Đặc biệt, tinh thần doanh nghiệp thể
hiện tập trung ở sự dám nghĩ, đầu tư thông
minh và nâng cao năng suất và chất lượng,
giảm giá thành sản phẩm trên cơ sở coi
trọng thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài,
nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, ứng
dụng công nghệ, thiết bị sản xuất và quản
trị doanh nghiệp tiên tiến. Tinh thần doanh
nghiệp không chỉ đòi hỏi sự chủ động, tự
giác và tự thân của cộng đồng và từng doanh
nghiệp, mà còn cần được hun đúc, tôn vinh,
chia sẻ và hỗ trợ từ cả hệ thống chính trị
và xã hội; Theo đó, Chính phủ cần đột phá
mạnh mẽ hơn về tư duy và thể chế; tập trung
“kiến tạo” môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển, lấy sự hài lòng của doanh
nghiệp, người dân làm thước đo hiệu quả;
đổi mới nền giáo dục và đào tạo nghề quốc
gia theo hướng thông minh và đi trước một
bước, bảo đảm người lao động được chuẩn
bị tốt các kỹ năng và phẩm chất cần thiết để
hòa nhập và tái hòa nhập thị trường lao động
xã hội; phát triển thị trường công nghệ, cơ sở
hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp,
nhất là thị trường tài chính đầu tư cho phát
triển nghiên cứu, sáng chế và thuận lợi trong
thương mại hóa ý tưởng kinh doanh và sáng
tạo, để tinh thần cởi mở, sự hứng khởi và
niềm tin của các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư, người dân lan tỏa trong xã hội và thị
trường Việt Nam.
Thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp
trong bối cảnh CN 4.0 là thúc đẩy quá trình
kiến tạo và đổi mới, đột phá về công nghệ,
ý tưởng và chính sách, phát huy các lợi
thế và tận dụng các cơ hội, thích ứng với
các thách thức mới, dũng cảm lựa chọn
các định hướng mới và khai thác hiệu quả
các động lực mới, ngày càng nhận thức rõ
hơn về tương lai; không ngừng chủ động,
sáng tạo và hoàn thiện mình để trở thành
“Doanh nghiệp Thông minh” của “Quốc gia
Thông minh” trên hành trình xây dựng một
đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”; góp phần
xây dựng cộng đồng kinh tế - doanh nghiệp
ASEAN tự cường, sáng tạo, ngày càng lớn
mạnh, phồn vinh - đối tác lựa chọn hấp dẫn
và đầy tiềm năng của những doanh nghiệp
toàn cầu ■
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điểm nhấn phát triển kinh tế Việt Nam sau hai năm đại hội đảng toàn quốc khóa XII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐIỂM NHẤN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
SAU HAI NĂM ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC KHÓA XII
Tóm tắt:
Đã nửa chặng đường (2016-2020) thực hiện nghị quyết Đại hội
XII về phát triển kinh tế, có thể thấy, đất nước ta có nhiều thay đổi
tích cực, với nhiều chỉ tiêu kinh tế của cả nhiệm kỳ đã được hoàn
thành. Thành công đó là nhờ sự nỗ lực vào cuộc chung của toàn hệ
thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.
Nguyễn Minh Phong*
Nguyễn Trần Minh Trí**
* TS. Phó Vụ trưởng, Phó Ban tuyên truyền lý luận Báo Nhân dân
** ThS. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Abstract
It is on the half way (2016-2020) of enforcement of the Resolution
of the 12th Section Party on economic developments. It can be
seen that our country has reached a number of positive changes,
with completion of several economic targets of the whole period.
The said success is due to the efforts of the whole political system,
the enterprise community and the whole people.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kinh tế, xã hội, phát triển,
Chính phủ, doanh nghiệp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 27/11/2018
Biên tập : 10/12/2018
Duyệt bài : 17/12/2018
Article Infomation:
Keywords: economics; society;
developments; Government; enterprise
Article History:
Received : 27 Nov. 2018
Edited : 10 Dec. 2018
Approved : 17 Dec. 2018
1. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng
nhanh và đồng đều, hai năm liên tiếp đạt
và vượt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra
Ở trong nước, theo Báo cáo báo cáo
của Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị
quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2018, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2019, về tổng thể, năm
2018 tiếp tục là năm thứ hai liên tiếp Việt
Nam có thể hoàn thành toàn bộ 12 chỉ tiêu
kế hoạch cả năm đề ra, với 8 chỉ tiêu hoàn
thành vượt mức. Tốc độ tăng trưởng ước đạt
trên 6,7%, quy mô GDP khoảng 240,5 tỷ đô
la Mỹ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực;
tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh từ
17,4% năm 2015 xuống 14,8% năm 2018;
tỷ trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ
tăng từ 82,6% lên 85,2%, vượt mục tiêu đề
ra vào năm 2020 là 85%. Thu ngân sách nhà
nước (NSNN) ước cả năm vượt 3% dự toán
và bội chi ngân sách ở mức 3,67% GDP; nợ
công khoảng 61,4% GDP. Xuất khẩu ước
CHÑNH SAÁCH
82 Số 2+3(378+379) T1/2019
tăng 11,2% và xuất siêu hơn 3 tỷ đô la Mỹ.
Giải ngân vốn FDI ước đạt 18 tỷ USD, tăng
2,8% so với năm 2017. Tổng vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội ước đạt 34% GDP. Dự
trữ ngoại hối nhà nước đạt 67 tỷ USD vào
tháng 6 năm 2018. Tỷ lệ nợ xấu nội khối
còn 2,18%. Mức tăng trưởng tín dụng của
nền kinh tế đạt 9,52%, thấp hơn mức tăng
11,02% của năm 2017 trong khi GDP tăng
cao hơn, điều này cho thấy hiệu quả đầu tư
xã hội đang được cải thiện, giảm bớt phụ
thuộc vào vốn đầu tư.
Trong năm 2018, có khoảng 130 nghìn
doanh nghiệp đăng ký mới và khoảng gần
21,2 nghìn hợp tác xã và 61 liên hiệp hợp
tác xã, trong đó có 13 nghìn hợp tác xã hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp, thu hút 6,4
triệu thành viên tham gia.
Cả nước đã phê duyệt phương án cơ
cấu lại 51 tổ chức tín dụng và tăng cường
kiểm tra, giám sát thực hiện; tỷ lệ nợ xấu
giảm còn khoảng 2%. Tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) dù chậm,
nhưng thực chất hơn, với việc bán cổ phần
lần đầu 20 doanh nghiệp thu về 20,3 nghìn
tỷ đồng; thoái vốn thu về 7,9 nghìn tỷ đồng;
tập trung khắc phục hạn chế, bất cập; xử lý
nghiêm các sai phạm, thu hồi tài sản nhà
nước; thành lập, đưa vào hoạt động Ủy ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Cả nước tạo việc làm cho trên 1,62
triệu lượt người, trong đó đưa trên 126 nghìn
lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ trọng
lao động trong nông nghiệp giảm còn 38,2%
(mục tiêu đến 2020 là dưới 40%). Tỷ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị giảm còn 3,14%
(mục tiêu năm 2020 là dưới 4%). Tỷ lệ tham
gia bảo hiểm xã hội trong độ tuổi lao động
đạt 30,2%; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ước
đạt 86,9%, vượt chỉ tiêu đề ra (85,2%); gần
40% số xã và 55 huyện trên cả nước đạt
chuẩn nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo còn
5,2 - 5,7%, giảm 1 - 1,5% (riêng các huyện
nghèo giảm trên 4%).
2. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải
thiện mạnh mẽ
Năm 2017, Việt Nam cũng thăng hạng
vượt trội trong nhiều chỉ số xếp hạng quốc
tế về môi trường và kết quả kinh doanh. Việt
Nam đứng ở vị trí 68/190 quốc gia/nền kinh
tế, tức tăng 14 bậc so với năm 2016 (riêng
chỉ số tiếp cận điện năng tăng tới 32 bậc so
với năm 2016 và tăng 92 bậc so với năm
2013) trong Bảng xếp hạng chỉ số môi trường
kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB)
năm 2017 và tăng 23 bậc so với năm 2015.
Trong Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn
cầu năm 2018 (The Global Competitiveness
Report 2018) mà Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF) vừa công bố, Việt Nam đứng vị trí
thứ 77 trên tổng số 140 quốc gia và vùng
lãnh thổ trong bảng xếp hạng. Năm nay, 5
vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng lần lượt là Mỹ,
Singapore, Đức, Thụy Sỹ, Nhật Bản. Với vị
trí xếp hạng này, Việt Nam đã tụt 3 bậc so
với năm trước (năm trước Việt Nam xếp thứ
74/135). Tuy nhiên, tính theo thang điểm
0-100 điểm của bảng xếp hạng năm nay,
Việt Nam đạt 58,1 điểm, tăng nhẹ so với
mức 57,9 điểm vào năm 2017. Chỉ số đổi
mới sáng tạo năm 2017 của Việt Nam tăng
12 bậc so với năm trước (tăng 29 bậc so với
năm 2013) và điều chỉnh Chỉ số phát triển
quốc gia, vùng lãnh thổ Hệ thống ngân
hàng Việt Nam cũng mới được Tổ chức xếp
hạng tín nhiệm Moody’s (Moody's Investors
Service) nâng mức đánh giá triển vọng từ
“ổn định” lên “tích cực” trên cơ sở đánh giá
nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam đang trên
đà ổn định, cán cân thanh toán và vị thế đối
ngoại được cải thiện, môi trường hoạt động
của khu vực ngân hàng dần bình ổn.
CHÑNH SAÁCH
83Số 2+3(378+379) T1/2019
Theo Báo cáo năm 2017 của Phòng
Thương mại Mỹ (AmCham), Việt Nam
đang trở nên nổi bật với các cải thiện về môi
trường kinh doanh, 36% doanh nghiệp Mỹ
được khảo sát dự định sẽ mở rộng kinh doanh
tại Việt Nam, cao hơn so với 21% ở Thái
Lan, 19% của Malaysia. Khảo sát của Tổ
chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro)
năm 2017 cũng khẳng định, Việt Nam tiếp
tục là địa điểm đầu tư quan trọng của doanh
nghiệp Nhật Bản; trên 66% doanh nghiệp
được khảo sát cho biết có xu hướng “mở
rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam được Trung tâm
Nghiên cứu Pew xếp hạng đứng đầu thế
giới về đánh giá tích cực sự thay đổi cuộc
sống trong nửa thế kỷ qua, với 88% người
Việt được khảo sát cho rằng, cuộc sống hôm
nay tốt đẹp hơn 50 năm trước, cao hơn con
số tương ứng của Ấn Độ (69%), Hàn Quốc
(68%) và Nhật Bản (65%), Philippines
(43%) và mức trung bình 54% của châu
Âu, đặc biệt là so với con số chưa tới 37%
ở Mỹ Việt Nam cũng được Viện Nghiên
cứu Kinh tế và Hòa bình Australia xếp vị
trí an toàn số một trong Bản báo cáo Chỉ số
khủng bố toàn cầu (GTI) công bố cuối tháng
11/2017. Việt Nam xếp thứ 11/67 quốc gia
đáng sống đối với người nước ngoài và đã
có những tiến bộ vượt bậc trong các chỉ số
về môi trường làm việc, khả năng ổn định
và hòa nhập, theo kết quả của cuộc khảo sát
trực tuyến Expat Insider 2016, được thực
hiện bởi InterNations, mạng lưới cộng đồng
những người sinh sống và làm việc ở nước
ngoài lớn nhất thế giới, công bố trong quý
1/2017.
Theo Báo cáo của Chính phủ, ước đến
cuối năm 2018, cả nước đã cắt giảm, đơn
giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60%
thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất
nhập khẩu. Việt Nam được Tổ chức Oxfam
(Anh) xếp thứ 12/157 thế giới về mức giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp và nhóm 10 quốc
gia khu vực Đông Á - Thái Bình Dương cam
kết mạnh mẽ nhất cải cách chính sách thuế.
Công tác phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh,
đạt được nhiều kết quả cụ thể, rõ rệt. Hoạt
động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy
mạnh và mở rộng, góp phần nâng cao uy tín
và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Nhiều tổ chức quốc tế cũng khẳng
định triển vọng kinh tế tích cực của Việt
Nam. WB dự báo GDP năm 2018 theo giá
so sánh của Việt Nam tăng 6,8% (cao hơn
đáng kể so với dự báo 6,5% do chính tổ chức
này đưa ra hồi tháng 4/2018) và sẽ đạt mức
6,6% trong năm 2019 và 6,5% trong năm
2020. Lạm phát vẫn xoay quanh chỉ tiêu 4%
của Chính phủ; cân đối tài khoản vãng lai
ước tính sẽ tiếp tục thặng dư trong ngắn hạn,
nhưng mức độ thặng dư sẽ giảm dần từ năm
2019 do thâm hụt tăng lên ở tài khoản thu
nhập và dịch vụ; Nợ công sẽ được kiềm chế
trong mức trần. Còn Ngân hàng Standard
Chartered cho rằng, GDP năm 2018 của
Việt Nam sẽ tăng 7% và năm 2019 tăng đạt
6,9%. Việt Nam sẽ thu hút FDI 17 tỷ USD
mỗi năm giai đoạn 2018-2020; tỷ giá USD/
VND có thể lên 23.400 đồng vào cuối năm
2018, và sẽ mất giá nhẹ trong đầu năm 2019,
trước khi tăng giá nhẹ so với đồng USD vào
cuối 2019 nhờ sự hỗ trợ của các yếu tố tích
cực ở cả trong lẫn ngoài nước.
Đồng thời, trong năm 2018 cũng
chứng kiến sự gia tăng sức ép lạm phát gắn
với biến động tỷ giá, lãi suất, xu hướng tăng
giá dầu thô trên thị trường quốc tế và yêu cầu
thực hiện lộ trình giá thị trường đối với điện,
dịch vụ giáo dục, y tế... Sản xuất kinh doanh
nhiều lĩnh vực sẽ còn khó khăn. Khu vực
CHÑNH SAÁCH
84 Số 2+3(378+379) T1/2019
doanh nghiệp trong nước có sự chậm lại về
số đăng ký mới và tăng nhanh số dừng hoạt
động. Nếu so sánh về tỷ lệ, thì cứ 5 doanh
nghiệp đăng ký mới, lại có 3-4 doanh nghiệp
dừng hoạt động hoặc phá sản; tức số doanh
nghiệp “tăng ròng” trong cộng đồng doanh
nghiệp không nhiều và mục tiêu hướng tới
1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 là khó
khả thi. Điều này cho thấy, khu vực doanh
nghiệp đang gặp khó khăn và cũng đang có
sự lúng túng trong định hướng kinh doanh.
Cơ cấu lại ngành, lĩnh vực ở một số
nơi còn lúng túng, chưa đồng bộ, chưa gắn
với thị trường. Du lịch tuy có bước phát
triển nhanh nhưng còn bất cập. Năng suất
lao động, năng lực cạnh tranh; tỷ lệ nội địa
hóa của nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp. Phát
triển thương mại trong nước còn những hạn
chế. Công tác lập, quản lý quy hoạch còn
bất cập, nhất là trong việc thực hiện các quy
hoạch sử dụng đất, xây dựng, đô thị. Buôn
lậu, gian lận thương mại vẫn diễn biến phức
tạp. Việt Nam vẫn đang bị EU giơ thẻ vàng
cho ngành thủy sản và Mỹ áp thuế chống
bán phá giá khá cao cho cá tra
Về tổng thể, đến cuối năm 2018, cả
nước đã đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch cả
năm 2018, cũng như đạt 11 chỉ tiêu kế hoạch
5 năm 2016 - 2020 mà Nghị quyết Đại hội
Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội đã đề
ra; góp phần quan trọng trong việc củng cố
niềm tin, tạo không khí phấn khởi trong toàn
xã hội, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Cơ cấu kinh tế đang có sự chuyển dịch sâu
sắc hơn theo hướng phát triển công nghiệp
phụ trợ và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế,
trước hết với các nước thành viên tham gia
FTA với Việt Nam. Các nhóm hàng chủ lực
xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đa dạng
hơn; các ngành du lịch, nông nghiệp, thủy,
hải sản tiếp tục tăng trưởng thuận lợi. Nhóm
ngành dệt may, giày dép và gạo có khả năng
cạnh tranh nhờ giảm hàng rào thuế quan
và mua được nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm
chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp cũng
có thêm cơ hội tham gia đấu thầu mua sắm
công. Quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp
nhà nước và các ngân hàng thương mại đang
được đẩy mạnh hơn. Các hoạt động M&A
cũng được thúc đẩy cả bề rộng và bề sâu,
nhất là trong lĩnh vực bất động sản; sản xuất
và kinh doanh hàng tiêu dùng; ngân hàng và
cả dệt may, chế tạo cơ khí Thị trường các
hàng tiêu dùng sẽ có cải thiện với cơ cấu
hàng hóa phong phú hơn, giá rẻ hơn và chất
lượng từng bước được cải thiện. Hàng công
nghệ thông tin tiếp tục đa dạng hóa và giảm
giá nhanh do cạnh tranh và sự phát triển khoa
học công nghệ. Thị trường xuất khẩu lao
động tiếp tục tăng mạnh và là một trọng tâm
cải thiện việc làm và an sinh xã hội cho các
vùng, đối tượng liên quan. Thị trường bất
động sản từng bước hình thành một chu kỳ
tăng trưởng mới về quy mô, tốc độ, cân bằng
và hiệu quả hơn, với tiêu điểm là phân khúc
nhà ở xã hội và các căn hộ chung cư, mặt
bằng kinh doanh giá hợp lý, ở vị trí thuận
lợi, đủ cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội, được
tiêu thụ theo phương thức cho thuê, “thuê-
mua” và “mua-cho thuê” và được quản lý
bởi các công ty ủy thác, khai thác chuyên
nghiệp có trách nhiệm cao. Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò là
động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế,
nhất là xuất khẩu.
Những thành công trên là kết quả của
bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, với những nỗ
lực, sự chuyển động và đổi mới toàn diện cả
trong nhận thức, chỉ đạo và hành động quyết
liệt, sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị,
cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước
trên hành trình vượt qua chính mình và được
quốc tế công nhận.
CHÑNH SAÁCH
85Số 2+3(378+379) T1/2019
Đặc biệt, những kết quả trên đây cũng
là minh chứng đậm nét cho những nỗ lực
của Việt Nam trong quá trình tham gia và
khai thác các cơ hội, cũng như thực hiện các
hoạt động hoàn thiện thể chế kinh tế và hỗ
trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu
tư theo yêu cầu nội dung và lộ trình các cam
kết hội nhập trong khuôn khổ các FTA thế
hệ mới.
3. Tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu và
đồng bộ hơn
Trong hơn hai năm qua, quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam tiếp tục được đẩy
mạnh, với việc cùng ASEAN ký Hiệp định
Thương mại tự do với Hồng Kông và đặc
biệt là ký và thông qua CPTPP.
CPTPP tức TPP-11 được coi là Hiệp
định Thương mại tự do lớn thứ ba thế giới
hiện nay, với tổng dân số 500 triệu người,
tổng GDP vượt trên 10.000 tỷ USD, chiếm
khoảng 13,5% GDP toàn cầu và khoảng 14%
tổng thương mại thế giới. Đây là Hiệp định
có những tiêu chuẩn cao, tham vọng, toàn
diện và cân bằng với mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và duy trì việc
làm; tăng cường đổi mới, năng suất và sức
cạnh tranh; nâng cao mức sống; giảm đói
nghèo ở các nước ký kết; đồng thời thúc đẩy
quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ người lao
động, bảo vệ môi trường. CPTPP là kết quả
sự nỗ lực vượt qua chính mình của 11 thành
viên TPP, khẳng định xu hướng tiếp tục của
tự do hóa thương mại đầu tư quốc tế sau khi
Mỹ tuyên bố rút lui khỏi TPP và gia tăng các
động thái bảo hộ, gây nên nhiều quan ngại
và sự phản đối trên thế giới và ngay trong
lòng nước Mỹ. CPTPP gửi đi thông điệp
mạnh mẽ về sự cấp thiết và quyết tâm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại
và tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
CPTPP khi có hiệu lực sẽ thúc đẩy xu hướng
hợp tác trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương; đem lại lợi ích cho tất cả các nước
tham gia. Mục tiêu cuối cùng là mở cửa
thương mại và hội nhập cho toàn khu vực.
Thực thi CPTPP từ 31/12/2018 sẽ cho phép
giảm mức thuế trung bình Việt Nam đang
chịu khi xuất khẩu sang các nước CPTPP từ
khoảng 1,7% về khoảng 0,2% trong vòng
5-7 năm tới và cho phép Việt Nam tăng
thêm từ 1-3% GDP vào năm 2030; thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn
như Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico
cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các
ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu
cầu phát triển. Đồng thời, thúc đẩy cải cách
thể̉ chế́ trong nước, tạo môi trường đầu tư -
kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Đây
mới là các lợi ích mang tính lâu dài và đã
được minh chứng trong thời gian Việt Nam
tham gia đàm phán TPP.
Hiện Việt Nam đã cùng ASEAN hình
thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
vào cuối năm 2015; Kết thúc đàm phán
EVFTA Việt Nam với EU từ 2016 và triển
vọng sẽ được ký, thông qua năm 2019; Việt
Nam cũng đang đàm phán 6 FTA khác, như
EFTA (bao gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy,
Liechtenstein và Ai-xơ-len); FTA với Đài
Loan; FTA với Thổ Nhĩ Kỳ và FTA với
Ixraen (khởi động từ đầu tháng 12/2015)
Khả năng đến cuối năm 2019 sẽ kết thúc
đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế khu
vực toàn diện (RCEP). RCEP được xem
là Hiệp định thương mại mở rộng của 10
nước ASEAN với 6 đối tác đã ký FTA là
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia và New Zealand, với hơn 3 tỷ dân,
29% giá trị thương mại và 26% giá trị FDI
và 30% GDP toàn cầu (tức quy mô kinh tế
gấp đôi CPTPP).
CHÑNH SAÁCH
86 Số 2+3(378+379) T1/2019
Việt Nam tiếp tục vận động và được
nhiều nước công nhận là nền kinh tế thị
trường (theo Bộ Ngoại giao là 72 nước, tính
đến tháng 10/2018). Đồng thời, số các đối
tác chiến lược và đối tác toàn diện cũng tiếp
tục tăng, với 12 đối tác chiến lược toàn diện
và 16 đối tác chiến lược.
Đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước
ngoài tiếp tục tăng trong hơn hai năm qua;
Theo Tổng cục Thống kê, chỉ trong 9 tháng
đầu năm 2018, đã có 99 dự án mới, với tổng
vốn là 286 triệu USD; 23 dự án điều chỉnh
vốn với số vốn tăng thêm là 44,9 triệu USD;
có 30 quốc gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư
của Việt Nam, trong đó Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào là nước dẫn đầu với 95,2 triệu
USD, chiếm 28,8% tổng vốn đầu tư...
4. Nhiều cơ hội và thách thức mới
Năm 2019, cùng với sự phát triển
tiếp tục của công nghệ, nền kinh tế thế giới
có thể tăng trưởng chậm lại cả trên phạm
vi toàn cầu cũng như ở các nước phát triển
nhất, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản;
đồng thời, đang tiềm ẩn nhiều khó khăn,
thách thức cả về thương mại, tài chính, tiền
tệ và an ninh phi truyền thống, biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh
Năm 2019, Việt Nam sẽ tiếp cận những
cơ hội và thách thức mới từ nhiều hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới (như CPTPP,
FTA với EU), với yêu cầu cao hơn và phải
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, cả về
thuế quan, mở cửa thị trường, sở hữu trí
tuệ mà không còn được hưởng các ưu đãi
đặc thù cho giai đoạn chuyển đổi như trước.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2019 đã được Quốc hội thông qua trong
phiên họp ngày 8/11/2018; theo đó, 12 chỉ
tiêu chủ yếu được đề ra là: tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng 6,6% - 6,8%; tốc độ
tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%; tổng
kim ngạch xuất khẩu tăng 7% - 8%; tỷ lệ
nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu
dưới 3%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội khoảng 33% - 34% GDP; tỷ lệ hộ nghèo
(theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm
1% - 1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%;
tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới
4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60% -
62%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo
có văn bằng, chứng chỉ đạt 24% - 24,5%;
số giường bệnh/một vạn dân (không tính
giường ở Trạm y tế xã) đạt 27 giường; tỷ lệ
dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%;
tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang
hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập
trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%; tỷ lệ
che phủ rừng đạt 41,85%; phấn đấu thu hút
trên 18 triệu lượt khách quốc tế; tăng trưởng
khu vực dịch vụ đạt 7,5%...
Năm 2019 và tiếp theo, như Nghị
quyết phiên họp định kỳ tháng 10 và tháng
11/2018 của Chính phủ chỉ rõ, Việt Nam tiếp
tục tập trung cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực
hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng;
đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến và tận dụng có hiệu
quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát
lạm phát, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của
nền kinh tế; tăng cường quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai,
ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn
bộ máy, tinh giản biên chế; cơ cấu lại đội
ngũ công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp
CHÑNH SAÁCH
87Số 2+3(378+379) T1/2019
luật; quyết liệt phòng, chống tham nhũng;
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; củng
cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế.
Để đạt được các yêu cầu đó, cả nước
cần coi trọng củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, cải thiện mạnh mẽ môi trường
đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh, phấn đấu sớm vào nhóm các nước
dẫn đầu ASEAN, hướng đến tiêu chuẩn của
các nước phát triển (OECD). Thu hút đầu
tư nước ngoài có chọn lọc, ưu tiên sử dụng
công nghệ cao, thân thiện môi trường, tiềm
năng đóng góp, lan tỏa, gắn với phát triển
công nghiệp hỗ trợ.Tập trung rà soát, hoàn
thiện các cơ chế chính sách tạo đột phá
mạnh mẽ hơn nữa, bảo hộ quyền tài sản,
thí điểm các mô hình kinh doanh mới, hiệu
quả,nhất là những ngành, lĩnh vực ứng dụng
công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Phát triển mạnh các
thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản,
lao động và nhân lực chất lượng cao, khoa
học công nghệ; có cơ chế huy động, phân bổ
và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực; Cơ
cấu lại đầu tư công thực chất hơn, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Quyết liệt đổi mới
đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh cơ cấu
lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn
mới, phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
chế biến nông sản, liên kết chuỗi giá trị, bảo
đảm đầu ra, ổn định và tăng thu nhập cho
người dân. Phát triển hiệu quả, bền vững với
tầm nhìn dài hạn kinh tế rừng, kinh tế biển.
Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, chế
tạo, phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hỗ
trợ, công nghệ thông tin; khuyến khích ứng
dụng công nghệ cao, loại bỏ công nghệ lạc
hậu. Nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản
phẩm, đẩy mạnh quảng bá, xây dựng thương
hiệu du lịch; mở rộng áp dụng thị thực điện
tử và đơn phương miễn thị thực cho một số
địa bàn trọng điểm; thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả cơ chế điều phối vùng; phát huy
mạnh mẽ vai trò của các vùng kinh tế trọng
điểm, các trung tâm kinh tế, thành phố lớn.
Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai. Nâng cao hiệu quả sử dụng, khắc phục
tình trạng lãng phí các nguồn lực đất đai, tài
nguyên, khoáng sản. Giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường; huy động và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực cho bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu.
Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính; tăng
cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo; quyết liệt phòng chống tham
nhũng, lãng phí; đẩy mạnh công tác thông
tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội, tạo
niềm tin và khát vọng dân tộc; phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục kịp thời các sự cố mất
an toàn thông tin, an ninh mạng; làm tốt
công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần
chúng, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đang trên
đà phát triển, với những cải thiện tích cực về
môi trường đầu tư và cơ sở hạ tầng; quy mô
và chất lượng dân số, kiểm soát lạm phát và
mức nghèo; tăng dự trữ ngoại hối và xuất
khẩu, đầu tư tư nhân và thu hút vốn nước
ngoài Là một nước có thu nhập tầm trung
và đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế,
hiện đại hóa cơ cấu kinh tế, Việt Nam có
những thách thức riêng, trước hết liên quan
đến phát huy tinh thần khởi nghiệp doanh
nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh và năng lực
đổi mới sáng tạo cả vĩ mô và vi mô.
Cơ hội và thách thức mới trong bối
cảnh CN 4.0 đòi hỏi phát huy tinh thần
CHÑNH SAÁCH
88 Số 2+3(378+379) T1/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1- Báo cáo báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2018, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; Báo cáo giữa kỳ về kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm 2016-2020 tại Kỳ hợp thứ 6 Quốc hội khóa 14;
2- Báo cáo thống kê tình hình kinh tế - xã hội định kỳ hàng tháng của Tổng cục Thống kê các năm 2016, 2017, 2018;
3- Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ hàng tháng trong các năm 2016, 2017, 2018.
doanh nghiệp. Đó là tinh thần dũng cảm,
quyết tâm và ý chí làm giàu có tổ chức cho
mình và cộng đồng, trên cơ sở tuân thủ pháp
luật quốc gia và quốc tế, tự trọng, tự tôn, tự
hào dân tộc và đề cao trách nhiệm xã hội; sự
chủ động và linh hoạt trong phản ứng hiệu
quả với những biến động thị trường và chính
sách; xây dựng và củng cố sự gắn kết cộng
đồng, phát triển các chuỗi liên kết và cung
ứng giá trị quốc gia và quốc tế; tiếp cận 4.0
là dựa trên niềm tin, sự sáng tạo mà không
đánh mất bản sắc; xử lý hài hòa các lợi ích
và các khác biệt văn hóa trong kinh doanh,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cả trong
phạm vi quốc gia và khu vực
Đặc biệt, tinh thần doanh nghiệp thể
hiện tập trung ở sự dám nghĩ, đầu tư thông
minh và nâng cao năng suất và chất lượng,
giảm giá thành sản phẩm trên cơ sở coi
trọng thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài,
nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, ứng
dụng công nghệ, thiết bị sản xuất và quản
trị doanh nghiệp tiên tiến. Tinh thần doanh
nghiệp không chỉ đòi hỏi sự chủ động, tự
giác và tự thân của cộng đồng và từng doanh
nghiệp, mà còn cần được hun đúc, tôn vinh,
chia sẻ và hỗ trợ từ cả hệ thống chính trị
và xã hội; Theo đó, Chính phủ cần đột phá
mạnh mẽ hơn về tư duy và thể chế; tập trung
“kiến tạo” môi trường thuận lợi cho doanh
nghiệp phát triển, lấy sự hài lòng của doanh
nghiệp, người dân làm thước đo hiệu quả;
đổi mới nền giáo dục và đào tạo nghề quốc
gia theo hướng thông minh và đi trước một
bước, bảo đảm người lao động được chuẩn
bị tốt các kỹ năng và phẩm chất cần thiết để
hòa nhập và tái hòa nhập thị trường lao động
xã hội; phát triển thị trường công nghệ, cơ sở
hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp,
nhất là thị trường tài chính đầu tư cho phát
triển nghiên cứu, sáng chế và thuận lợi trong
thương mại hóa ý tưởng kinh doanh và sáng
tạo, để tinh thần cởi mở, sự hứng khởi và
niềm tin của các doanh nghiệp, các nhà đầu
tư, người dân lan tỏa trong xã hội và thị
trường Việt Nam.
Thúc đẩy tinh thần doanh nghiệp
trong bối cảnh CN 4.0 là thúc đẩy quá trình
kiến tạo và đổi mới, đột phá về công nghệ,
ý tưởng và chính sách, phát huy các lợi
thế và tận dụng các cơ hội, thích ứng với
các thách thức mới, dũng cảm lựa chọn
các định hướng mới và khai thác hiệu quả
các động lực mới, ngày càng nhận thức rõ
hơn về tương lai; không ngừng chủ động,
sáng tạo và hoàn thiện mình để trở thành
“Doanh nghiệp Thông minh” của “Quốc gia
Thông minh” trên hành trình xây dựng một
đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”; góp phần
xây dựng cộng đồng kinh tế - doanh nghiệp
ASEAN tự cường, sáng tạo, ngày càng lớn
mạnh, phồn vinh - đối tác lựa chọn hấp dẫn
và đầy tiềm năng của những doanh nghiệp
toàn cầu■
CHÑNH SAÁCH
89Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- diem_nhan_phat_trien_kinh_te_viet_nam_sau_hai_nam_dai_hoi_da.pdf