Đề tài Xây dựng các mặt hàng xuát khẩu chủ lực ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển

Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là chính sách tất yếu trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng và trong hoạt động ngoại thương của tất cả các quốc gia trên thế giới và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền ngoại thương Việt Nam. Song, để các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam thực sự phát huy tất cả các tác dụng tích cực để xứng với vị trí “chủ bài” hay “quả đấm sắt” trong nền ngoại thương Việt Nam đòi hỏi phải có sự suy ngẫm, đánh giá và hành động của mỗi doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để nhận biết và tìm ra những giải pháp khắc phục đối với những tồn tại, hạn chế chủ quan cũng như tìm giải pháp ứng phó với những khó khăn thách thức từ bên ngoài mang đến, nhất là khi nước ta đã gia nhập ASEAN, AFTA và tiến tới xa hơn nữa sẽ trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO.

doc84 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng các mặt hàng xuát khẩu chủ lực ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản phẩm công nghiệp nhẹ vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lớn. Bước vào thập kỷ 1990, vị trí của những sản phẩm công nghiệp tập trung lao động truyền thống bị đẩy xuống hàng thứ yếu, thay thế chúng là những sản phẩm kỹ thuật cao và những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. b2/ Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn mới (1990 đến nay) Bắt đầu từ thập kỷ 90, ngoài việc một mặt vẫn chú trọng duy trì phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như hàng dệt may, phương tiện vận tải, hoá chất, thực phẩm chế biến, Đài Loan còn tiến hành mạnh mẽ điều chỉnh cơ cấu và phát triển các ngành công nghiệp mới để làm cơ sở cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn mới. Trong ngành chế tạo, loại hình công nghiệp tập trung vốn và kỹ thuật tăng cao, công nghiệp tập trung lao động tăng thấp. Với những chủ trương như trên, từ năm 1990 đến nay, Đài Loan đã thực sự mở rộng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của các nước Đông Á 3.1. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu chủ lực Một yếu tố then chốt của “đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu” là ưu tiên phát triển hàng chủ lực. Điều này không có gì trái với xu hướng mở rộng diện mặt hàng, trái lại chính trên cơ sở đó mà việc lựa chọn phát triển hàng xuất khẩu chủ lực càng được thực hiện tốt hơn. Vấn đề là sự lựa chọn và phát triển hàng xuất khẩu chủ lực phải đảm bảo được sự “đa dạng hoá”. Bởi lẽ “sự đa dạng hoá” hàng xuất khẩu chủ lực góp phần khắc phục hiện tượng phát triển lệch lạc và bất lợi trong lĩnh vực xuất khẩu của các nước đang phát triển như Việt Nam. Vấn đề đặt ra ở đây là: vậy thì mỗi nước cần bao nhiêu mặt hàng xuất khẩu chủ lực là vừa? Kinh nghiệm của các nước Đông Á nói chung và các nước cụ thể nói trên cho thấy mỗi nước nên tập trung ưu tiên cho việc phát triển từ 5-10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Số lượng mặt hàng chủ lực tuy không nhiều nhưng lớn về khối lượng và giá trị xuất khẩu; có ý nghĩa chiến lược, quyết định đối với sự thành bại của toàn bộ hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Với số lượng từ 5-10 mặt hàng như vậy vừa cho phép khắc phục tình trạng thị trường bất lợi cho mặt hàng này hay mặt hàng kia, vừa mở ra những khả năng tập trung phát triển quy mô lớn và có chiều sâu, kịp thời chớp lấy những thời cơ tốt của thị trường thế giới. 3.2. Vai trò của chính phủ trong việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Cho đến nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của một quốc gia thường được coi là kết quả của sự nỗ lực cả từ phía Chính phủ lẫn giới kinh doanh. Ai có vai trò quan trọng hơn, giữa Chính phủ với những định hướng và chính sách can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp, hay giới kinh doanh với những “vũ khí “ lợi hại là sự hiểu biết và khả năng vận dụng nhanh nhạy, ứng biến có hiệu quả trước những biến đổi bất thường của kinh tế thị trường, chưa ai có thể khẳng định được, nhưng có một điểm mọi người đều thống nhất là sự thành công của một quốc gia có sự đóng góp quyết định của Chính phủ. Nhà nước thông qua nghiên cứu thị trường nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế của các viện nghiên cứu và các cơ quan quản lý mà lựa chọn, định hướng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực phù hợp với nguồn lực trong giai đoạn phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách , biện pháp phục vụ việc phát triển sản phẩm chủ lực. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là đánh giá thấp vai trò của giới kinh doanh. Giới kinh doanh chính là người cụ thể và chi tiết, hiện thực hoá sự lựa chọn sản phẩm xuất khẩu. Sự ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để phát triển sản phẩm và thị trường đưa lại lợi nhuận cho công ty và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của quốc gia. 3.3. Thay đổi mặt hàng xuất khẩu chủ lực một cách hợp lý Mặc dù mặt hàng xuất khẩu chủ lực được ví như những con “chủ bài” trong nền ngoại thương của một quốc gia, nhưng vị trí của một mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Ở thời điểm này, một mặt hàng này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực nhưng ở thời điểm khác thì không. Điều quan trọng là quốc gia phải biết xác định khi nào cần tiếp tục duy trì, khi nào cần thay đổi. Điều này tuỳ thuộc vào khả năng của bản thân quốc gia và sự nhạy bén nhìn nhận thị trường quốc tế của quốc gia đó. Nói tóm lại, việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một nội dung hết sức quan trọng trong chính sách ngoại thương quốc gia. Không có một công thức cố định về việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để áp dụng chung cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, những bài học về vai trò của Chính phủ, bài học về sự đa dạng hoá mặt hàng và thay đổi các mặt hàng xuất khẩu chủ lực một cách hợp lý chính là những bài học kinh nghiệm thực sự có ý nghĩa đối với các quốc gia đang phát triển nói chung và đặc biệt đối với Việt Nam. CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM I. ĐỊNH HƯỚNG CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC ĐẾN NĂM 2010 1. Định hướng chung về xuất khẩu đến năm 2010 Diễn ra vào lúc giao thời giữa hai thế kỷ và kết thúc việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã có dịp nhìn lại sự phát triển của đất nước ta trong thập niên cuối thế kỷ 20, đồng thời đề ra chiến lược trong thập niên đầu của thế kỷ mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm từ 2001-2010 là nhằm “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại...” và “chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại...” Để chuẩn bị thực hiện mục tiêu đó, Chính phủ đã ra chỉ thị số 22/2000/CT- TTG ngày 27/10/2000 về chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ thời kỳ 2001-2010. Chỉ thị nêu rõ: “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ thời kỳ 2001-2010, nhất là xuất khẩu, phải là chiến lược tăng tốc toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phải có nhiều khâu đột phá với bước đi vững chắc. Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu, tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ; xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15%/năm trở lên; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới”. 2. Định hướng về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đến năm 2010 2.1. Định hướng về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực Cho tới nay, Việt Nam đã có một danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm chủ yếu là hàng nông lâm thuỷ hải sản với thế mạnh và tiềm năng sẵn có; Hàng công nghiệp nhẹ chế biến chế tạo như dệt may, giày dép, điện- điện tử với lợi thế về giá nhân công thấp; Hàng khoáng sản gồm than đá và dầu thô do thiên nhiên ưu đãi;... Tuy nhiên, việc xuất khẩu các mặt hàng này ngày càng gặp nhiều khó khăn vì nhiều yếu tố khách quan như môi trường, thời tiết, thời vụ, nhu cầu tiêu dùng thay đổi... Do vậy, bên cạnh việc phát huy những thế mạnh và khắc phục những khó khăn này, chúng ta cần tập trung nâng cao giá trị gia tăng của những mặt hàng chủ lực sẵn có bằng cách giảm tỷ trọng và hạn chế dần việc xuất khẩu các mặt hàng thô như dầu khí, than đá, nông thuỷ sản sơ chế. Đầu tư công nghệ thích hợp cho các mặt hàng chế biến, chế tạo để thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng quốc tế. Đối với các mặt hàng mang tính đặc trưng như hàng thủ công mỹ nghệ đang được khách hàng trên thế giới ưa chuộng thì cần tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng cũng như chính sách ưu đãi đặc biệt cho sản xuất và xuất khẩu vì đây còn mang ý nghĩa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc và giới thiệu Việt Nam vơí bạn bè thế giới. Trong tương lai, lợi thế về giá nhân công rẻ của nước ta sẽ ngày càng bị giảm đi do nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng, nhất là đối với các sản phẩm có hàm lượng lao động cao, vì thế cần đầu tư nghiên cứu để phát hiện, tìm ra những mặt hàng mới có giá trị, hàm lượng công nghệ và chất xám cao như phần mềm vi tính, các thiết bị điện tử viễn thông, đo lường cao cấp... Những mặt hàng này thường ít bị phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài và có vòng đời sản phẩm lâu dài để thay thế dần các mặt hàng kém hiệu quả. 2.2. Định hướng về sản xuất và xuất khẩu các nhóm hàng nông lâm thuỷ sản Hiện nay, nhóm hàng này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu. Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích nuôi trồng khả năng khai thác và đánh bắt có hạn...) và thời tiết nên tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/ năm. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% vào năm 2005 và 17,2% vào năm 2010. Hướng phát triển chủ đạo của nhóm này trong những năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển... để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. a/ Thuỷ sản Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu thụ thịt, tăng tiêu thụ thuỷ sản. Với sản lượng dự kiến là 3,7 triệu tấn thì kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm thuỷ sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc...Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, có sự quan tâm thoả đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu. b/ Gạo Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực đã thâm canh tăng năng suất, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010, ta chỉ có thể xuất tối đa được khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm với kim ngạch khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu, khai thác các thị trường mới (như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ) và ổn định các thị trường đã có như Indonexia, Philippin thông qua các hợp đồng Chính phủ, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung ổn định , giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo. Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh việc ký kết hợp đồng bao tiêu lúa gạo với nông dân. c/ Nhân điều Mặt hàng này còn có thể tăng kim ngạch xuất khẩu lên tới khoảng 400 triệu USD hoặc cao hơn vào 2010 vì nhu cầu của thế giới còn lớn và liên tục tăng( theo dự báo khoảng 7%/năm, giá xuất khẩu cũng tăng), vả lại tiềm năng của nước ta còn rất lớn, cơ cấu thị trường tương đối hợp lý. Để đẩy mạnh xuất khẩu, giải pháp chủ yếu là tiếp tục hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và giống để cải tạo lại các vườn điều cho sản lượng thấp hiện nay, thay giống điều mới chịu được hạn, cho năng suất cao, tiếp tục hỗ trợ tín dụng và cải tiến chế dộ miễn thuế, hoàn thuế để tạo thuận lợi cho nhập khẩu nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu. Tăng cường chế biến sản phẩm cao cấp để xuất khẩu đi đôi với chú trọng vấn đề thương hiệu. Thị trường chính của hạt điều Việt nam là Mỹ, Trung Quốc, Australia, Hà Lan. d/ Hạt tiêu Giữ vững diện tích trồng tiêu ở mức 35.000 ha theo khuyến nghị của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vì thị trường tiêu đã tương đối bão hoà. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu tiêu lớn nhất (vượt Ấn Độ), chiếm gần 40% lượng hạt tiêu xuất khẩu của thế giới. Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, các biện pháp chủ yếu là cải tạo về giống, kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho khâu sau thu hoạch để đảm bảo độ đồng đều và chất lượng của sản phẩm. Xuất khẩu hạt tiêu không gặp khó khăn về thị trường. Tuy nhiên, nếu không kiềm chế việc tăng sản lượng xuất khẩu thì giá cả sẽ khó ổn định, hiệu quả xuất khẩu sẽ không cao. e/ Cà phê Nhìn chung, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. Tổ chức FAO dự báo tới năm 2005, sản lượng thế giới sẽ đạt khoảng 7,3 triệu tấn ( hiện nay là 6,3-6,6 triệu tấn). Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (Arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Xuất khẩu cà phê không gặp khó khăn về thị trường. Nhu cầu tại các nước nhập khẩu lớn (EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ) vẫn ổn định. Do nguồn hàng trong một vài năm gần đây có giảm nên các doanh nghiệp cần thận trọng khi ký kết hợp đồng phải đảm bảo nguồn hàng, lường trước khả năng biến động giá cả phức tạp của thị trường, áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và thực hiện tiêu chuẩn cà phê xuất khẩu mới. Về phía Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam cần có đánh giá tương đối chính xác về sản lượng của từng niên vụ để có định hướng kinh doanh phù hợp cho các hội viên. Thông qua các diễn đàn Cà phê quốc tế để vận động một số nước sản xuất cà phê lớn ( nhất là Braxin) có biện pháp giới hạn sản lượng để cải thiện cán cân cung cầu. Ngoài ra, cần tiếp tục tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến nông, tăng cường giám sát việc chuyển dịch cơ cấu theo đúng quy hoạch. f/ Cao su Về sản xuất, cần tập trung chăm bón để nâng cao năng suất và hạ giá thành đối với diện tích hiện có. Những khu vực đã quá hạn khai thác thì phá bỏ, cải tạo đất và đưa giống tốt vào trồng lại, bảo đảm cho mủ chất lượng cao. Về xuất khẩu, Chính phủ đã có đề án phát triển , tuy nhiên vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm, giá cả lại có xu hướng xuống thấp. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Do cơ cấu sản phẩm cao su vẫn thiên về cao su 3L nên việc tiếp cận vào các thị trường tiêu thụ nhiều cao su SR như EU và Bắc Mỹ còn hạn chế. Vì vậy, cần chú trọng vấn đề chế biến, đa dạng hoá sản phẩm để tăng cường thâm nhập vào các thị trường này, giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Đối với thị trường Trung Quốc, cần xem xét lại quy định về thu chênh lệch giá mủ cao su nguyên liệu xuất khẩu để hạn chế việc xuất khẩu mủ nguyên liệu. Cơ cấu thị trường tiêu thụ cao su của Việt Nam trong thời gian tới vẫn chủ yếu là Châu Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore; EU và Bắc Mỹ. g/ Chè Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 3,3 triệu tấn/năm. Việt Nam đang có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao( chè sạch) cho các thị trường khó tính như Nhật bản, Đài Loan, Trung Đông..., đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này. Đưa chè trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam h/ Thịt Hiện nay, sản lượng thịt của nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0,7% sản lượng trung bình của thế giới). Chất lượng cũng còn kém xa yêu cầu của thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới phương thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn, hiện đại. Trong tương lai, đây cũng sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Thị trường định hướng trước mắt của mặt hàng này là Hồng Kông, Nga, về lâu dài là Singapore và Nhật bản. k/ Rau quả Tăng quỹ đất trồng mới rau quả bằng các nguồn khác nhau như đất trồng trọt, đồi núi trọc, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cải tạo vườn tạp trong các gia đình, phát triển các loại rau quả có chất lượng tốt, kết hợp các loại rau và hoa quả truyền thống với các loại rau quả cao cấp mới như đậu ,rau, ngô rau, măng tây, nấm ăn và nấm dược liệu... là những loại rau giá trị dinh dưỡng cao, có triển vọng lớn về thị trường tiêu thụ. Phát triển các loại cây ăn quả nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới, nhất là các loại quả mà thị trường quốc tế có nhu cầu cao để khai thác lợi thế các vùng sinh thái của nước ta. Về xuất khẩu, phía doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Chú trọng thâm nhập các thị trường mới như Nga, Hoa Kỳ..., nhất là đối với các mặt hàng rau quả chế biến. Về phía Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần xem xét lại quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung để quản lý tốt hơn chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất. Công nghệ sau thu hoạch, đặc biệt là công nghệ bảo quản trái cây tươi cần được chú ý đầu tư để làm giảm sức ép tiêu thụ trong thời gian đầu vụ. 2.3. Định hướng sản xuất và xuất khẩu đối với nhóm mặt hàng công nghiệp nhẹ chế biến và chế tạo, thủ công mỹ nghệ Hiện nay, kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Mục tiêu phấn đấu vào năm 2010 là 20-21 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với hiện nayvà chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu a/ Hàng dệt may Ngoài thuận lợi cơ bản là thị trường Hoa Kỳ được mở thì giá xuất khẩu và giá gia công hàng may mặc của Việt Nam ngày càng tăng (năm 2002 tăng 15% so với năm 2001). Năng lực sản xuất tăng mạnh do ngành dệt may đang thực hiện chiến lược tăng tốc. Tuy nhiên, việc đào tạo nguồn nhân lực của ngành còn chưa theo kịp nhu cầu sản xuất và xuất khẩu. Năm 2003, ngành dệt may tiếp tục phải đối mặt với những thách thức như môi trường cạnh tranh gay gắt hơn sau khi trung Quốc và Đài Loan gia nhập WTO, nhất là trong khi sức mua của thị trường còn yếu. Hạn ngạch của EU dành cho Việt Nam còn nhỏ so với năng lực của ta, mặt khác EU lại tăng cường các hàng rào kỹ thuật như cấm sử dụng một số hoạt chất nhuộm đối với hàng may mặc xuất sang EU. Đối với thị trường Hoa Kỳ nếu kéo dài thời gian xuất khẩu không hạn ngạch và việc đàm phán hạn ngạch với EU có kết quả thuận lợi thì kim ngạch còn có thể tăng ở mức cao hơn. Tăng cường xuất khẩu vào Nhật Bản vừa để giữ vững thị phần bởi đây là thị trường truyền thống, lại không có hạn ngạch, vừa để tạo thế cân bằng về thị trường. Bên cạnh đó, cần tạo mối liên kết chặt chẽ giữa Tổng công ty Dệt may, các công ty lớn với các doanh nghiệp địa phương để vừa tận dụng triệt để công suất, vừa đáp ứng được những đơn hàng lớn với thời gian nhanh của Hoa Kỳ. Mở rộng quy mô đào tạo tại chỗ để đáp ứng nhu cầu về công nhân, nâng cao tay nghề. Từng bước áp dụng các tiêu chuẩn ISO 9001, 14000, SA 8000...để nâng cao uy tín, chất lượng hàng hoá nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng mới và giữ vững các khách hàng cũ. b/ Giầy dép Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc Hiệp định chống gian lận thương mại đã ký giữa Chính phủ Việt Nam và EU (các vấn đề về giá xuất khẩu, xuất xứ nguyên phụ liệu và thành phẩm...) và tuân thủ các luật lệ thương mại quốc tế, không để xảy ra việc tiến hành điều tra gian lận thương mại như bán phá giá hay sai lệch về xuất xứ. Bên cạnh đó cần duy trì và nâng cao chất lượng, uy tín sản phẩm giầy dép Việt Nam đối với thị trường xuất khẩu của mình; Đầu tư công nghệ, tăng trị giá sản phẩm xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của giầy dép Việt Nam, chuyển từ hình thức gia công sang bán FOB.; Đẩy mạnh việc khai thác thị trường mới đặc biệt thị trường Mỹ vì đây là một thị trường có sức mua rất lớn, khôi phục các thị trường truyền thống như Liên bang Nga, Đông Âu. c/ Hàng thực phẩm chế biến và hàng tiêu dùng Bao gồm thực phẩm chế biến (bánh kẹo, sữa, bột ngọt, dầu thực vật...), sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí- điện, sản phẩm nhựa là những mặt hàng mới phát triển mạnh trong những năm gần đây nhưng rất có tiềm năng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực do có lợi thế về nguyên liệu, nhân công tay nghề lại kết hợp hài hoà giữa lao động giản đơn với công nghệ trung bình. Thị trường tiêu thụ của nhóm hàng này chủ yếu là Nga, Đông Âu, EU, Ô-xtrây-lia và Hoa Kỳ. d/ Hàng thủ công mỹ nghệ Tới nay, hàng thủ công mỹ nghệ của ta đã xuất sang hơn 40 quốc gia. Năm 2003, mặt hàng này được xuất vào hầu hết các thị trường chủ lực như Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Đức, Anh, Hồng Kông, Đài Loan đều tăng khá. Hiện nay, sức mua trên thị trường thế giới đang có dấu hiệu hồi phục. Công tác xúc tiến thương mại cũng được các doanh nghiệp triển khai tốt. Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng được các trang Web riêng để giới thiệu sản phẩm, cũng như tham gia nhiều hội chợ triển lãm trên thế giới. Ngoài ra, Chính phủ cũng hỗ trợ có hiệu quả các doanh nghiệp thông qua việc thưởng xuất khẩu và hỗ trợ kinh phí tham gia hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm Định hướng sắp tới của Chính phủ là cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, triển khai Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/ 11/2000 “ Về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn” tới tận các đơn vị cơ sở. Ngoài ra, cần tích cực hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, điện, nước, xử lý môi trường ô nhiễm, hỗ trợ chính sách về đào tạo lao động, ưu đãi thoả đáng với các nghệ nhân để góp phần phát triển làng nghề truyền thống... 2.4. Định hướng đối với các mặt hàng khoáng sản a/ Dầu thô Hiện nay, kế hoạch xuất khẩu dầu thô năm 2003 chưa được quyết định chính thức, nhưng theo dự kiến chỉ tương đương với mức thực hiện năm 2002. Tuy nhiên, đây vẫn là một cố gắng lớn vì theo dự kiến của các chuyên gia thì giá dầu năm 2003 có khả năng thấp hơn giá dầu năm 2002. Trong những năm tới, nếu dầu thô đưa vào chế biến trong nước thì lượng xuất khẩu sẽ giảm, ta tự chế biến để dùng trong nước là chính để không phải nhập khẩu hàng năm tới 7-8 triệu tấn. b/ Than đá Đối với mặt hàng than đá, việc xuất khẩu ngày càng trở nên khó khăn hơn do vấn đề ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, đây lại là loại tài nguyên không tái tạo được, vì vậy nên khai thác hạn chế để bảo vệ nguồn tài nguyên này cho tương lai. 3. Định hướng về thị trường xuất khẩu Phương hướng chung là tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường. Bên cạnh việc tích cực thâm nhập thị trường Hoa Kỳ cần tăng cường xuất khẩu vào các thị trường châu Á và EU. Ngoài ra, cần tìm cách thâm nhập một số thị trường mới ở châu Phi và Trung Đông và một số nước EU mới. 3.1. Thị trường Hoa Kỳ Theo dự báo, kinh tế Hoa Kỳ năm 2003 sẽ tăng trưởng khá hơn nhưng còn tùy thuộc vào động thái của Hoa Kỳ đối với Irắc và biến động giá dầu thô. Do hiệu ứng mở thị trường sẽ giảm dần nên xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2003 khó duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như năm nay, dự kiến kim ngạch đạt 3,05 tỷ, tăng 35-40%. Mức tăng tuyệt đối là khoảng 800-900 triệu USD (trong đó dự kiến dệt may sẽ tăng thêm 500-600 triệu USD, thủy sản tăng 130 triệu USD, giày dép 90 triệu USD và các mặt hàng khác khoảng 100 triệu USD). Bên cạnh đó, cần xúc tiến nhanh việc thành lập trung tâm giới thiệu sản phẩm, tiếp tục tổ chức nhiều đoàn doanh nghiệp (nên theo chuyên ngành, có quy mô vừa phải) sang khảo sát, tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thành lập văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ, nhất là những doanh nghiệp mà kim ngạch xuất khẩu còn nhở nhưng có tiềm năng phát triển, tư vấn và giúp các doanh nghiệp Việt Nam đăng ký thương hiệu cho hàng hóa và bảo vệ thương hiệu đó trên thị trường Hoa Kỳ. 3.2. Thị trường Nhật Bản Dự báo triển vọng kinh tế Nhật Bản năm 2003 sẽ khá hơn và có thể có tăng trưởng dương 0,75 - 1,25%. Tuy nhiên, Nhật Bản đang có chủ trương giữ đồng Yên yếu hơn để hạn chế thiểu phát và đẩy mạnh xuất khẩu. Xu hướng này cần được theo dõi thận trọng bởi có thể tác động bất lợi đến xuất khẩu của ta. Trong điều kiện đó, mục tiêu của năm 2003 là chặn lại xu hướng giảm sút và cần phấn đấu đạt tăng tưởng khoảng 7%. Ngành dệt may cần nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản trong năm tới để giữ vững thị phần tại thị trường này, khắc phục xu hướng chuyển dịch sang Hoa Kỳ như năm 2002. Các mặt hàng khác như thủy sản, than đá, hàng TCMN, sản phẩm gỗ, dây cáp điện cần phấn đấu duy trì được tốc độ tăng khá như năm nay. Bên cạnh đó, cần xúc tiến việc đàm phán ký kết hiệp định mậu dịch tự do với Nhật Bản và ủng hộ xu hướng liên kết Nhật Bản-ASEAN. Công tác xúc tiến cần được tăng cường, phát huy những mô hình như "Nhà Việt Nam" tại Tokyo để tiến tới thành lập Trung tâm Thương mại tại Nhật Bản, tổ chức nhiều đoàn chuyên ngành có quy mô trung bình sang khảo sát và tìm cơ hội kinh doanh với các địa phương lớn của Nhật. Dự án nâng cao năng lực kiểm dịch thực vật cũng cần sớm được phê duyệt và triển khai để tạo thuận lợi cho xuất khẩu nông sản vào Nhật. 3.3. Thị trường Trung Quốc Sau khi gia nhập WTO, kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển thuận lợi. Tăng trưởng kinh tế năm 2002 đạt 8%, kim ngạch xuất nhập khẩu đều tăng trên 20%, thu hút FDI đạt hơn 50 tỷ USD tăng gần 15%. Dự báo kinh tế Trung Quốc năm 2003 sẽ tăng trưởng ít nhất là 7,2%. Trong điều kiện đó, cần phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 10%-15% đối với thị trường này. 3.4. Thị trường EU Dự báo triển vọng kinh tế EU năm 2003 sẽ khả quan hơn nhưng mức độ phục hồi sẽ không nhiều, tăng trưởng kinh tế có thể đạt 2,1% trong năm 2003. Khó khăn chủ yếu trong xuất khẩu vào EU là xuất hiện nhiều hàng rào kỹ thuật mới, kể cả đối với các sản phẩm thô và sản phẩm chế biến. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vào EU là 10,5% (đã tính tới việc mở rộng EU). Với thị trường này, bên cạnh việc đàm phán tăng hạn ngạch dệt may, ta nên cố gắng liên kết với các nước có cùng mặt hàng xuất khẩu để đấu tranh với EU về các vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. EU đã ký thỏa thuận kết nạp thêm 10 nước thành viên mới. Sự kiện này sẽ tác động tích cực tới kinh tế và thương mại của những nước mới gia nhập. Do vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU "cũ", cần tăng cường xuất khẩu vào các nước thành viên mới, nhất là thị trường Ba Lan, Séc... 3.5. Thị trường ASEAN Mặc dù có xu hướng phục hồi trong năm 2002 nhưng kinh tế của ASEAN dễ bị tổn thương do phụ thuộc nhiều vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, nền tảng tài chính chưa thật vững, lại gặp phải cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc, kể cả về xuất khẩu lẫn đầu tư nước ngoài. Để tăng xuất khẩu và giảm bớt áp lực nhập siêu đối với khu vực này, bên cạnh hai mặt hàng chủ lực là gạo và dầu thô, cần chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mở ra từ năm 2003 để đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng tiêu dùng như sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, hàng may mặc, giày dép, thực phẩm chế biến. Các doanh nghiệp cần tích cực xin giấy chứng nhận xuất xứ from D để được hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang ASEAN. Riêng với Lào và Campuchia, cần tận dụng vị trí, địa lý để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng bách hóa tiêu dùng, phát triển hình thức vận tải quá cảnh. 3.6. Thị trường Trung Đông Trung Đông là khu vực nhạy cảm nên nhìn chung xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào tình hình chính trị khu vực này trong thời gian tới. Trong thời gian trước mắt, ta cần tranh thủ giao hàng nhanh, gọn. Để hạn chế rủi ro, các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm chiến tranh đối với hàng hoá giao đến tận kho Irắc. Ngoài ra, cần đẩy mạnh thâm nhập các thị trường khác trong khu vực này thông qua thiết lập trung tâm thương mại Việt Nam tại Đubai hoặc tham gia các hội chợ, triển lãm tổ chức định kỳ. II. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHẰM ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 1. Nhóm giải pháp tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 1.1. Biện pháp xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực, trong thời gian qua chúng ta đã tập trung vào xây dựng 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực như đã phân tích ở trên.Trong những năm sắp tới, cần xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Cần phát hiện sớm những mặt hàng có tiềm năng để ưu tiên phát triển nhằm thay thế cho những mặt hàng có nguy cơ giảm sút kim ngạch và sản lượng sản xuất và xuất khẩu. Riêng đối với hàng công nghiệp chế biến, kể cả hàng điện tử, hàng cơ khí cần tăng cường xuất khẩu vì nó không chỉ thu được ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhưng vấn đề cấp thiết là nâng cao trình độ công nghệ, hạ giá thành sản phẩm và tìm được thị trường tiêu thụ. Với xu thế tự do hoá thương mại, mở rộng quan hệ với các nước và hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh một cách ổn định thì các hàng công nghiệp chế biến của ta cũng đang dần chiếm lĩnh và mở rộng thị trường trên thị trường quốc tế. Đối với hàng nông sản xuất khẩu, do yêu cầu chất lượng ngày càng cao và giá cả ngày càng hạ nên chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất, hạn chế số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng, tăng cường khâu chế biến sâu và tinh, tìm kiếm các loại thị trường dễ chấp nhận. Chẳng hạn, các mặt hàng như gạo, cà phê không nên chạy theo số lượng mà phải chuyển đổi giống có chất lượng gạo cao, tăng cường trồng cà phê Arabica, đầu tư vào khâu chế biến và tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong khu vực Trung Đông, các nước SNG. Với mặt hàng thuỷ hải sản cần tăng khối lượng các mặt hàng có giá trị cao và tăng cường chế biến tinh các sản phẩm ăn liền có khẩu vị đặc trưng và đi vào các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ... 1.2. Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu, các làng nghề truyền thống a/ Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu Khi thị trường đã được mở thì điều quan trọng là phải có đủ hàng hóa có chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì vậy, bên cạnh việc tìm kiếm khách hàng và thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu cần dành sự quan tâm thích đáng đối với các chương trình phát triển nguồn hàng tập trung cho xuất khẩu, nhất là đối với những mặt hàng rau, hoa quả, thịt lợn và thủ công mỹ nghệ. Qua khảo sát thị trường Hoa Kỳ, có thể nhận thấy nhu cầu của thị trường này đối với sản phẩm rau quả chế biến như nước dứa cô đặc, nước vải, dừa, lạc tiên... là rất lớn, một số mặt hàng nhu cầu vượt xa mức sản xuất và năng lực chế biến của ngành rau quả hiện nay. b/ Phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống Các sản phẩm của làng nghề truyền thống như đồ thủ công mỹ nghệ, tơ thô, lụa tơ tằm, gấm, lụa vân, sản phẩm may mặc từ lụa tơ tằm hiện đang được đánh giá cao trên thị trường thế giới, lại thuộc nhóm hàng có nhu cầu ngày càng cao trong khi nguồn cung cấp rất hạn chế do ít nước trên thế giới có điều kiện sản xuất mặt hàng này, đồng thời thuộc danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong 5 năm gần đây. Vì vậy, mặt hàng này cần được chú trọng phát triển. Để có thể khai thác lợi thế về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống tiêu biểu này, cần phải có giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống thông qua sự trợ giúp về vốn và thiết bị kỹ thuật, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kinh nghiệm truyền thống, tìm kiếm thị trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm. Một biện pháp có hiệu quả trong kinh doanh các sản phẩm truyền thống là xuất khẩu tại chỗ qua bán hàng và giới thiệu sản phẩm cho khách du lịch. Hiện nay, hầu hết các làng nghề đều đang gặp phải những vấn đề trong việc tiếp cận thông tin thị trường, nguồn vốn đầu tư, năng lực quản lý và đổi mới công nghệ. Đây là những lĩnh vực rất cần có sự quan tâm và trợ giúp của Nhà nước. Chính phủ nên hỗ trợ xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển các làng nghề TCMN truyền thống (nhất là các dự án về thông tin thị trường, nâng cao chất lượng, năng lực quản lý, tiếp thị, phát triển thương hiệu...), qua đó góp phần phát triển nguồn hàng xuất khẩu chủ lực ổn định và có chất lượng cao. 2. Nhóm biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu Trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, chất lượng hàng hoá là một yếu tố quan trọng để giữ được bạn hàng và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì vậy để giữ vững và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài thì khâu kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu đầu vào, kiểm soát chất lượng sản phẩm đầu ra phải được thực hiện nghiêm ngặt, tạo bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào ổn định, đúng hạn. Nhất là trong khi có tới 7 trong tổng số 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt nam thuộc nhóm hàng nông thuỷ sản, cho nên cần lưu ý bảo quản tốt nguyên liệu đầu vào, tránh hàng xuống phẩm cấp. Doanh nghiệp sản xuất cần tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên mua hàng nước ngoài về công nghệ, quy trình sản xuất, chất lượng theo đúng mẫu hàng hoặc tài liệu kỹ thuật bên mua hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì, tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra bắt buộc là một biện pháp cần thiết. 2.2. Đảm bảo yêu cầu về giao hàng Giao hàng đúng hạn là một yêu cầu rất khắt khe của các nhà nhập khẩu nước ngoài, nhất là trong giai đoạn gần đây và trong tương lai, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được đẩy mạnh thâm nhập vào EU và Mỹ, đây là những thị trường nổi tiếng trong sự khắt khe về giao hàng đúng hạn. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động trong khâu sản xuất và vận chuyển bốc dỡ hàng. 2.3. Phát triển và đăng ký thương hiệu Phát triển và đăng ký thương hiệu là những vấn đề còn mới đối với đa số doanh nghiệp Việt Nam nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp cũng như khẳng định vị thế hàng hoá của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây là việc mà doanh nghiệp phải tự làm là chính. Do vậy, Nhà nước cần khuyến khích phát triển dịch vụ tư vấn thương hiệu và đăng ký thương hiệu. Nếu ngành này ở Việt Nam chưa phát triển, Nhà nước có thể cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được sử dụng dịch vụ của nhà cung ứng nước ngoài. Chi phí tư vấn thương hiệu và đăng ký thương hiệu nên được tính vào chi phí kinh doanh, không phải chịu thuế và không hạn chế mức trần. 2.4. Công tác đầu tư và liên doanh liên kết Như đã trình bày ở chương 1, mặt hàng xuất khẩu chủ lực có 3 đặc điểm, trong đó đặc điểm về thị trường ổn định, rộng lớn trong một thời gian tương đối dài và đặc điểm điều kiện sản xuất trong nước hiệu quả chính là 2 đặc điểm hết sức quan trọng. Song suy cho cùng, để đạt được 2 yêu cầu này đều phụ thuộc lớn vào công tác đầu tư có đúng mức không, việc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả không, quy mô có hợp lý không. Vì vậy, công tác đầu tư và liên doanh liên kết nhằm huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là một biện pháp quan trọng trong nhóm biện pháp nhằm xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nguồn vốn đầu tư thường được huy động từ 2 nguồn chính: Nguồn vốn trong nước Nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước, một giải pháp có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Biện pháp này còn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp, cần thực hiện các biện pháp nhằm giải quyết các vướng mắc đang làm chậm tiến trình này như những bất cập trong đánh giá tài sản doanh nghiệp, trong các chính sách đối với các đối tượng mua cổ phần, hiện tượng “phân biệt đối xử” trong quyền được hưởng các ưu đãi như được vay vốn tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhà nước giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá hiện vẫn tồn tại ở nhiều địa phương. Nguồn vốn nước ngoài Nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phục vụ cho việc xây dựng các mặt hàng chủ lực cần: + Bổ sung một số điều khoản ưu đãi vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các cây nông nghiệp như lúa, rau quả, cây công nghiệp ở luật đầu tư nhằm tạo sự thông thoáng hơn nữa. Làm như vậy sẽ tăng được nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp. + Đưa ra thêm các điều kiện ưu đãi , tạo ra các khu vực thuận lợi về cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp, cần thành lập một số khu vực dạng khu chế xuất hoặc khu công nghiệp tập trung để gieo trồng, chế biến (công nông nghiệp kết hợp) ở Việt Nam. + Đầu tư một cách dồng bộ từ khâu bắt đầu sản xuất đến khi có sản phẩm xuất khẩu (gồm cả bao bì, bao gói, kho tàng, phương tiện vận tải). 3. Nhóm biện pháp tài chính 3.1. Đơn giản hoá thủ tục và mở rộng điều kiện vay vốn cho doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt nam, vấn đề vay vốn từ ngân hàng hay các tổ chức cung cấp tín dụng để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, nhất là đối với các hợp đồng xuất khẩu những mặt hàng chủ lực với khối lượng lớn luôn là mối quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, mỗi khi doanh nghiệp muốn vay vốn thường phải qua rất nhiều các thủ tục và rất mất thời gian. Do đó, điều mà các doanh nghiệp mong muốn là Nhà nước xem xét và quy định đơn giản hoá hơn nữa thủ tục cũng như mở rộng điều kiện vay vốn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, các tổ chức kinh tế đang tham gia xuất khẩu 3.2. Áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá cả của một loại tiền tệ được biểu hiện qua một loại tiền tệ khác. Sự thay đổi tỷ giá do chính phủ các nước thông qua ngân hàng nhà nước công bố. Mỗi khi tỷ giá thay đổi có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Khi đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ sẽ làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ thâm nhập vào thị trường nước ngoài dẫn đến xuất khẩu tăng nhưng nhập khẩu giảm. Trái lại, khi đồng nội tệ tăng giá so với ngoại tệ thì sẽ làm cho hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng nội, điều này dẫn đến nhập khẩu tăng nhưng xuất khẩu giảm. Song không phải vì muốn đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà thực hiện phá giá đồng nội tệ mạnh và đột ngột. Bởi lẽ, việc phá giá đột ngột sẽ không chỉ gây ảnh hưởng không lường tới việc nhập khẩu những thiết bị đầu vào quan trọng phục vụ việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà còn ảnh hưởng cả những ngành liên quan khác hỗ trợ việc sản xuất và xuất khẩu hàng chủ lực. Chính vì vậy, Chính phủ nên điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt căn cứ vào từng điều kiện, thời gian khác nhau. Trong thời gian trước mắt, không nên duy trì trị giá đồng nội tệ quá cao so với các đồng tiền của các nước xuất khẩu có danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực tương đối giống Việt Nam, ví dụ như Thái Lan, Malayxia 4. Nhóm giải pháp thị trường- Marketing 4.1. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu thị trường Yếu tố sống còn quyết định một loại hàng hoá có khả năng tồn tại và phát triển hay không đó là nó phải được thị trường chấp nhận. Vì vậy, vấn đề xây dựng cơ cấu thị trường thực chất cũng là một nội dung chính trong chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mỗi loại thị trường đòi hỏi một loại mặt hàng nhất định, trái lại tuỳ theo khả năng sản xuất mà tìm thị trường để bán được nhiều hàng với giá cao nhất nhằm thu được lợi nhuận cao. Về chính sách cơ cấu thị trường trong giai đoạn tới, trước hết phải rất coi trọng thị trường láng giềng và thị trường khu vực, trong đó chú ý tới thị trường Trung quốc, thị trường các nước ASEAN vì đây là những thị trường gần ta, có quan hệ quen biết lâu đời, có thị hiếu và phương thức tiêu dùng tương đối giống ta. Đối với thị trường ASEAN, chúng ta tích cực và nghiêm chỉnh thực hiện AFTA, thực hiện CEPT theo lịch trình đã cam kết. Loại thị trường cũng cần được ưu tiên nữa đó là thị trường các nước thuộc SNG và các nước Đông Âu là những bạn hàng lâu đời của ta. Trong đó, cần quan tâm đặc biệt đến thị trường Nga vì đây là thị trường rộng lớn, dễ tính, có quan hệ lâu đời với ta, nhưng đã bỏ qua gần một thập niên vừa qua, nay đang có cơ hội nối lại nhất là khi thực hiện cam kết trả nợ 1,6 tỷ USD trong vòng 23 năm, trong đó 90% món nợ được trả bằng hàng hoá. Chúng ta cũng cần coi trọng thị trường Nhật Bản, EU và Mỹ vì đây là những thị trường có tiềm năng to lớn cả về nhu cầu hàng tiêu dùng cao cấp, có trình độ khoa học công nghệ và trình độ quản lý cao, có nhiều điều kiện cho ta tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ và tri thức quản lý. Đây cũng là thị trường vừa tạo cơ hội, vừa đòi hỏi bức thiết để chúng ta đổi mới quản lý kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ tuỳ theo nhu cầu và khả năng của mình. Để đạt được cơ cấu thị trường này, đương nhiên cần có chính sách thích hợp đưa hoạt động thương mại nước ta tham gia tích cực vào thị trường thế giới. 4.2. Tham gia vào cộng đồng thương mại quốc tế Thực hiện chủ trương của Đảng về việc đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế, gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khi cần thiết và có điều kiện, nước ta đã trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN và AFTA vào năm 1995, của ASEM vào năm 1996 và của APEC vào năm 1998. Với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và hiện đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này. Gần đây, sau hơn 4 năm đàm phán, hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết theo những tiêu chuẩn của WTO, đánh dấu một bước mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có những chính sách thương mại đúng đắn để Việt Nam có thể chủ động hội nhập thành công, tận dụng được các thời cơ và giảm thiểu những thách thức. Chúng ta cần nhanh chóng áp dụng và khai thác triệt để mọi phương thức kinh doanh đối ngoại, sử dụng hệ thống tín dụng quốc tế, tham gia các sở giao dịch quốc tế, hoàn chỉnh các thể chế và tổ chức xúc tiến xuất khẩu, xây dựng và nâng cao chất lượng của các cơ quan thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài. 4.3. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải "cung cấp đầy đủ thông tin" cho họ nhưng thực ra cái mà doanh nghiệp cần không phải là thông tin mà là kết quả phân tích thông tin. Trong hoàn cảnh dịch vụ phân tích thị trường và tư vấn doanh nghiệp còn chưa phát triển, Nhà nước có thể cố gắng làm thay để đáp ứng nhu cầu bức xúc của các doanh nhân. Tuy nhiên, việc làm thay đó không thể kéo dài bởi sẽ gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ đợi thị trường, chờ đợi khách hàng sẽ ngày càng phát triển. Biện pháp tốt nhất là có chính sách để khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh dịch vụ nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin, rất cần phát triển thêm các dịch vụ khác như dịch vụ giao nhận và thông quan, dịch vụ phân tích tài chính, bao gồm cả phân tích rủi ro về tỷ giá, dịch vụ pháp lý, v.v. Cần có các chính sách phù hợp, kể cả mở cửa thị trường cho các công ty cung ứng dịch vụ nước ngoài để nhanh chóng phát triển các loại hình dịch vụ này. 5. Nhóm giải pháp thể chế- tổ chức 5.1. Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu Cần hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá theo xu hướng tự do hoá thương mại, xoá bỏ dần những cản trở đối với hoạt động ngoại thương, tạo mọi điều kiện cho xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu những mặt hàng chủ lực, đơn giản hoá hơn nữa thủ tục hành chính, chính sách quản lý phải rõ ràng, minh bạch, công khai để các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp thực hiện đúng. Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động ngoại thương thông qua hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy, xoá bỏ hoàn toàn tình trạng quản lý thông qua cơ chế “xin-cho”. Hoàn thiện hơn nữa Luật thương mại nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển. Các văn bản, các quy định cần được hoàn thiện và xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn, cân nhắc đến lợi ích trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính ổn định hơn. Bên cạnh đó, khi cần sửa đổi, bổ sung các văn bản cũng nên quy định thời hạn chuyển tiếp hợp lý, ít nhất là hai tháng tuỳ tính chất từng mặt hàng hay điều kiện cụ thể để cho các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị, đồng thời có biện pháp xử lý những tồn tại, những vướng mắc khi thay đổi chính sách. 5.2. Tạo lập môi trường cạnh tranh năng động Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với các thay đổi của môi trường ngoài để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường cạnh tranh năng động. Vì vậy, các chính sách và giải pháp trong thời gian tới đây cần tập trung hơn vào việc tạo ra môi trường ấy, qua đó buộc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước phải chú ý hơn đến các vấn đề như giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành, tự tìm đến lợi thế so sánh động trong một môi trường động. Theo hướng đó, cần tiếp tục tối đa hóa chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu, càng nhiều người tham gia càng tốt, tham gia được càng nhiều lĩnh vực càng tốt. Song song với đó, cần có chính sách để khuyến khích mạnh sự hình thành và phát triển của các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định nhanh. Cuối cùng, cần cố gắng bảo đảm cho tín hiệu thị trường không bị lệch lạc, giảm can thiệp sâu và giảm hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 5.3. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của hàng xuất khẩu mới, xuyên suốt từ hàng thô đến hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giá trị gia tăng (giá trị nội địa) của những mặt hàng đã có được cải thiện, tỉ trọng của hàng chế biến, chế tạo được nâng cao. Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng, cần phải có đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. kết hợp với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, những chế độ và chính sách này đã phát huy tác dụng rất tích cực trong việc tạo ra những mặt hàng xuất khẩu mới và dịch chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến, chế tạo. Vấn đề chính đặt ra là phải làm sao tăng cường được tính minh bạch và tính phổ cập của những ưu đãi này, đồng thời thi hành chúng một cách nhất quán trên thực tế, không để những khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính, về mặt bằng sản xuất... kìm hãm tác dụng tích cực của chúng. KẾT LUẬN Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là chính sách tất yếu trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng và trong hoạt động ngoại thương của tất cả các quốc gia trên thế giới và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền ngoại thương Việt Nam. Song, để các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam thực sự phát huy tất cả các tác dụng tích cực để xứng với vị trí “chủ bài” hay “quả đấm sắt” trong nền ngoại thương Việt Nam đòi hỏi phải có sự suy ngẫm, đánh giá và hành động của mỗi doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để nhận biết và tìm ra những giải pháp khắc phục đối với những tồn tại, hạn chế chủ quan cũng như tìm giải pháp ứng phó với những khó khăn thách thức từ bên ngoài mang đến, nhất là khi nước ta đã gia nhập ASEAN, AFTA và tiến tới xa hơn nữa sẽ trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc "xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam" đã, đang và sẽ là vấn đề cần nghiên cứu một cách hệ thống và đồng bộ sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Sự nghiên cứu này gắn liền với sự biến động của nền kinh tế thế giới có tham khảo kinh nghiệm quốc tế đồng thời cần được kiểm nghiệm trong thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX. 2. Chỉ thị số 22/2000/ CT_TTG ngày 27/10/2000 về chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010. 3. “Nghiên cứu cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp”- đề tài mã số: 2000-78-0009, Bộ thương mại, Hà Nội 02/2000( 67 trang) 4. “ Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010” - Báo cáo của Bộ Thương mại năm 2000. 5. “ Về chính sách thương mại quốc tế của nước ta trong tình hình mới” GS-TS Hồ Văn Vĩnh - Học viện chính trị quốc gia - Tạp chí Cộng sản số 14 (7/2001) 6. “Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và triển vọng vào thị trường EU” Thạc sĩ Nguyễn Thu Thuỷ- Đại học Ngoại thương, Thạc sĩ Nguyễn Tú Anh- Đại học Thăng Long- Tạp chí Những vấn đề KINH TẾ THẾ GIỚI SỐ 1(75) 2002. 7. “ Thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu 15 năm qua của Việt Nam” Từ Thanh Thuỷ- Viện Nghiên cứu Thương mại, Tạp chí Những vấn đề KINH TẾ THẾ GIỚI SỐ 4(72) 2001. 8. “Những giải pháp mạnh cho xuất khẩu” Báo Hà nội mới ngày 20-2-2003 9. “Thương mại cần một cách nhìn mới, cách làm mới” Báo Thương mại ngày 25-2-2003 10. “Dầu khí nhìn xa trông rộng”- Thanh Hoa- Tạp chí Thương mại số 28 (1/2001) 11. Industrial policies for Pacific Economic Growth- tác giả: Mutoh, Sekiguchi, Suzura, Yamazawa, 1998. 12. Examining Asia’s Tigers: Nine economies challenging common Structure Problem- Institute of Developing Economic (IDE) Tokyo, July 1999. 13. Giáo trình kinh tế ngoại thương: GS-TS Bùi Xuân Lưu 14. “ Một số vấn đề về định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003” - Báo cáo của Bộ Thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8382.doc