Đề tài Việt Nam gia nhập ASEAN và các tổ chức kinh tế quốc tế khác

Việt Nam thông qua vai trò của mình trong ASEAN ngày càng có điều kiện tham gia vào các khối mậu dịch lớn hơn như WTO hoặc khu vực mậu dịch tự do châu á đang được xây dựng v.v. qua đó nâng cao vai trò của Việt nam trong nền kinh tế thế giới và tạo đà phát triển cho kinh tế Việt nam trong tương lai.

doc36 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam gia nhập ASEAN và các tổ chức kinh tế quốc tế khác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành khu vực hoà bình, tự do và trung lập. - Quyết tâm xúc tiến những cố gắng cần thiết để đảm bảo sự công nhận và tôn trọng Đông Nam á như một khu vực hoà bình, tự do, trung lập không có sự can thiệp từ bên ngoài của các cường quốc dưới bất kỳ hình thức nào. 2. Nguyên tắc hoạt động của ASEAN. + Để có thể thực hiện được những mục tiêu mà tổ chức ASEAN hướng tới cần phải có các nguyên tắc hoạt động làm chức năng định hướng cho hoạt động của khối nói chung và với từng quốc gia thành viên nói riêng. Các nguyên tắc của tổ chức hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đã thể hiện mong muốn thúc đẩy tình hữu nghị, hoà bình vĩnh viễn, sự hợp tác lâu bền giữa nhân dân các nước tham gia tổ chức. Nội dung cơ bản của các nguyên tắc này được ghi nhận trong hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á, phù hợp với hiến chương Liên Hiệp Quốc, tuyên bố cuối cùng của Hội nghị á - Phi ở Băng Đung (25 - 04 - 1955) tuyên bố Băng Cốc 8 - 8 - 1967 và tuyên bố ký tại CuaLaLămpơ 27 - 11 1971. Trong chương I, điều 2 của hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước BaLi 24 - 02 - 1976) ghi nhân các nguyên tắc. a. Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các nước. b. Quyền của các dân tộc, quốc gia được tồn tại mà không có sự cạn thiệp, lật đổ hay sức ép từ bên ngoài. c. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. d. Giải quyết tranh chấp hoặc bất đồng bằng biện pháp hoà bình e. Không đe doạ, sử dụng vũ lực. f. Hợp tác có hiệu quả giữa các nước. Như vậy chứng tỏ ASEAN là một liên minh hợp tác về chính trị, quân sự, không phải là một liên minh quân sự. 3. Cơ cấu tổ chức của ASEAN Theo điều 2 tuyên bố Băng Cốc 1967, được bổ sung và cụ thể hoá bằng các văn kiện khác, bộ máy cơ cấu tổ chức của ASEAN bao gồm: + Cơ quan cao nhất là hội nghị cấp cao các nhà lãnh đạo của các quốc gia thành viên (lãnh đạo chính phủ) có chức năng vạch ra đường lối cho từng thời kỳ. + Hội nghị bộ trưởng các ngành chuyên môn. + Các uỷ ban thường trực ASEAN do Bộ trưởng ngoại giao các nước đăng cai làm chủ tịch và đại sứ các nước thành viên khác, có nhiệm vụ chuẩn bị cho các cuộc họp hàng năm và hội nghị bất thường của Hội nghị cấp Bộ trưởng nói trên. + Các uỷ ban chuyên môn (gồm viên chức và chuyên gia của các nước thành viên). + ASEAN có 5 uỷ ban kinh tế: Thương mại và du lịch công nghiệp năng lượng và tài nguyên, lương thực và nông nghiệp. Liên lạc và giao thông vận tải, tài chính và ngân hàng. Có 4 uỷ ban về văn hoá là: - Khoa học kỹ thuật - Văn hoá và thông tin - Phát triển xã hội. - Ngân quỹ + Ban thư ký: Được thành lập năm 1978 (theo chương trình hoạt động 1976); trụ sở đặt tại Giacacta, có nhiệm vụ phối hợp theo dõi và tạo điều kiện để tiến hành hoạt động của ASEAN. * Từ cơ cấu tổ chức của ASEAN ta có thể nhận thấy tổ chức này không phải là một tổ chức siêu quốc gia chỉ đạo các nước thành viên mà là cơ quan phối hợp các hoạt động của các nước hội viên, dung hoà quyền lợi dân tộc của mỗi nước với quyền lợi của tất cả các nước thành viên. III - Vai trò của ASEAN với sự tồn tại, phát triển của khu vực Đông Nam á và sự ổn định của thế giới. 1. Trong lĩnh vực chính trị: + Với tư cách là tổ chức của các quốc gia Đông Nam á. ASEAN đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định, tồn tại của khu vực và thế giới. Với đường lối đối ngoại hoà bình, tạo lập mối đoàn kết giữa các nước trong khu vực, tăng cường tiếp xúc với các nước và tổ chức quốc tế, tất cả các nước Đông Nam á giờ đây đều tích cực tham gia vào quá trình hợp tác vì hoà bình ổn định và phát triển. Với chính sách đối thoại, hợp tác cùng nhau giải quyết mâu thuẫn bằng con đường chính trị ASEAN đã biến khu vực Đông Nam á từ một điểm nóng trở thành một trong những khu vực có nền an ninh - chính trị - ổn định nhất trên thế giới, mối xung đột giữa các quốc gia thông qua vai trò của ASEAN đã được giải quyết êm thấm bằng con đường đối thoại. Thông qua ASEAN, các nước Đông Nam á đã có tiếng nói, quan trọng trên trường quốc tế, với tinh thần đoàn kết khu vực, bằng hành động của mình ASEAN trở thành một lực lượng đủ mạnh để ngăn chặn mưu đồ thống trị của các thế lực bên ngoài, giữ gìn được bản sắc của khu vực, bảo vệ được nền độc lập, tự chủ của các quốc gia thành viên. 2. Trong lĩnh vực kinh tế: + Các quốc gia Đông Nam á trong ASEAN là những nước vừa và nhỏ. Nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Sức mạnh kinh tế của hầu hết các nước thành viên chưa đủ để có thể có tiếng nói quyết định trong nền kinh tế thế giới. Với cơ chế hợp tác, ASEAN đã trở thành một thị trường to lớn đầy hứa hẹn đối với mỗi nước thành viên. Hợp tác kinh tế khu vực góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của mỗi nước, đồng thời ASEAN với sức mạnh của sự tập trung của nhiều nền kinh tế trở thành cánh cửa để các nước thành viên bước ra bên ngoài hợp tác với các khối, tổ chức kinh tế lớn trên thế giới. Với tiềm năng to lớn về nhiều mặt, ngày nay ASEAN với tư cách là khu vực kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới đang trở thành một khu vực có sức hấp dẫn đầu tư của nước ngoài. Qua đó sự vững mạnh về kinh tế của các nước thành viên càng được củng cố, sức mạnh kinh tế của khu vực tăng lên góp phần đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế của ASEAN với các nền kinh tế khác. ASEAN trở thành một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong chuối liên kết kinh tế thế giới và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của khu vực. 3. Trong một số lĩnh vực khác: - ASEAN là cầu nối hợp tác giữa các nước thành viên trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật. Sự giao lưu, hợp tác, trao đổi của các nước trong ASEAN củng cố thêm tình đoàn kết khu vực, đưa sự tiến bộ của khối lên ngang tầm thế giới, góp phần không nhỏ vào sự phát triển và tiến bộ của nhân loại. Chương II Hợp tác kinh tế ASEAN - Việt Nam. I - Việt Nam gia nhập ASEAN. Cùng nằm trong khu vực Đông Nam á. Qua từng thời kỳ quan hệ Việt nam - ASEAN có sự thăng trầm khác nhau, tuỳ tình hình và hoàn cảnh quốc tế trong chiến tranh lạnh và sau chiến tranh lạnh ASEAN luôn có những vị trí khác nhau, quan trọng trong chính sách đối ngoại của nước ta. 1. Quan điểm của chính phủ Việt Nam về tổ chức ASEAN và mức độ quan hệ của chúng ta với tổ chức này. a. Giai đoạn 1967 - 1978. - Vào cuối những năm 1960 tình hình Đông Dương có sự diễn biến phức tạp. Cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương chống can thiệp Mỹ và tay sai đang ngày một lớn mạnh. Hiệp hội các nước Đông Nam á ra đời năm 1967 trong bối cảnh Đông Nam á đang có sự đối đầu giữa các thế lực khác nhau. Các nước trong ASEAN đều ít nhiều có sự dính líu tới cuộc chiến tranh Việt Nam. Philippin và Thái Lan là hai nước có quân tham gia lực lượng Mỹ tại Việt Nam. Các căn cứ ở hai nước này là địa điểm xuất phát của lực lượng Mỹ đánh phá Việt Nam. Do vậy, cho tới khi có sự biến chuyển về chiến tranh, thắng lợi về mặt chiến lược của cách mạng Việt Nam diễn ra không ngừng (Tổng tiến công 1968, đánh bại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc của không quân Mỹ v.v...) làm cho thế lực của Mỹ ngày càng giảm sút, ảnh hưởng của Trung Quốc và Liên Xô tăng lên ở khu vực. Tình hình đó làm cho ASEAN phải xem xét, đổi mới, tính toán lại chiến lược của mình. Sự can thiệp ngày càng lớn của Trung Quốc cùng với việc Mỹ rút dần quân khỏi Thái Lan v.v... làm cho hơn lúc nào hết chính quyền các nước ASEAN bị gây áp lực, đe doạ tới sự ổn định của đất nước. Tháng 11 - 1971 tuyên bố ZOPFAN được ký kết, tuyên bố này chính là sự thay đổi về đường lối đối ngoại của các nước ASEAN. Mong muốn đạt mục đích tách các nước ASEAN khỏi sự can thiệp của các nước lớn, đặt ASEAN đứng ngoài cuộc tranh chấp giữa các thế lực khác. Biến ASEAN thành khu vực tự do và trung lập, không liên kết. Mặt khác tuyên bố ZOPFAN còn tạo điều kiện để các nước ASEAN thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước chính sách đối ngoại ngày một tiến bộ của các nước ASEAN cùng với hoạt động giảm bớt sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chính phủ nước ta đã tỏ thái độ hoan nghênh và khuyến khích chúng ta đã tiến hành thiết lập một số chính sách với các nước thuộc ASEAN (Năm 1970 - Malaixia đình chỉ việc đào tạo cảnh sát và cố vấn cho chính quyền Sài Gòn, từ chối yêu cầu của Sài Gòn lên án cuộc tấn công của quân dân Việt Nam ở Nam Việt Nam. Singapor chấp nhận để Việt Nam dân chủ cộng hoà đặt cơ quan Tổng Công ty xuất nhập khẩu (7 - 1971), 1969, 1970 hai nước Philippin và Thái Lan công bố và thực hiện kế hoạch rút quân và nhân viên ra khỏi miền Nam Việt Nam chúng ta cũng tiến hành thay đổi thái độ với Philippin v.v... Tuy nhiên quan hệ giữa hai bên vẫn chưa có phát triển gì đáng kể). + Đầu năm 1973 ở khu vực tình hình có sự thay đổi. Mỹ đã phải ký hiệp định Pari chấm dứt hoạt động quân sự ở Đông Dương xu thế hoà bình trung lập ở khu vực phát triển mạnh, chính quyền độc tài thân Mỹ Thanon ở Thái Lan sụp đổ, sức ép đòi rút quân Mỹ khỏi Thái Lan ngày một tăng. Vì vậy, các nước ASEAN phải điều chỉnh mạnh mẽ chính sách đối ngoại của mình. ở bình diện quốc tế ASEAN tăng cường quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, thực hiện chính sách cân bằng, giữa các nước lớn. (thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ, bình thường hoá quan hệ thương mại, thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước ASEAN với Liên Xô và Trung Quốc) các nước. - Trên khu vực ASEAN thực hiện nhiều hành động, cử chỉ thân thiện nhằm tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam (3 - 1973; Philippin Thái Lan rút hết quân đội khỏi Nam Việt nam, Thái Lan hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan hạn chế Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự ở Thái Lan chống lại các nước Đông Dương 7 - 1974; kêu gọi viện trợ kinh tế cho các nước Đông Dương v.v... Sau khi ký hiệp định Pari chúng ta cũng tích cực triển khai chính sách khu vực đẩy mạnh quan hệ song phương với các nước thuộc ASEAN (thiết lập quan hệ ngoại giao với Malaixia và Singapor (1973) tổ chức cho các nước ASEAN thăm viếng Việt Nam, xúc tiến đàm phán lập quan hệ ngoại giao với Philippin). Với chính sách 4 điểm phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các nước Đông Nam á. Bằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Thái Lan (8 - 1976) chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với tất cả các nước thành viên ASEAN. Quan hệ song phương Việt Nam với từng nước ASEAN ngày càng phát triển ở các lĩnh vực. Các bên tiến hành lập sứ quán ở Việt nam và các nước ASEAN. Đây là thời kỳ quan hệ Việt Nam - ASEAN có sự phát triển nhảy vọt tạo nền móng vững chắc cho quan hệ giữa Việt nam với tổ chức ASEAN. (giai đoạn này chúng ta chưa có quan hệ hợp tác với tổ chức ASEAN. b. Giai đoạn 1979 - 1988. + Khi Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng và theo yêu cầu của nhân dân Campuchia đưa quân vào Campuchia quét sạch bè lũ Pôn Pốt. Quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN chuyển sang đối đầu. Chúng ta vẫn kiên định thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình tôn trọng đối với các nước ASEAN vì một Đông Nam á hoà bình và ổn định. (Tích cực giải quyết vấn đề Campuchia trên nguyên tắc hợp tác, tích cực giải quyết mâu thuẫn khu vực; kêu gọi hợp tác đẻ xây dựng Đông Nam á ) Tuy nhiên thiện chí của Việt nam đã bị một số nước ASEAN không ủng hộ. Sau khi tình hình Campuchia có biến chuyển tích cực một số nước như Indonexia và Malaixia đã vượt lên vấn đề Campuchia để đi tới việc thực hiện ZOPFAN. Từ những biến đổi quan trọng đó xu thế đối thoại giữa các nước Đông Nam á được phát triển theo một bước ngoặt mới. c. Giai đoạn 1988 - 1991. - Vấn đề Campuchia được dần tháo gỡ Việt Nam đơn phương rút quân khỏi Campuchia. Quan hệ song phương Việt Nam - các nước ASEAN phát triển chính sách hợp tác khu vực được tăng cường. Các nước ASEAN thể hiện mong muốn hợp tác và thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN. Đây là thời kỳ có tính chất bước đệm, là đà phát triển cho quan hệ Việt Nam - ASEAN bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ hợp tác và phát triển. d. Giai đoạn 1992 - trước khi Việt Nam là thành viên ASEAN. Trước vận hội mới cho phát triển và hợp tác cùng với sự cần thiết về an ninh khu vực cả Việt Nam và các nước ASEAN đã thực hiện đường lối xích lại gần nhau. Quan hệ hợp tác Việt Nam - ASEAN trở thành chính sách quan trọng đối với cả hai phía từ 1992 - tới khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN chúng ta đã tham gia vào rất nhiều hoạt động chung của tổ chức nhằm chuẩn bị cho sự tham gia vào ASEAN. Qua các hội nghị của tổ chức việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được sự đồng tình và nhất trí cao. ASEAN trở thành đối tác quan trọng cho sự phát triển của Việt Nam. 2. Việt Nam trở thành thành viên ASEAN (28 - 7 - 1995). Sau một thời gian dài chuẩn bị. Với thiện chí làm bạn với tất cả vì hoà bình ổn định và phát triển nhằm xây dựng Đông Nam á hoà bình hữu nghị và hợp tác. Ngày 28 - 7 - 1995 tại thủ đô Brunay. Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 28 và ARF lần thứ 2 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN đồng thời Việt Nam cũng tuyên bố gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Việt Nam cũng tiến hành hoà nhập vào các hoạt động chung khác của ASEAN. Việc Việt Nam với thế mạnh về lãnh thổ, dân cư gia nhập ASEAN đã thực sự làm cho ASEAN trở thành tổ chức hợp tác đa văn hoá, chính trị, kinh tế. Tăng cường sự ổn định khu vực, góp phần xây dựng Đông Nam á hoà bình và phồn vinh. II - Quan hệ pháp lý Việt Nam - ASEAN. Mối quan hệ pháp lý được thiết lập giữa các nước trong ASEAN nhằm xác định một hành lang pháp lý cho quan hệ giữa các nước thành viên trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh v.v... Việt Nam với tư cách là thành viên của ASEAN, việc tham gia các mối liên kết pháp lý này là rất cần thiết và tất yếu. Mối quan hệ pháp lý này được thể hiện ở các văn bản hiệp định, hiệp ước và các văn bản khác. Trong đó quy định về quy tắc xử sự giữa các nước trong quan hệ song phương và đa phương với mục tiêu là xây dựng một Đông Nam á như tiêu chí thành lập của tổ chức. 1. Trong lĩnh vực chính trị. Trong lĩnh vực chính trị và an ninh khu vực các nước thành viên ASEAN đã thoả thuận và ký kết, tham gia hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á (Hiệp ước Bali 24 - 2 - 1976) Việt Nam đã tham gia hiệp ước này vào năm 1992 thể hiện cam kết của mình trong việc thực hiện đường lối đối ngoại hoà bình, đảm bảo sự tuân thủ của Việt Nam đối với những mục tiêu của tổ chức ASEAN. Ngoài ra Việt Nam còn thừa nhận các mục đích như: Xây dựng khu vực hoà bình, tự do, trung lập (tuyên bố Kualalămpua 1971) các mục tiêu trong tuyên bố thành lập ASEAN coi đó là mục đích của Việt Nam. Ngoài các văn bản pháp lý có tính chất đa phương Việt Nam còn ký những văn bản song phương đề ra những quy định trong quan hệ giữa Việt Nam và nước thành viên ASEAN. 2. Trong lĩnh vực kinh tế: Để đảm bảo sự công bằng và cùng có lợi trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước, ASEAN đã hình thành một số văn bản mang tính chất điều chỉnh các quan hệ này trên cơ sở hợp tác, không phương hại đến lợi ích của nhau. Mặt khác còn tạo ra khung pháp lý để phát triển mối quan hệ, hợp tác kinh tế, xây dựng các chương trình kinh tế lớn của tổ chức, làm cơ sở pháp lý để điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa hai nước thành viên. Hiện nay, văn bản quy định chương trình kinh tế lớn nhất của ASEAN là thoả thuận về xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) là thành viên đầy đủ của ASEAN Việt Nam đã tham gia AFTA và tuân thủ chặt chẽ, nghiêm túc các chương trình hành động bắt buộc đối với thành viên (VD cắt giảm thuế tiến tới đánh thuế từ 0 à5% các mặt hàng theo danh mục vào năm 2003. Mặc dù chương trình này gây thiệt hại khá lớn cho sản xuất trong nước v.v.... Hiệp định thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA - 1977) đã được Việt Nam tham gia và thực hiện. Chúng ta đã xây dựng chính sách cho hướng tối huệ quốc với các nước ASEAN, nghiêm chỉnh chấp hành mức thuế ưu đãi đối với các sản phẩm thuộc PTA. Việt Nam đã ký kết các hiệp định, hiệp ước và các văn bản khác xác định quyền lợi và trách nhiệm của mình với các nước đối tác (quan hệ song phương) các quy chế pháp lý này tạo nên các quy chế và đường lối thực hiện quan hệ kinh tế hai chiều giữa Việt Nam với từng nước trong khu vực. Có thể kể tới các hiệp định hàng không, hiệp định hợp tác hàng hải (Việt Nam - Malaixia; Việt Nam - Lào - Campuchia - Myanma, v.v...), hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật, công nghệ (Việt Nam - Malaixia; Việt Nam - Philippin), hiệp ước hợp tác du lịch (1978) với philippin; hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư - Singapor... và rất nhiều các văn bản song phương khác. Việc Việt Nam ký kết và thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản có tính pháp lý đó đã làm tăng độ tin cậy của các nước trong khu vực, tạo cơ sở để tiến tới các hoạt động hợp tác trong tương lai. Mặt khác, các quy phạm pháp lý này đảm bảo quyền lợi của Việt Nam cả về chính trị và kinh tế, xu hướng trong tương lai Việt Nam sẽ cùng với các nước khác xây dựng các văn bản pháp lý để điều chỉnh luồng quan hệ còn “khoảng trống” đặc biệt là trong khu vực hợp tác kinh tế. III - Hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN. 1. Hợp tác trong các chương trình kinh tế ASEAN. Trước năm 1986 do quan hệ Việt Nam - ASEAN chưa được khai thông và hoạt động hợp tác kinh tế của Việt Nam chủ yếu với Liên Xô và Đông Âu. Do vậy, quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN là không đáng kể. Sau 1986 trên cơ sở đường lối mở chửa và hội nhập, phát triển hợp tác kinh tế, ASEAN đã trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Thị trường ASEAN đã thay thế vai trò của Liên Xô và Đông Âu trong việc cung cấp các mặt hàng nhập khẩu quan trọng của Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Singapor. Hàng nhập khẩu từ Singapor giúp Việt Nam trong giai đoạn Liên Xô sụp đổ, giảm áp lực về phụ thuộc thị trường của Việt Nam. Mặt khác Singapor đóng vai trò trung gian giúp xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang các thị trường mới. Cho nên chỉ trong 5 năm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng rất lớn. (Ví dụ năm 1986 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với ASEAN chỉ đạt 118 triệu USD chiếm 4% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đến 1993 đã tăng lên 2 tỷ USD gấp 6,5 lần, chiếm 21% tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Năm 1995 ASEAN chiếm 1/3 kim ngạch nhập khẩu và 1/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). Các nước trong khối ASEAN đều dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc trong thương mại. Quan hệ kinh tế Việt Nam ASEAN chủ yếu là thương mại và đầu tư. Đầu tư trực tiếp (FDI) từ ASEAN vào Việt Nam đã tăng lên rất mạnh tới 1996 các nước đã đầu tư vào Việt Nam 306 dự án với tổng vốn đạt 6,9 tỷ USD. Đây là động lực không nhỏ để phát triển nền kinh tế Việt Nam. * Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN (Quan hệ đa phương). + Một trong những mục tiêu quan trọng trong hoạt động của ASEAN là hợp tác kinh tế nhằm phát triển kinh tế, xoá bỏ đói nghèo nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam ngay từ khi chưa là thành viên chính thức của ASEAN cũng đã tham gia hợp tác kinh tế trong các chương trình của ASEAN. Với mục tiêu kinh tế của mình ASEAN đã tăng cường sự hợp tác khu vực nhằm xây dựng mối liên kết kinh tế linh hoạt giữa các nước thành viên Hội nghị thượng đỉnh IV tại Singapor 1992 đã xác định những nội dung hợp tác chủ yếu của ASEAN trong thập kỷ 90 là: - Thiết lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). - Tăng cường đầu tư, liên kết và bổ sung công nghiệp thông qua việc áp dụng các biện pháp và hình thức hợp tác mới. - Củng cố và phát triển hơn nữa sự hợp tác trong các lĩnh vực: thị trường vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho chu chuyển tự do vốn và các nguồn tài chính khác. - Phát triển mạng lưới hạ tầng cơ sở vận tải và thông tin an toàn kể cả hệ thống viễn thông và bưu chính; phát triển hợp tác du lịch và năng lượng. - Thúc đẩy buôn bán các sản phẩm nông nghiệp. - Phát triển hợp tác tiểu vùng giữa các nước ASEAN, giữa ASEAN với quốc tế. - Đẩy mạnh hợp tác giữa các khu vực tư nhân. Việt Nam với tư cách là thành viên ASEAN đã tích cực tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế chung trong ASEAN. + Chương trình hợp tác thương mại. Thúc đẩy tăng cường buôn bán trong nội bộ ASEAN là một mặt rất quan trọng trong hợp tác kinh tế ASEAN. Do vậy, thoả thuận ưu đãi thương mại (Preferentia Trading Arrangements - PTA) được thực hiện từ 1977 nhằm tự do hoá thương mại, thúc đẩy trao đổi buôn bán trong khu vực. Theo thoả thuận này các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan (mức giảm thuế quan MOP cho những sản phẩm PTA là 50% so với mức thuế tối huệ quốc của nước nhập khẩu - sản phẩm ưu đãi PTA là những sản phẩm được sản xuất, khai thác tại ASEAN hoàn toàn hoặc một phần). + Việt Nam - ASEAN trong AFTA. Thoả thuận thiết lập khu mậu dịch tự do AFTA năm 1992 nhằm tăng cường buôn bán giữa các nước ASEAN, góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN, tạo ASEAN có nền sản xuất cạnh tranh hướng ra thị trường thế giới (tháng 9 - 1994 các nước ASEAN quyết định rút thời gian hoàn thành ASEAN từ 2008 xuống 2003. Bruney đề nghị hoàn thành AFTA vào năm 2000). Việt Nam tích cực tham gia vào thực hiện AFTA, tăng cường sản xuất trong nước, sửa đổi chính sách thuế cho phù hợp. Chúng ta được ưu tiên 3 năm so với các nước khác trong quá trình thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (EPT). Tiến hành cải cách thủ tục hải quan, tham gia hệ thống chất lượng quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm để được cấp chứng nhận chất lượng quốc tế ISO, dỡ bỏ dần các hàng rào phi thuế quan v.v... Để thực hiện AFTA được suôn xẻ Việt Nam tham gia thực hiện cùng các nước thành viên các biện pháp hỗ trợ như hợp tác hải quan (thống nhất biểu thuế quan, thống nhất hệ thống giá trị hải quan, lập luồng xanh để thông qua nhanh các hàng hoá thuộc CEPT v.v... - Thống nhất tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá v.v... - Và nhiều biện pháp khác. + Phối hợp lập trường trong các vấn đề thương mại quốc tế - Việt Nam cùng các nước ASEAN hợp tác chặt chẽ để mở rộng tăng cường buôn bán giữa ASEAN và thế giới bên ngoài. Các nước phối hợp chặt chẽ với nhau giữ vững lập trường trong quan hệ với các tổ chức thương mại đa bên và với các nước giầu trên thế giới. ASEAN đề cao các nguyên tắc thương mại, ủng hộ các nước thành viên chương trình kinh tế cuả APEC, WTO v..v. hậu thuẫn để các nước thành viên tham gia hợp tac kinh tế quốc tế. Các nước ASEAN cam kết ủng hộ Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO ..v..v. cùng nhau hợp tác nghiên cứu những vấn đề liên quan tới lập trường của ASEAN trong các vấn đề thương mại quốc tế như: những biện pháp đối phó với chính sách bảo hộ mậu dịch của các quốc gia ngoài ASEAN, chính sách thuế quan, tỷ giá v..v. + Hợp tác phát triển công nghiệp + Việt Nam hợp tác cùng với ASEAN trong các chương trình công nghiệp. Đặc biệt là chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). AICO là chương trình công nghiệp nhằm thay thế cho 2 chương trình công nghiệp đã bị lỗi thời là: Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) và chương trình liên kết sản xuất chung nhãn mác (BBC). Hai chương trình này có mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ASEAN, hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực vào công nghiệp(AIJV), khuyến khích các công ty tư nhân ASEAN hợp tác sản xuất và trao đổi các linh kiện ô tô, qua đó thúc đẩy chuyên môn hoá trong việc sản xuất các sản phẩm này (BBC). AICO có mục đích tương tự như BBC và AIJV hơn nữa AICO còn tạo điều kiện cho các công ty nhỏ và vừa có thể tham gia. Các sản phẩm AICO căn cứ vạo tính hoàn chỉnh hoặc nguồn gốc nguyên liệu để tạo ra sản phẩm sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 0-5% và các khuyến khích phi thuế quan do từng nước quy định. Tổ chức này mang tính phối hợp sản xuất giữa các công ty của ASEAN. (AICO không phải là doanh nghiệp mới và phải có ít nhất 2 công ty của 2 nước ASEAN cùng hợp tác). Đây là một chương trình hợp tác mà Việt Nam rất quan tâm. AICO góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước, nâng cao chất lượng hàng hoá, tìm hiểu và áp dụng những công nghệ mới, sản xuất được sản phẩm mới. Khi hợp tác công nghệ theo chương trình này tại Việt Nam các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng các điều kiện miễn trừ. (Quy định chung của AICO là: các công ty muốn tham gia một tổ chức AICO phải được thành lập, đang hoạt động ở bất kỳ một nước nào; có tối thiểu 30% cổ phần quốc gia; có thực hiện các hoạt động cung cấp nguồn lực cho nhau, hoạt động công nghiệp phụ trợ và hoat động hợp tác công nghiệp. Trong trường hợp không đủ 30% cổ phần quốc gia nhưng đáp ứng được các điều kiện miễn trừ tiêu chuẩn cho nước sở tại tham gia AICO quy định vẫn có thể được phép tham gia. Các điều kiện miễn trừ do Việt Nam gồm: - Các công ty xin tham gia phải sản xuất sản phẩm mới có sử dụng thiết kế, cách thức, phương pháp, quy trình, hệ thống chưa có ở Việt Nam. - Cam kết xuất khẩu sản phẩm AICO của công ty xin tham gia phải từ 50% trở lên. - Hàm lượng nội địa hoá sản phẩm AICO phải trên 50% trước năm 2000. -Công ty xin tham gia phải có ít nhất 40% cổ phần cộng gộp của ASEAN - Có sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đơn xin tham gia tổ chức AICO tại Việt Nam phải gửi tới Bộ Công nghiệp theo mẫu . + Hợp tác năng lượng khoáng sản Việt Nam - ASEAN Nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế cuả các nước thành viên, trong khuôn khổ hợp tác ASEAN về năng lượng và khoáng sản. Tiến hành các hoạt động trao đổi thông tin thành lập cơ sở dữ liệu khoáng sản, kế hoạch sử dụng nhiên liệu. Ký kết hợp tác quản lý nguồn dầu mỏ ở các khu vực còn tranh chấp ( Ví dụ: Hợp đồng Việt Nam - Malaixia về thăm dò dầu khí trong khu vực biển Đông, tại vùng mà 2 nước đều cho là thuộc chủ quyền của mình. Hai bên đồng ý chia đều lợi tức). Hợp tác xây dựng một kế hoạch tổng thể về khai thác và sử dụng khí tự nhiên đang được triển khai + Hợp tác kinh tế Việt Nam- ASEAN trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân hàng - Trong hợp tác kinh tế tài chính, tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Việt Nam bằng hành động của mình cùng ASEAN hợp tác cải cách hệ thống ngân hàng, sửa đổi chính sách thuế cho phù hợp, hợp tác giải quyết hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á . Theo hướng đó bằng kinh nghiệm của mình cùng các nước thành viên khác xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô, củng cố hệ thống tài chính và thị trường vốn, tăng cường quy chế giám sát các dòng vốn ngắn hạn, giảm thiểu tác động của khủng hoảng thoả thuận áp dụng đồng tiền của các nước ASEAN trong thanh toán thương mại tay đôi và các chính sách khác. + Hợp tác đầu tư Việt Nam - ASEAN - Xây dựng một thị trường ASEAN mang tính cạnh tranh cao với các khu vực khác để thu hút đầu tư nước ngoài là mảng hoạt động quan trọng của các thành viên ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Để được mục tiêu thu hút đầu tư phục vụ cho việc duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực Việt Nam góp phần cùng với các thành viên khác xây dựng chính sách hợp tác khu vực trong lĩnh vực thị trường vốn, khuyến khích đầu tư từ bên ngoài vào, đề ra và thực hiện kế hoạch hành động ASEAN thúc đẩy đầu tư nước ngoài và đầu tư nội bộ ASEAN v..v ..và nhiều hoạt động khác. + Hợp tác Việt Nam - ASEAN về nông- lâm - ngư nghiệp và lương thực - Việt Nam tham gia hội nghị Bộ trưởng nông nghiệp ASEAN (AMAF) hàng năm để xây dựng kế hoạch chiến lược nhằm thúc đẩy nông - lâm - ngư nghiệp của mỗi nước và khu vực. Hiện nay để thực hiện chương trình hợp tác giai đoạn 1999- 2004 kế hoạch hành động chung được các nước xây dựng bao gồm các chương trình về an ninh lương thực, nâng cao tính cạnh tranh quốc tế của nông sản ASEAN, thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân, đảm quản lý rừng và phát triển thương mại hợp lý sản phẩm rừng, hợp tác nghiên cứu về nuôi trồng thuỷ sản và nhiều hoạt động chung khác. + Hợp tác Việt Nam - ASEAN về vận tải - giao thông - thông tin liên lạc - về giao thông Việt Nam hợp tác cùng ASEAN để xây dựng mạng lưới giao thông khu vực, nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở đường xá, trang thiết bị. Nghiên cứu về luật lệ giao thông các quốc gia hữu quan để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và vận tải giữa các nước trong khu vực, hợp tác đào tạo nhân lực cho ngành giao thông, hợp tác để học hỏi lẫn nhau việc quy hoạch hệ thống giao thông mỗi nước (VD: Việt nam hợp tác với Singapor để xây dựng quy hoạch đường xá Hà Nội); cùng nhau thoả thuận phát triển giao thông liên khu vực nhằm xây dựng một mạng giao thông thông suốt của ASEAN (Việt Nam - Lào - Thái Lan - Campuchia đang hợp tác xây dựng tuyến đường nối liền 4 nước). Trên cơ sở hoạt động hợp tác này sẽ góp phần không nhỏ, củng cố, nâng cao giao lưu kinh tế giữa các nước, tổng khả năng trao đổi hàng hoá, phát triển du lịch trong khu vực. - Về thông tin liên lạc: Việt Nam tham gia vào xây dựng hệ thống cáp quang ngầm giữa các nước ASEAN vào quốc tế. Công tác trong chương trình vệ tinh của ASEAN, cùng các nước khác thực hiện hợp tác về dịch vụ bưu điện, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành. + Ngoài các lĩnh vực hợp tác trên Việt Nam còn đẩy mạnh hoạt động hợp tác với ASEAN trong hoạt động dịch vụ, du lịch, bảo hộ sở hữu trí tuệ và các lĩnh vực khác. * Quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Bruney. Trước 1992 quan hệ kinh tế Việt Nam - Bruney chưa có gì đáng kể. Sau chuyến thăm Bruney của thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 1992 và ngày 28 - 7 - 1995 tại thủ đô Bruney Việt Nam được kết nạp vào ASEAN. Cùng với những sự kiện đó quan hệ kinh tế Việt Nam, Bruney đã có những bước phát triển mới. Là một quốc gia có trữ lượng dầu hoả lớn, công nghệ dầu khí tiên tiến Bruney đã đầu tư trực tiếp (FDI) vào ngành dầu khí của Việt Nam với khối lượng lớn (có hơn 20 dự án đầu tư vào lĩnh vực dầu khí và hạ tầng ở Việt Nam của Bruney đã được cấp giấy phép ... Bruney là quốc gia phụ thuộc vào sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu. Do vậy, thị trường này hứa hẹn những kết quả thương mại đầy hấp dẫn đối với nền nông nghiệp nước ta. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Indonexia: Quan hệ thương mại giữa hai nước đã có sự gia tăng đáng kể, Indonexia với sức mạnh kinh tế sau nhiều năm mở cửa đã trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng từ 70 triệu USD/1990 lên 220 triệu USD/1993; 250 triệu USD/1994 và khoảng 400 triệu USD và trở thành bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam trong ASEAN sau Singapor. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và Indonexia luôn nghiêng về phía Indonexia. Tuy nhiên số thặng dư thương mại này đang có xu hướng giảm dần từ 133,5 triệu USD năm 1993 xuống còn 100 triệu USD/1995. Mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Indonexia vào Việt Nam là phân bón và hoá chất (chiếm tới 34% tổng số hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Indonexia). Bột giấy, xe gắn máy, đồ hộp của Indonexia cũng chiếm thị phần lớn tại Việt Nam. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta sang Indonexia chủ yếu là nông sản. Quan hệ ngoại thương của Việt Nam với Indonexia giúp Việt Nam phát triển các sản phẩm của mình (chủ yếu là nông sản) sang các thị trường khác. Các Công ty của Indonexia đóng vai trò cầu nối giữa Việt Nam với quốc tế. (VD Công ty Prima Conmexindo mua gạo, tỏi, đậu, cà phê, chè của Việt Nam sau đó bán sang Châu Âu, Trung Đông, Pakistan v.v...). Về đầu tư, các nhà đầu tư Indonexia vào Việt Nam khá sớm (từ năm 1990 họ đã nhận được giấy phép để tiến hành kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng như: ngân hàng, bay dịch vụ cho dầu khí. Hiện nay Indonexia đứng thứ 18 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam với 13 dự án tổng số vốn đầu tư lên tới 284,37 triệu USD, chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực như khách sạn, mì chính, sợi, gỗ vận tải thuỷ và thuốc lá. Trong thực tế với tiềm năng kinh tế của mình so với 2 nước đầu tư lớn vào Việt Nam là Thái Lan và Malaixia thì Indonexia không hề thua kém nhưng việc đầu tư vào Việt Nam lại chưa có. Tuy nhiên đầu tư của Indonexia vào Việt Nam là khá an toàn (tỉ lệ đổ bể chỉ 8% so với 25% của Thái Lan). Triển vọng đầu tư của Indonexia vào Việt Nam còn rất lớn, đây là cơ hội để phát triển nền kinh tế Việt Nam. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Philippin. 12/7/1976 Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với philippin mở ra một thời kỳ mới cho quan hệ hai nước: Từ đối đầu sang hợp tác kinh tế cùng có lợi. Sau các cuộc thăm viếng của lãnh đạo hai nước và sự kiện Việt Nam trở thành thành viên ASEAN 7/1997 đã tạo đà phát triển cho quan hệ hai nước về nhiều mặt đặc biệt là quan hệ hợp tác kinh tế, hai bên thoả thuận tăng cường quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học - kỹ thuật. Philippin khẳng định mong muốn quan hệ với Việt Nam ở nhiều mặt cả song phương và trong khuôn khổ ASEAN. Phillippin cam kết giúp đỡ Việt Nam về kinh nghiệm hoạt động kinh tế, đào tạo cán bộ, chế biến sản phẩm dừa v.v... và mong muốn học tập từ Việt Nam những kinh nghiệm trong những vấn đề kinh tế mà chúng ta đã đạt được hàng loạt các văn bản về hợp tác kinh tế đã được các bên ký kết như: Hiệp ước phát triển và bảo hộ đầu tư, nghị định thư thương mại xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ (1994); Hiệp ước thành lập uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế (JCEC) và uỷ ban hỗn hợp về thương mại (JCT 1992) v.v... đã góp phần không nhỏ củng cố thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa hai nước. Xuất phát từ những hợp tác kinh tế và tầm quan trọng của hoạt động này đối với cả hai phía, quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước ngày càng phát triển. Tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng từ 42,3 triệu USD/1992 lên gần 140 triệu USD/1995. Tính đến hết tháng 5/1996 theo tổng kết của Bộ kế hoạch đầu tư Việt Nam, Philippin có 12 dự án có hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 178,86 triệu USD. Việt Nam xuất khẩu sang Philippin các sản phẩm nông nghiệp than, cao su và nhập khẩu các hàng hoá phục vụ nông nghiệp, vật liệu xây dựng, dược liệu y tế. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Singapor Quan hệ đối thoại Việt Nam - Singapor luôn được duy trì cả trong những thời điểm hai bên có những bất đồng về chính trị các bên đã ký nhiều văn bản hiệp định về kinh tế làm cơ sở cho quan hệ hợp tác kinh tế (hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định hợp tác du lịch), Singapor gần đây mở rộng thương mại với Việt Nam, là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam tại ASEAN. Mục tiêu của Singapor là giúp Việt nam thực hiện chính sách kinh tế thị trường để tăng sự thịnh vượng của ASEAN. Kim ngạch hai chiều xuất nhập khẩu mỗi năm khoảng hơn 1 tỷ USD (Singapor là bạn hàng lớn thứ hai sau Nhật Bản của Việt Nam). Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapor chủ yếu là nông sản, thuỷ sản, quần áo may sẵn v.v... và nhập khẩu về Việt Nam, xăng dầu, hoá chất, hàng điện máy v.v... Cơ cấu này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm tòi để xác định nhu cầu của thị trường Singapor nhằm xuất khẩu các mặt hàng có giá trị kinh tế cao, tăng kim ngạch xuất khẩu. Singapor hiện nay đang đứng thứ tư trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu trong các lĩnh vực khách sạn - văn phòng - nhà ở cho thuế với 33 dự án tổng vốn 965 triệu USD; công nghiệp và xây dựng 58 dự án với số vốn 757 triệu USD. Số còn lại là các dự án giao thông, thuỷ sản, nông nghiệp, tài chính v.v.... Hiện nay có 120 dự án của Singapor đang hoạt động và triển khai hoạt động với số vốn 1,876 tỷ USD trong đó vốn pháp định là 725 triệu USD. Ba trọng điểm đầu tư của Singapor là thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội và Sông Bé. Trong tương lai Singapor vẫn là bạn hàng quan trọng của Việt nam việc tăng cường hợp tác kinh tế với Singapor là rất cần thiết và phải thực hiện không gián đoạn. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Malaixia. Malaixia là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam tại ASEAN sau Singapor. Là nước có quan hệ ngoại giao sớm nhất ASEAN với Việt Nam (30/3/1973). Sau 1986 quan hệ kinh tế Việt Nam - Malaixia mới có sự khởi sắc sau khi giải quyết những vướng mắc về vấn đề người tị nạn Việt Nam ở Malaixia và một số vấn đè khác. Với xu thế này kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Malaixia tăng bình quân 20% năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước năm 1991 là 87 triệu USD, 1992 tăng lên 134 triệu USD năm 1995 vọt lên 350 triệu USD (so với 273 triệu USD năm 1994). Cán cân thương mại giữa hai nước có sự biến chuyển năm 1992 nghiêng về Việt nam, từ 1993 trở lại đây thì theo chiều hướng ngược lại. Việt Nam xuất sang Malaixia chủ yếu là nông sản, gồm sứ, đồ gỗ v.v... Đặc biệt Malaixia và Việt nam thoả thuận việc cung cấp ổn định và đều đặn gạo của Việt Nam cho Malaixia. Việt Nam nhập từ Malaixia hàng điện tử, dầu thực vật, hoá chất chất dẻo, vật liệu xây dựng, cacao và hàng tiêu dùng khác. Việc đầu tư của Malaixia năm 1990 bằng một dự án có số vốn 0,1 triệu USD cho đến tháng 5/1996 Malaixia đã vươn lên hàng thứ 7 những nước đầu tư vào Việt Nam với 47 dự án, 94.849.254 USD chủ yếu trong các lĩnh vực Việt Nam mong muốn (công nghiệp nhẹ gần 44% số dự án, 69% vốn đầu tư công nghiệp năng, 7 dự án, 31 triệu USD, đầu tư xây dựng khu chế xuất, nhà máy lọc dầu, nước sạch v.v... Hầu hết các dự án của Malaixia là dưới hình thức 100% vốn của Malaixia hay liên doanh với Việt nam đều triển khai đúng tiến độ, có hiệu quả, nhiều dự án đã đi vào hoạt động. Có thể nói quan hệ kinh tế Việt Nam - Malaixia tuy mới bắt đầu nhưng đầy triển vọng phát triển khả năng mở rộng hợp tác trên những lĩnh vực kinh tế mới đang trong tầm tay và đầy tính khả thi. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Thái Lan. Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 quan hệ kinh tế Việt Nam Thái Lan mới thực sự bắt đầu (sau 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, cả hai nước gặp nhiều vấn đề chung không thể tháo gỡ ngay dẫn đến hậu quả kìm hãm hoạt động hợp tác kinh tế). Thái Lan đứng thứ 3 trong ASEAN về đầu tư trực tiếp vào Việt nam với 64 dự án, tổng vốn đầu tư 410,3 triệu USD. Gần đây Thái Lan có một dự án đầu tư của tập đoàn SAS xây dựng khu đô thị Vân Trì - Hà Nội rộng 300 ha dự kiến đầu tư ước khoảng 1 tỷ USD. Thái Lan chủ yếu đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ, tham gia đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ kinh doanh. Các doanh nghiệp Thái Lan vào Việt Nam tuy chịu tỷ lệ thất bại khá cao (25%) nhưng đã gặt hái được thành công (VD Công ty CP Vietnam Livestock Breeding đã kinh doanh có lãi với tổng thu đạt 461 tỷ đồng - là Công ty Thái Lan làm ăn tốt nhất ở Việt Nam năm 1999). Quan hệ thương mại 2 chiều tăng lên nhanh chóng từ 70 triệu USD năm 1990 lên 500 triệu USD năm 1995. Hàng hoá của Việt Nam xuất sang Thái Lan chủ yếu là nguyên liệu thô chưa chế biến trong khi đó lại nhập về chủ yếu là hàng gia dụng gây khó khăn không ít cho sản xuất trong nước. Quy mô buôn bán có tăng nhưng tỷ lệ tốc độ nhập khẩu của Việt Nam sang Thái Lan. Như vậy tình trạng nhập siêu đối với Việt Nam trong thương mại với Thái Lan vẫn bị duy trì, khó điều chỉnh cán cân thương mại. Mặt khác hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Thái Lan chỉ chiếm 1,5% - 2,5% tổng khối lượng xuất khẩu của Việt nam (con số này của Thái Lan chỉ ở mức 1%). Điều này chứng tỏ sự liên kết kinh tế của hai nước và mức độ thị trường phụ thuộc lẫn nhau còn lỏng lẻo. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, đề ra giải pháp giải quyết cả Việt nam và Thái Lan cần tích cực cải cách nâng cao tầm quan trọng của hai nền kinh tế, thúc đẩy mậu dịch và đầu tư giữa hai bên cũng như của Việt Nam với các nước ASEAN khác. + Quan hệ kinh tế Việt Nam - Lào - Myanma Quan hệ giữa Việt Nam - Lào đã có từ lâu đời, việc hợp tác kinh tế giữa hai nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, giá trị thương mại còn chưa đáng kể. Buôn bán hai chiều chủ yếu ở con đường tiểu ngạch. Năm 1998 thực hiện chính sách hàng, đổi hàng với Lào. Mặt hàng xuất sang Lào chủ yếu là thép, xi măng v.v... và nhập về Việt nam xe gắn máy. Việt Nam thực hiện nhiều dự án về điện, đường giao thông cho Lào. Với tư cách là một đồng minh quan trọng của Việt Nam thực hiện nhiều dự án về điện, đường giao thông cho Lào. Với tư cách là một đồng minh quan trọng của Việt Nam, Lào đang dần được coi là một bạn hàng quan trọng trong chính sách kinh tế của Việt Nam. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Myanma: Mặc dù đã có quan hệ ngoại giao nhưng việc hợp tác kinh tế giữa hai nước hầu như chưa có gì. Myanma là một nước nghèo, kinh tế kém phát triển, chưa có những mặt hàng có uy tín tại thị trường Việt Nam. Các thương gia, doanh nghiệp cả hai nước đều ít chú trọng tới việc hợp tác kinh doanh. Gần đây Việt Nam đã ký với Lào và Myanma , Campuchia thoả thuận về hợp tác hàng không nhằm nâng tính cạnh tranh của ngành hàng không 4 nước, mở ra triển vọng mới trong quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực. 2. Điểm thuận lợi và những khó khăn của Việt Nam trong hoạt động hợp tác kinh tế với ASEAN. a. Thuận lợi: Tham gia hợp tác kinh tế với các nước ASEAN tạo cho Việt Nam nhiều thuận lợi và cơ hội phát triển kinh tế. Hợp tác kinh tế với ASEAn giúp Việt Nam dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào một số thị trường lớn như Nhật Bản, Nga, EU, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu cho Việt Nam và tạo thêm nhiều mối quan hệ mới, bạn hàng mới. Bằng các chính sách hợp tác Việt Nam có thể xuất nhập khẩu hàng hoá một cách thuận tiện sang các nước ASEAN với một thị trường lớn hơn 400 triệu dân. Tham gia các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN, Việt Nam thông qua các tổ chức kinh tế, ASEAN có tiếng nói quan trọng hơn khi đàm phán với các khối thương mại trên thế giới. Do quan hệ với các nước có nền kinh tế tương đối phát triển Việt Nam có thể học hỏi từ các nước ASEAN cách thưcs tự điều chỉnh và phát triển các hệ thống sản xuất để hoạt động trong thương trường tự do toàn cầu, thúc đẩy sự thống nhất giữa Việt nam và các nước ASEAN khác, tạo điều kiện để người dân có thể lựa chọn được các hàng hoá phù hợp do việc giảm thuế nhập khẩu làm cho hàng nhập khẩu rẻ hơn. Hiện nay Việt Nam có những lợi thế trong hợp tác với các nước ASEAN như: Chúng ta đang bước vào thời kỳ có nhiều nhân tố của sự phát triển nhanh, có một nền nông nghiệp và tài nguyên tiềm tàng, nhân công dồi dào, và tương đối có kỹ thuật v.v... tạo Việt Nam nhiều thuận lợi. Việt Nam có điều kiện để thu hút vốn đầu tư từ các nước nhiều vốn và đang có sự dịch chuyển cơ cấu mạnh sang các ngành có kỹ thuật cao, sử dụng ít công nhân trong khu vực như: Singapor, Malaixia, Thái Lan... Việt Nam thực hiện công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại cho nên dễ dàng tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước ASEAN cần chuyển giao, có thể lợi dụng vốn của các nước ASEAN để phát triển cơ sở hạ tầng. Việc tham gia hợp tác kinh tế trong các tổ chức kinh tế, liên minh thuế quan của ASEAN tạo cho Việt Nam được hưởng quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của Mỹ nâng cao được tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. b. Khó khăn. Ngoài những thuận lợi và cơ hội trong quan hệ kinh tế với ASEAN Việt Nam còn phải gánh chịu những khó khăn gặp phải do hoạt động mở rộng hợp tác kinh tế. Do mới chuyển sang nền kinh tế thị trường nên bộ máy quản lý của ta còn mang nặng tính quan liêu chưa cập nhâtj hoá các kiến thức quản lý tiên tiến, tạo khó khăn cho Việt Nam thực hiện các chương trình kinh tế chung của ASEAN (VD tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam chưa cao, tính sẵn sàng thực hiện chương trình này còn bị hạn chế do cơ chế quản lý). Trình độ kỹ thuật còn hạn chế, lạc hậu gây mất sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước ASEAN, biến Việt nam thành thị trường tiêu thụ của các nước này, làm cho nhiều doanh nghiệp trong nước điêu đứng, thất nghiệp gia tăng. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và cơ cấu nền kinh tế giữa các nước ASEAN gây ra sự cạnh tranh trong khu vực về thu hút vốn đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ. Mặt khác do mới bước vào nền kinh tế thị trường nên trình độ quản lý và kinh doanh của cán bộ và doanh nhân Việt nam chưa đáp ứng được với nhu cầu hợp tác với các đối tác kinh tế ở các nước ASEAN. Xét về mặt thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường cạnh tranh cho thấy rằng phần lớn các doanh nghiệp còn non trẻ, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm về bề dày kinh nghiệm ,kinh doanh rộng thiếu chuyên ngành và chưa có thị trường ổn định làm ăn kiểu thời vụ, chụp giật, ít chú trọng xây dựng quan hệ tín nhiệm với khách hàng, thiếu hiểu biết về thị trường v..v..đã gây không ít khó khăn cho nên kinh tế nước ta trong quan hệ với các nước ASEAN. Thủ tục trong quản lý kinh tế của ta còn chồng chéo, chậm chạp, phức tạp gây ảnh hưởng hoạt động của chính các doanh nghiệp trong nước khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh .. Các khó khăn gặp phải này sẽ gây nguy hại không nhỏ khi chúng ta phải mở cửa thị trường Việt Nam cho các nước ASEAN khi thực hiện hoạt động hợp tác. Việc cần thiết hơn lúc nào hết phải ra sức chấn chỉnh và xây dựng một cơ chế kinh tế năng động nhưng chặt chẽ, đào tạo nâng cao tri thức cho những người làm kinh tế đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới. IV. Triển vọng hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN Xét trên mọi phương diện quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN có nhiều triển vọng để phát triển hơn nữa.Mặc dù có nhiều khó khăn khách quan tới các chính sách kinh tế và nhu cầu của mỗi nước khác nhau làm cho quan hệ kinh tế giữa 2 bên chưa phản ánh đúng tiềm năng nhưng có nhiều điểm thuận lợi để kích thích phát triển quan hệ này. Hiện tại với việc Việt Nam tham gia AFTA cả 2 bên đều có điều kiện hơn nữa để thúc đẩy buôn bán theo những quy định về giảm thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Các quan hệ chính trị và những mối quan hệ khác được tăng cường trong những năm gần đây sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy thương mại giữa 2 bên. Cả ASEAN và Việt Nam đều là những thị trường có tiềm năng và phát triển nhanh, tuy có cơ cấu xuất khẩu với nhiều mặt hàng trùng nhau như nông sản, sản phẩm lâm nghiệp v..v.nhưng cả Việt Nam và các nước ASEAN có điều kiện bổ xung và hỗ trợ nhau ở một số mặt hàng như hoá dầu, sản xuất và xuất khẩu gạo, cao su ..v..v. Với một thị trường gần 80 triệu dân, trình độ dân trí khá cao nhà doanh nghiệp ASEAN vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Thị trường Việt Nam nằm ở vị trí địa lý thuận lợi nhân công rẻ, tiết kiệm chi phí sản xuất so với giúp các nhà đầu tư nhanh chóng thu hồi vốn và có lãi. Quy mô các ngành sản xuất trong một số lĩnh vực ở mức vừa và nhỏ, sử dụng nhiều nhân công phù hợp với các công nghệ hạng trung chuyển từ các nước ASEAN vào Việt Nam. Đây là những nguyên nhân làm tăng khối lượng đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam trong thời gian tới. Với các chính sách ưu tiên đầu tư vào Việt Nam, cộng với sự chần chừ, chậm chân khi tham gia vào thị trường Việt Nam của Nhật và Mỹ sẽ củng cố, tăng cường vai trò của các nước ASEAN trên thị trường Việt Nam. Tuy vậy trong tương lai không xa tuy số lượng tuyệt đối đầu tư vẫn tăng nhưng tỷ trọng đầu tư cuả các nước ASEAN vào Việt Nam so với các nước khác sẽ giảm xuống do các lý do khác nhau. (Các nhà đầu tư ASEAN sẽ gặp những đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn hơn họ rất nhiều như Nhật, Mỹ, EC v..v.ở thị trường Việt Nam do những nước này hoạt động ngày càng mở rộng, quan tâm tới hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Các nhà đầu tư ngoài ASEAN này với sức mạnh kinh tế khổng lồ sẽ dành lấy những thuận lợi của cấc nhà đầu tư ASEAN tăng những khoản lợi nhuận đầy thiết phục và bằng cả chính công nghệ tiên tiến mà họ đưa vào Việt Nam. Một nguyên nhân khác làm giảm đầu tư của ASEAN vào Việt Nam là do các doanh nghiệp của các nước ASEAN nhỏ, vốn ít, công nghệ chủ yếu ở hạng trung không thể cạnh tranh với các nước phát triển nên việc quy mô và khả năng lựa chọn dự án đâù tư vào Việt Nam bị hạn chế. Trong tương lai cần đặt hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN vào trào lưu hợp tác kinh tế trong khu vực Đông Nam á trong dòng vận động kinh tế châu á-Thái Bình Dương và thế giới. Để từ đó thúc đẩy hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam. V. Kết luận : Trong bối cảnh hợp tác quốc tế theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày càng phát triển. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á- ASEAN trở thành một tổ chức đoàn kết các quốc gia dân tộc trong khu vực với mục đích xây dựng hoà bình, ổn định an ninh và phát triển kinh tế của các nước thành viên. mục tiêu này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của nhăn dăn các nước yêu chuộng hoà bình. Bằng các chương trình hành động của mình đặt biệt là trong lĩnh vực kinh tế ASEAN đóng vai trò quan trọng đối với so thịnh vượng của các quốc gia trong tổ chức, sự phát triển của khu vực châu á, Thái bình dương. Việt nam trên con đường đổi mới đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hợp tác kinh tế khu vực, coi đây là định hướng và là chính sách quan trọng để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nên kinh tế quốc dân vững mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong quan hệ hợp tác kinh tế Việt nam với ASEAN Việt nam cần quan tâm phát huy tối đa sức mạnh của mình khai thác phát triệt để, những cơ hội có được từ quá trình hợp tác này trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối đã của Việt nam, nghiên cứu học hỏi những tiến bộ về kinh tế của các nước ASEAN hạn chế và khắc phục những nhược điểm của nền kinh tế Việt nam, hợp tác kinh tế trên cơ sở bình đẳng, bảo vệ chủ quyền của quốc gia. Để thực hiện được những mục tiêu đó, Việt nam cần tăng cương quan hệ song phương và đa phương với ASEAN, tham gia các chương trình hợp tác kinh tế của tổ chức một cách linh hoạt kết hợp thực hiện các tiến trình chung với cải cách cơ chế kinh tế trong nước, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, kích thích phát triển các ngành có lợi thế so sáng, dần dần làm thăng bằng cán cân thương mại giữa Việt nam và các nước ASEAN. Tiến hành hợp tác cùng các nước thành viên ASEAN xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế vùng kiến thiết hoàn thiện dần cơ sở pháp lý để điều chinhr các hoạt động hợp tác này cho phù hợp đảm bảo quyền lợi của các bên. Mặt khác việt nam trong phạm vi khả năng kinh tế của mình cần giúp đỡ và hỗ trợ các nước anh em cùng phát triển, củng cố và nâng cao vai trò của ASEAN trên diễn đàn kinh tế thế giới. Hoạt động kinh tế đối ngoại lấy ASEAN là trong một những trọng tâm lớn đã thể hiện đường lối kinh tế đúng đắn, chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác, muốn làm bạn với tất cả trên cơ sở cùng có lợi của Đảng và Nhà nước. Việt Nam thông qua vai trò của mình trong ASEAN ngày càng có điều kiện tham gia vào các khối mậu dịch lớn hơn như WTO hoặc khu vực mậu dịch tự do châu á đang được xây dựng v.v.. qua đó nâng cao vai trò của Việt nam trong nền kinh tế thế giới và tạo đà phát triển cho kinh tế Việt nam trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0150.doc
Tài liệu liên quan