi dư trong các thành phần kinh tế khác nói chung. Theo đó, cần giáo dục cho mọi công dân, mọi người lao động ở các doanhnghiệp đặc biệtlà doanh nghiệp nhà nước nắm vững quyền hạn và trách nhiệm của họ theo các quy định của bộ Luật lao động. Khi có sự giảm lao động ở trong doanh nghiệp nhà nước cần có một chính sách đào tạo, bổ túc nghề nghiệp và trợ cấp thất nghiệp đối với lao động không đáp ứng yêu cầu đồng thời cần thường xuyên khuyến khích người lao động thường xuyên tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề.Với những người lao động tham gia cổ phần trong doanh nghiệp cần có chính sách nhằm giải quyết cổ phần ưu đãi cho họ. Với những cán bộ quản lý cũ không được bầu vào ban lãnh đạo mới cần có cơ chế chính sách phù hợp đối với họ. -Về vấn đề phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp: Không phân biệt đối xử các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế không chỉ là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà còn được thể chế hoá thành quy định ở nhiều Nghị định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ, các Bộ và UBND các tỉnh. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại tình trạng phân biệt đối xử như đã nêu ở phần thực trạng. Để có thể thực hiện nghiêm túc các quy định trên cần phải xoá bỏ sự phân biệt trong các chính sách, thực hiện các chính sách giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp sau chuyển đổi về tín dụng, đầu tư, đất đai, xuất nhập cảnh, cán bộ... đưa ra một quy chế quy định rõ thẩm quyền, thời hạn tối đa được phép cũng như trách nhiệm giải quyết từng loại công việc liên quan đến đăng ký, thay đổi hoạt động kinh doanh của doan h nghiệp. Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc tiếp tục cung cấp thông tin, phổ biến chế độ chính sách cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Đi kèm với các quy định này cần có một số định chế nhằm xác định hình thức xử lý thích hợp trong trường hợp có vi phạm. Trên đây là một số phương án lý thuyết để giải quyết những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình cổ phần hoá ở nước ta, nhưng thực hiện như thế nào thì còn là một vấn đề đòi hỏi sự phối hợp và chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng. Kết luận Thực hiện cổ phần hoá đối với nước ta hiện nay là một vấn đề tất yếu và có tầm quan trọng chiến lược trong tiến trình hội nhập kinh tế cũng như đi lên chủ nghĩa xã hội của ta. Cùng với việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, Đảng và nhà nước ta cũng chủ trương khuyến khích việc thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phần hoá trong các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, tiến tới mở rộng cổ phần hoá ở các thành phần kinh tế, tạo lập một thị trường chứng khoán phát triển toàn diện và đồng bộ, hoà nhập với xu thế chung của toàn cầu. Tuy nhiên, do nhiều nhân tố mà quá trình cổ phần hoá của chúng ta còn nhiều bất cập tác động làm chậm tiến trình cổ phần hoá. Nhưng tin rằng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với sự giúp đỡ của các nước anh em, cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học, công nghệ, tri thức... những vấn đề trên sẽ nhanh chóng được giải quyết, bên cạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mở ra cho chúng ta con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0939.doc
Tài liệu liên quan