Đề tài Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam của các tập đoàn bán lẻ quốc tế và một số tác động của nó đối với doanh nghiệp trong nước

Hiện nay bộ Thương Mại có kế hoạch lựa chọn để tập trung hỗ trợ, hình thành 15-20 nhà phân phối lớn, tạo ra một hệ thống phân phối mạnh làm nòng cốt cho việc bình ổn thị trường, tăng cường năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập và mở cửa về lĩnh vực phân phối.

doc16 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam của các tập đoàn bán lẻ quốc tế và một số tác động của nó đối với doanh nghiệp trong nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu đã và đang diễn ra trên thế giới hiện nay và Việt Nam chúng ta cũng nằm trong xu thế đó. Việc gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN( AFTA) và sắp tới đây là tổ chức thương mại thế giới WTO đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường. Đến thời điểm này, theo phân tích của các nhà kinh tế, thị trường bán lẻ Việt Nam đã hội đủ những yếu tố cần thiết để trở thành một thị trường hấp dẫn. Và có một điều chắc chắn rằng, các tập đoàn phân phối quốc tế không bỏ qua cơ hội đầu tư này. Vậy khi các tập đoàn này vào Việt Nam, thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ diễn biến ra sao?, các doanh nghiệp trong nước sẽ bị ảnh hưởng như thế nào? Và hướng đi nào cho các doanh nghiệp để có thể trụ vững và phát triển trên thị trường, tránh được nguy cơ “thua ngay trên sân nhà”?. Em đã rất băn khoăn về vấn đề này nên quyết định chọn đề tài “Việt Nam gia nhập WTO - Cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam của các tập đoàn bán lẻ quốc tế và một số tác động của nó đối với doanh nghiệp trong nước”. Bài viết này được chia ra làm 3 phần: Phần1: Cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài Phần 2: Những khó khăn thách thức và hướng giải quyết của các doanh nghiệp Việt Nam Phần 3: Một số nhận xét rút ra từ việc nghiên cứu đề tài Qua việc nghiên cứu đề tài này, em càng hiểu rõ hơn về những tác động của tự do hoá thương mại đến nền kinh tế các quốc gia. Em cũng hiểu được nhiều về thị trường bán lẻ Việt Nam, về những khó khăn thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt cùng những bước đi của họ để chuẩn bị cho một cuộc canh tranh được dự báo là khốc liệt sẽ diễn ra trên thị trường Việt Nam. Em xin cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Hường, trưởng bộ môn Kinh Doanh Quốc Tế, TS. Đàm Quang Vinh, giáo viên bộ môn, đã trực tiếp hướng dẫn em nghiên cứu đề tài này. Bài viết này chắc chắn có nhiều sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô. Em xin cảm ơn! Sinh viên Phan Thị Thanh Tâm Phần1: Cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài 1.1Tiềm năng phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam Việt Nam là một thị trường tương đối rộng lớn với hơn 82 triệu dân, một nửa trong đó ở độ tuổi dưới 30 và có sở thích hàng đầu là mua sắm có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối lớn, khoảng 8%/năm. Bên cạnh đó, tổng tiêu dùng qua các năm của Việt Nam liên tục tăng trong những năm qua( trung bình 5 năm qua đạt khoảng 16,86%/năm ) và riêng trong năm 2005 doanh thu ngành bán lẻ lên đến 21 tỉ USD, ước tính năm 2006 sẽ tăng khoảng 23%. Thêm nữa, tỉ lệ giữa hệ thống phân phối hiện đại với hệ thống phân phối truyền thống ở Việt Nam là 1:9 (trong khi một thị trường lân cận như Thái Lan, tỉ lệ này là 6:4). Những con số này cho thấy tiềm năng rất lớn của thị trường bán lẻ Việt Nam, đã làm cho thị trường Việt Nam trở thành miền đất hứa cho các tập đoàn bán lẻ trên thế giới. Theo kết quả khảo sát mới nhất của tập đoàn tư vấn hàng đầu thế giới AT Kearney đã đánh giá chỉ số phát triển bán lẻ chung GRDI( Global Retail Development Index ) của Việt Nam đạt 84 điểm, vươn lên đứng hàng thứ 3 thế giới. Thông tin này càng cho thấy sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Nó khiến cho các tập đoàn bán lẻ lớn thế giới đã có ý định xâm nhập hệ thống phân phối của Việt Nam càng nhanh chân xúc tiến hoạt động đầu tư của mình. Một điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài đó là cùng với việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện các cam kết của mình trong đó có cam kết mở cửa thị trường bán lẻ. Theo các nhà phân tích, một động lực nữa cho các nhà bán lẻ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đó là vị trí của Việt Nam, là cửa ngõ dẫn tới một số thị trường lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, Lào… Những tập đoàn phân phối hàng đầu thế giới sẽ sớm vào Việt Nam, hứa hẹn sẽ diễn ra một cuộc cạnh tranh “nảy lửa” với các doanh nghiệp đang lớn dần lên của Việt Nam trên thị trường bán lẻ. 1.2 Hoạt động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam của các tập đoàn phân phối nước ngoài Không phải đến bây giờ các tập đoàn bán lẻ nước ngoài mới có ý định đầu tư vào Việt Nam mà những cái tên như Metro( Metro Cash&Carry ), Big C( Bourborn Group),Medicare, Lotteria,… đã rất quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam. Đến nay, BigC đã mở được 3 siêu thị, Metro 6 siêu thị, 15 cửa hàng thức ăn nhanh hiệu Lotteria, 4 cửa hàng Medicare chuyên các sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, sắc đẹp,… Các tập đoàn này đang triển khai kế hoạch mở rộng mạng lưới siêu thị trên cả nước. Tập đoàn bán lẻ Parkson( Malayxia) cũng đã bắt đầu khai trương cơ sở kinh doanh đầu tiên ở Việt Nam và đang tiếp tục triển khai hoạt động cho việc đầu tư chuỗi 10 trung tâm mua sắm hiện đại trong cả nước. Những đại gia bán lẻ đã từng làm mưa làm gió trên thị trường thế giới cả trăm năm qua như Wal-Mart( tập đoàn của Mỹ-tập đoàn hàng đầu), Carrefour( thứ 2), Tesco( thứ 6), Dairy Farm( HongKong),… đang xúc tiến việc tìm hiểu thị trường và lên kế hoạch thâm nhập thị trường bán lẻ Việt Nam. Việc các tập đoàn nước ngoài tràn vào Việt Nam và việc các doanh nghiệp Việt Nam gấp rút mở rộng hệ thống siêu thị của mình hứa hẹn một mạng lưới siêu thị rộng khắp làm thay đổi bộ mặt thị trường bán lẻ Việt Nam. 1.3 Sức mạnh của các tập đoàn nước ngoài Tất cả các tập đoàn bán lẻ này có tiềm lực tài chính rất lớn, bên cạnh đó là tính chuyên nghiệp trong quản lý và công tác hậu cần vượt xa các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị trong nước. Ngoài ra, lợi thế về quy mô đã tạo nên sức mạnh cho họ. Lợi thế này rất quan trọng, họ có thể dùng lợi thế này để o ép các doanh nghiệp sản xuất trong nước tăng chiết khấu giá hàng, nếu nhà sản xuất không đồng ý, các tập đoàn này sẽ chỉ bán hàng của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp sản xuất đành phải nhượng bộ bởi vì khối lượng sản phẩm mà hệ thống siêu thị của họ tiêu thụ là rất lớn. Lợi nhuận của họ được gia tăng nhờ lợi thế này. Đây quả thực là những vũ khí rất hữu hiệu của các tập đoàn để cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước. Phần 2: Những khó khăn thách thức và hướng giải quyết của các doanh nghiệp Việt Nam 2.1 Những khó khăn thách thức đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam Mặc dù chưa gia nhập tổ chức thương mại thế giới và cũng còn 3 năm sau khi gia nhập thì sẽ phải mở cửa thị trường phân phối, nhưng các doanh nghiệp trong nước cũng đã cảm nhận được những khó khăn thách thức đặt ra từ phía các “gã khổng lồ” nước ngoài. Đây là những thách thức do điều kiện khách quan mang lại. Các tập đoàn quốc tế có được sức mạnh về tài chính, tính chuyên nghiệp trong quản lý, và công tác hậu cần tốt. Đây cũng chính là những điểm yếu của cả hệ thống bán lẻ Việt Nam. Các tập đoàn này khi xâm nhập vào nước ta sẽ làm thay đổi bộ mặt của thị trường bán lẻ, do đó nó tác động rất lớn đến không chỉ các doanh nghiệp phân phối mà cả những doanh nghiệp sản xuất cũng bị ảnh hưởng lớn. Các tập đoàn này sẽ sử dụng lợi thế về qui mô của mình để ép các doanh nghiệp trong nước phải tăng chiết khấu giá bán, tăng thời gian thanh toán. Như vậy, mặc dù số lượng sản phẩm bán ra có thể sẽ tăng nhưng lợi nhuận lại không hề tăng. Doanh nghiệp sản xuất trong nước nếu không muốn phá sản thì chẳng còn cách nào khác là phải nhượng bộ họ. Đây là kịch bản và có thể nói là luật chơi mà các tập đoàn lớn áp dụng đối với các nhà sản xuất ở những nước khác trên thế giới. Còn các doanh nghiệp phân phối của Việt Nam, rất dễ nhìn thấy những ảnh hưởng đến họ, đó chính là việc phải chia nhỏ miếng bánh thị phần cho các doanh nghiệp nước ngoài. Các tập đoàn nước ngoài có lợi thế về qui mô, họ ép giá được các nhà sản xuất, họ sẽ có giá bán rẻ hơn các siêu thị trong nước, rẻ hơn các chợ, tiệm tạp hoá … Cũng giống như ở siêu thị Metro bây giờ, họ luôn có giá bán thấp hơn so với các siêu thị nội từ 10-15%. Do đó, một viễn cảnh không xa rất có thể sẽ là việc các đại siêu thị, các trung tâm mua sắm ngoại với giá cả rẻ, hàng hoá phong phú được trưng bày bắt mắt với chất lượng đảm bảo cứ nườm nượp khách hàng đến và khi ra về, họ mang theo một núi hàng hoá. Các cửa hàng tạp hóa nhỏ, những tiệm chạp phô, những chợ cóc, chợ tạm,… rồi sẽ thưa khách dần, giống như ở Chiềng Mai( Thái Lan) 2 năm trước, mỗi khi có một siêu thị được khai trương thì có đến 7 cái chợ biến mất. Hơn nữa, các tập đoàn này còn có tiềm lực tài chính rất lớn, họ sẵn sàng chịu lỗ vài năm để có thể loại đi các đối thủ cạnh tranh. Còn các doanh nghiệp Việt Nam thì không thể bởi họ chỉ cần “lỗ chút xíu là coi như hết vốn”. Bên cạnh những thách thức từ phía các tập đoàn lớn, các doanh nghiệp Việt Nam còn phải đối mặt với một khó khăn nữa từ phía các cơ quan nhà nước. Các doanh nghiệp rất bức về việc một số cơ quan đã cho các tập đoàn bán lẻ những địa điểm đẹp, gần khu trung tâm thành phố, trong khi các doanh nghiệp nội phải rất vất vả để làm được điều này. Với ngành kinh doanh bán lẻ thì vị trí là yếu tố quan trọng nhất, mà các tập đoàn lớn lại chiếm được vị đẹp, điều này làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn càng thêm khó khăn. Một khó khăn nữa từ chính bản thân các doanh nghiệp bán lẻ. Đó là ba điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam như đã nói ở trên, đó là vốn, hậu cần và tính chuyên nghiệp. Đầu tiên là về vốn, điều đương nhiên là các doanh nghiệp Việt Nam không thể nào so sánh nổi với các tập đoàn mà mạng lưới siêu thị của họ rộng khắp thế giới. Thậm chí, có tập đoàn, doanh thu hàng năm của họ còn lớn hơn cả tổng thu nhập quốc dân của nước ta. Chính tiềm lực tài chính lớn như vậy nên họ tạo được lợi thế theo qui mô và có khả năng chịu lỗ trong vài năm đầu kinh doanh - điều mà các doanh nghiệp Việt Nam không thể làm được. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ rất dễ bị loại khỏi cuộc chơi. Tiếp đến là hậu cần. Kinh doanh siêu thị hiện đại đòi hỏi một hệ thống hậu cần chuyên nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài thì chi rất mạnh tay trong vấn đề này. Tổng giám đốc của Metro Cash$Carry cho biết Metro vừa chi gần 20-25 triệu Euro để trang bị hệ thống cung ứng hàng( kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra, bảo quản hàng hoá,…) theo chuẩn của Metro toàn cầu và chi gần 800.000 Euro cho công tác huấn luyện. Còn ở các siêu thị nội, công tác này sơ sài hơn nhiều. Việc quản lí điều hành các xe giao hàng từ các trung tâm phân phối hay từ các nhà cung cấp được đúng loại, đúng nơi và đúng thời điểm còn rất đơn giản làm cho hàng giao không đúng theo kế hoạch của công ty như về thời gian, chất lượng, só lượng. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của công ty đặc biệt là trong những dịp lễ tết và làm gia tăng chi phí lao động quản lí doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Tính chuyên nghiệp trong quản lí là yếu tố rất quan trọng. Kinh doanh bán lẻ hiện đại đòi hỏi nhà quản lí phải có những công cụ hỗ trợ để đưa ra được các quyết định. Làm sao để tất cả các khâu giao, nhận, kiểm tra, sắp xếp, bán hàng,… phải ăn khớp với nhau. Đối với một hệ thống siêu thị, bộ phận mua hàng đóng vai trò khá quan trọng. Chuyên viên mua hàng chuyên nghiệp có thể điều đình với nhà cung cấp trên tất cả mọi phương diện từ giá cả, số lượng, thời gian giao nhận hàng, các chương trình tiếp thị, khuyến mãi, quy cách bao bì, đóng gói…Thậm chí, họ có thể tư vấn lại cho nhà cung cấp nên sản xuất hàng như thế nào, tiếp thị, quảng bá ra sao…Bởi vì chính chiến lược kéo như thế này, các doanh nghiệp phân phối sẽ là người hưởng lợi đầu tiên. Tuy nhiên, tính chuyên nghiệp như vậy thì các doanh nghiệp Việt Nam chưa đạt đến, còn các tập đoàn nước ngoài thì tỏ ra lấn lướt. Đơn cử việc giám đốc một công ty dệt may kể rằng ông chào hàng ở Metro, bộ phận mua hàng ở đây trình bày cho ông xem tất cả những quy chuẩn của ngành hàng, mẫu mã, màu sắc kích cỡ, phần trăm cho tiếp thị quảng cáo, những điều khoản hỗ trợ cho bên mua và những yêu cầu với nhà cung cấp… Tất cả được vi tính hoá, cập nhật và trình bày một cách rõ ràng, minh bạch cho nhà cung cấp tham khảo. Trong khi đó ông chào hàng với các siêu thị Việt Nam, quá trình thương lượng diễn ra rất sơ sài. Cho nên khi bộ phận mua hàng từ chối đơn chào hàng của doanh nghiệp, ông vẫn không hiểu được lí do tại sao. Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng mà các nhà doanh nghiệp phải quan tâm đó tâm lí sính ngoại của một bộ phận lớn dân cư. Tiêu dùng hiện nay chủ yếu là giới trẻ thế hệ 7X và 8X ưa dùng hàng hiệu, thương hiệu nổi tiếng thế giới của các tập đoàn sẽ đánh đúng tâm lí của lứa tuổi này Vậy với những khó khăn lớn như thế, các doanh nghiệp phân phối Việt Nam đã làm những gì để đối phó lại? 2.2 Hoạt động của các nhà phân phối Việt Nam trước thềm hội nhập WTO Việc các tập đoàn bán lẻ vào Việt Nam đã làm cho các doanh nghiệp phân phối trong nước gấp rút tự đổi mới mình để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh. Đầu tiên, Saigon Co-op mart, hệ thống siêu thị lớn nhất Việt Nam với tham vọng củng cố vị trí nhà phân phối số một của mình, đã đề ra chiến lược “khuyếch trương bề rộng và nâng cấp bề sâu”. Hiện nay công ty có 13 siêu thị trên cả nước, mục tiêu cụ thể là đến năm 2010 sẽ có 40 siêu thị. Công ty đang tiếp tục mở rộng và đầu tư trang thiết bị hiện đại cho trung tâm phân phối để đủ sức dự trữ hàng hoá lớn cho kênh phân phối trong hệ thống, áp dụng hệ thống quản lí chất lượng ISO 9001:2000 vào công tác quản lí. Co-op mart mở rộng theo hướng “ở đâu có nhu cầu khách hàng, ở đó có Co-op mart phục vụ”. Giám đốc điều hành chuỗi siêu thị Citi mart cho rằng 3 vấn đề đáng lo ngại nhất là giá, hàng hoá và mặt bằng. Công ty đặc biệt coi trọng vấn đề mặt bằng, họ tức tốc xúc tiến việc tìm kiếm mặt bằng tốt cho các siêu thị Citi Mart khác trước khi các tập đoàn nước ngoài vào. Một số đơn vị khác như công ty xuất nhập khẩu Intimex, doanh nghiệp phân phối chủ lực của bộ Thương Mại cũng đề ra chiến lược phát triển 10 năm với tốc độ tăng trưởng bình quân 30%/năm. Trong đó sẽ xây dựng hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại 3 cấp bao gồm: hệ thống cửa hàng tự chọn phục vụ cho từng khu vực dân cư trong bán kính hẹp vớí nhu cầu mua sắm nhanh các mặt hàng thiết yếu; hệ thống siêu thị bán lẻ phục vụ đông đảo người tiêu dùng với các mặt hàng trung bình thiết yếu trong cuộc sống thường nhật; hệ thống trung tâm thương mại phục vụ cho các đối tương có khả năng mua sắm hàng cao cấp, khách du lịch, gắn liền với các dịch vụ giải trí, làm đẹp,…Ngoài ra Intimex sẽ xây dựng một trung tâm dự trữ phân phối lớn. Một hiện tượng rất dáng được chú ý trong làng phân phối đó là việc ra đời hệ thống G7 Mart của công ty TNHH thương mại và dịch vụ G7 do Đặng Lê Nguyên Vũ, giám đốc công ty Trung Nguyên khởi xướng. Ông đã từng rất băn khoăn cho hệ thống bán lẻ Việt Nam, các chợ cóc, chợ tạm, các tiệm tạp hoá,… rồi sẽ đi về đâu khi thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các siêu thị ngoại. Ông đã cùng các đồng sự mất trên 2 năm nghiên cứu hệ thống chuỗi cửa hàng tiện lợi lớn nhất của Thái lan, nổi tiếng với mô hình nhượng quyền thương mại, 7-Eleven, khảo sát kĩ lưỡng quá trình hình thành hoạt động của các nhà bán lẻ thế giới như Wal- Mart, Carefour, Tesco, Aldi cũng như kênh phân phối của các đại gia có mặt ở Việt Nam như Metro Cash$Carry, Big C,…Cuối cùng nhóm nghiên cứu đã có được dự án liên kết các nhà bán lẻ nhỏ G7 Mart. Hệ thống này thành lập trên cơ sở tập hợp các cửa hàng tạp hoá, với mục tiêu là trang bị nâng cấp, thay đổi phương cách quản lí, cung cách phục vụ để hướng các cửa hàng này chuyển thành chuỗi cửa hàng tiện lợi theo mô hình phân phối hiện đại. Các cửa hàng hiện hữu khi gia nhập vào hệ thống sẽ được thiết kế trang trí lại cửa hàng, tổ chức lại cách trưng bày hàng hoá, chuẩn bị dịch vụ thông qua việc huấn luyện kĩ năng bán hàng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, sử dụng phần mềm có khả năng điều phối quản lí trong cả hệ thống. G7 mart không chủ trương hình thành những cửa hàng được trang bị quá hiện đại mà hình thành trên nền cơ sở vật chất đã có, tức là các cửa hàng được chọn là những cửa hàng tạp hoá vốn đang kinh doanh thuận lợi, vị trí tốt, diện tích mặt bằng phù hợp và doanh thu vài trăm triệu đồng một tháng trở lên. Công ty chỉ thay đổi thông qua nâng cấp, điều chỉnh lại một số bất cập về mặt hoạt động, như vậy sẽ giảm bớt được chi phí đầu tư. Suất đầu tư mà G7 Mart đưa ra, bao gồm cả thiết kế lại cửa hàng, cung cấp quầy kệ, bảng hiệu… vào khoảng 100-150 triệu đồng/ cửa hàng. Trước mắt, trong tháng 7/2006, công ty khai trương 500 cửa hàng tiện lợi đầu tiên, những cửa hàng này đã gây được nhiều sự chú ý của người tiêu dùng và theo các chủ cửa hiệu thì doanh thu của cửa hàng cao hơn so với trước khi gia nhập hệ thống. Mô hình của G7 Mart được xây dựng và phát triển đến năm 2010 theo chuỗi bao gồm: 7000 cửa hàng tiện lợi, 200 trung tâm phân phối, 100 trung tâm phân phối sỉ, 7 trung tâm thương mại và 7 siêu thị tại Việt Nam. Ước tính, quy mô của dự án này khoảng 400 triệu USD, cuốn hút 26.395 lao động tham gia hệ thống. Ngay khi dự án ra đời, đã có rất nhiều nhà sản xuất không chỉ trong mà cả ngoài nước đã liên hệ để cung cấp hàng cho hệ thống. Hệ thống này ra đời nhằm liên kết các nhà bán lẻ nhỏ lại với nhau tạo nên sức mạnh đối chọi lại với các “gã khổng lồ” nước ngoài . Các cơ sở sản xuất nhỏ của Việt Nam chưa có thương hiệu đang đặt rất nhiều niềm tin vào G7 Mart. Sản phẩm của họ sản xuất ra không thể chen chân vào các đại siêu thị, các trung tâm mua sắm hiện nay vì nhiều lí do như giá, chiết khấu, các điều kiện giao nhận hàng… mặc dù chất lượng sản phẩm của họ không hề thua kém các sản phẩm tương tự đã có thương hiệu. Họ hi vọng rằng G7 Mart sẽ đưa được hàng hoá và thương hiệu của họ đi khắp cả nước. Mô hình G7 Mart được các nhà kinh tế đánh giá cao và đặt nhiều kì vọng về một tương lai sáng sủa cho hệ thống bán lẻ Việt Nam. 2.3 Hướng giải quyết cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam rồi sẽ như các doanh nghiệp Trung Quốc, bị các đại gia quốc tế đẩy ra khỏi cuộc chơi hay sẽ như các doanh nghiệp Hàn Quốc, chiếm được thị phần rồi dần dần buộc Wal-Mart, Carrefour rút lui khỏi thị trường. Nhưng thực sự, xét tình hình thực tế các doanh nghiệp Việt Nam bây giờ thì có thể thấy họ ít có khả năng làm được như doanh nghiệp Hàn Quốc vì hai yếu tố làm nên thành công của doanh nghiệp hàn Quốc là vốn và vị trí lại không phải là điểm mạnh của doanh nghiệp Việt Nam nếu không muốn nói là điểm yếu. Tuy nhiên doanh nghiệp Việt Nam lại có lợi thế mà các tập đoàn nước ngoài không có, đó là việc am hiểu thị trường trong nước, nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng- điều mà các tập đoàn nước ngoài phải mất thời gian khá lâu và cả tiền bạc nữa mới có thể có được. Hơn nữa, do qui mô nhỏ nên doanh nghiệp có thể dễ dàng, nhanh chóng thay đổi kế hoạch hoạt động khi có thay đổi mạnh trên thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể xác lập vị trí của mình trên kênh phân phối hiện đại cân bằng với các doanh nghiệp nước ngoài. Vấn đề là doanh nghiệp Việt Nam hành động như thế nào. Việc đầu tiên các doanh nghiệp phải làm đó là làm mới bộ máy hoạt động của mình trên tất các khâu sao cho có tính chuyên nghiệp cao. Điều này các doanh nghiệp có thể tham khảo mô hình hoạt động của các tập đoàn lớn của nước ngoài. Thay đổi ở tất cả các khâu. Chú trọng đến bộ phận mua hàng và bán hàng. Đầu tiên, bộ phận mua hàng phải luôn nắm bắt những nhu cầu, thị hiếu vốn thay đổi thường xuyên của người tiêu dùng và phải có kĩ năng đàm phán, thương thảo với các nhà sản xuất về giá cả, về chất lượng, mẫu mã, quy cách, bao bì sản phẩm và cả việc thiết kế các chương trình quảng cáo để “kéo” khách hàng đến siêu thị, làm sao bán được nhiều hàng nhất, mang lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể kêu gọi đầu tư, gia tăng tiềm lực tài chính để mở rộng mạng lưới siêu thị. Một thực tế là tất cả doanh nghiệp phân phối Việt Nam, chưa có một doanh nghiệp nào mở đươc một trung tâm mua sắm, tất cả các trung tâm mua sắm lớn hiện nay đều là của các tập đoàn nước ngoài. Do đó, việc kêu gọi đầu tư là hết sức cần thiết. Để có thể chuẩn bị đối đầu tốt với các tập đoàn nước ngoài, ngoài sự nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp, thì vai trò hỗ trợ của các cơ quan nhà nước cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính vì thế, các doanh nghiệp cần đề nghị sự giúp đỡ từ phía các cơ quan nhà nước nhất là trong việc chọn mặt bằng. Từ bài học ở Hàn Quốc cho thấy, cơ quan nhà nước chỉ cấp cho các tập đoàn nước ngoài những vị trí đặt siêu thị ở xa trung tâm, còn những vị trí thuận lợi trong thành phố thì dành cho các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì 3 yếu tố làm nên thành công của các doanh nghiệp phân phối là vị trí, vị trí và vị trí. Các doanh nghiệp trong nước đang ở thế yếu mà lại không được ưu ái trong việc cấp đất thì có thể nói, đây là quyết định “báo tử” cho họ. Cuối cùng, các doanh nghiệp không nên ôm tư duy cũ mèm là “mạnh ai nấy thắng”, như vậy thì không thể trụ nổi với các tập đoàn nước ngoài, sớm muộn gì thì cũng bị họ loại ra khỏi cuộc chơi mà cần phải có một sự liên kết chuỗi kinh doanh của các doanh nghiệp phân phối và sản xuất trong nước để đối trọng lại các tập đoàn nước ngoài. Phần 3: Một số nhận xét rút ra từ việc nghiên cứu đề tài Qua việc nghiên cứu đề tài mới mẻ này, người viết đã cảm nhận được tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đến nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối đầu với những khó khăn hết sức to lớn trước mắt, chưa biết họ có thể tháo gỡ được không. Tuy nhiên, người viết cho rằng, vấn đề mấu chốt để tháo gỡ những khó khăn này là “liên kết”. Liên kết ở đây bao gồm cả liên kết giữa các nhà bán lẻ và liên kết giữa các doanh nghiệp bán lẻ với các nhà sản xuất trong nước. Nếu thực hiện được điều này, chúng ta sẽ có được một sức mạnh khổng lồ đối chọi lại các tập đoàn nước ngoài. Tuy nhiên để có thể thay đổi được tư duy cũ “ mạnh ai nấy thắng” đã ăn sâu vào một bộ phận lớn doanh nhân Việt Nam, quả thực là rất khó. Do đó, người viết đặt rất nhiều kì vọng vào G7 Mart, hệ thống được khởi xướng bởi nhiều doanh nhân có tài, thực sự lo cho nền kinh tế nước nhà trước sức ép từ việc gia nhập WTO mà đặc biệt là chủ tịch hội đồng quản trị công ty TNHH G7 đồng thời cũng là giám đốc công ty cà phê Trung Nguyên- Đặng Lê Nguyên Vũ, một người rất hiểu về thị trường bán lẻ đang nắm trong tay mạng lưới hàng ngàn quán cà phê, rất thành công với mô hình nhượng quyền thương mại. Theo các chuyên gia, việc các công ty trong nước sở hữu những hệ thống bán lẻ bao phủ khắp các địa phương chính là nền tảng vững chắc cho việc đảm bảo các công ty trong nước có thể có cơ hội tồn tại và phát triển. G7 Mart với mạng lưới bao phủ khắp các địa phương, vị trí cửa hàng đẹp, với mô hình cửa hàng tiện lợi- mô hình cao nhất của hoạt động bán lẻ, sẽ có thể đối trọng lại các tập đoàn nước ngoài hùng mạnh. Để có thể đững vững trên thị trường bán lẻ, các doanh nghiệp Việt Nam rất cần có bàn tay giúp đỡ của Nhà nước. Nhằm mục tiêu giữ vững sự phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần sớm xây dựng định hướng, chiến lược cho sự phát triển của hệ thống phân phối cả về hạ tầng thương mại, hệ thống pháp lí, đào tạo nhân lực…tạo môi trường ổn định cho doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, cần có những chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới và mở rộng hệ thống phân phối bằng các nguồn vốn ưu đãi trong các chương trình phát triển, có chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, đổi mới công nghệ cũng như được hỗ trợ về thông tin thị trường, dự báo giá cả và xúc tiến thương mại. Ngoài ra, các bộ ngành liên quan cần đứng ra vận động và hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước liên kết lại thành những tập đoàn phân phối bán buôn và bán lẻ lớn, xây dựng những thương hiệu mạnh, phát triển thành những chuỗi siêu thị và cửa hàng với nhiều qui mô khác nhau. Hiện nay bộ Thương Mại có kế hoạch lựa chọn để tập trung hỗ trợ, hình thành 15-20 nhà phân phối lớn, tạo ra một hệ thống phân phối mạnh làm nòng cốt cho việc bình ổn thị trường, tăng cường năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập và mở cửa về lĩnh vực phân phối. Cùng với việc tự đổi mới, phát triển mạng lưới của các doanh nghiệp và sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, chúng ta có quyền hi vọng cho một tương lai tươi sáng của hệ thống bán lẻ Việt Nam. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0147.doc
Tài liệu liên quan