KẾT LUẬN
Cuộc CMCN 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên thế
giới và ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Đây là cơ
hội lớn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tuy nhiên, việc thiếu hụt lao
động chất lượng cao là vấn đề thách thức đang đặt
ra đối với Việt Nam trong đón bắt cơ hội của cuộc
Cách mạng này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc
dù có nhiều chuyển biến tích cực song chất lượng
lao động tại Việt Nam hiện nay còn chưa cao, kỹ
năng và năng suất lao động còn thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng
được yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Trên cơ sở đó,
giải pháp đặt ra trong thời gian tới là cần quan tâm
hơn nữa đến việc phát triển ngành tự động hóa,
đồng thời đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về
các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin,. đẩy
mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên
cứu công nghệ, nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Đồng thời xây dựng mối liên kết giữa nhà trường
và các doanh nghiệp, một mặt để tạo cầu nối cho
sinh viên có được môi trường thực hành thực tế,
đảm bảo kỹ năng do nhà trường đào tạo phù hợp
với kỹ năng mà doanh nghiệp cần. Mỗi cá nhân
người lao động phải nỗ lực học tập và trau dồi kiến
thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp,
trang bị kỹ năng để đáp ứng được yêu cầu mà
cuộc CMCN 4.0 đặt ra.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 299 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Định hướng nâng cao chất lượng lao động Việt Nam đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
93
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Định hướng nâng cao chất lượng lao động Việt Nam
đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Orientations for improving Vietnamese labor quality to meet
the requirements of the industrial revolution 4.0
Vũ Thị Lý, Nguyễn Thị Quỳnh
Email: lyvu1985@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 10/4/2020
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/8/2020
Ngày chấp nhận đăng: 30/9/2020
Tóm tắt
Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi sản xuất thông minh, trong đó, tương tác của người lao động với máy
móc được xác định. Những đặc điểm này đòi hỏi sự sáng tạo của những người lao động cũng có chuyên
môn và kỹ nĕng làm việc. Trong bối cảnh của công nghiệp 4.0, quản lý nguồn nhân lực phải đối mặt với
những thách thức mới về kiến thức và kỹ nĕng liên quan đến các công nghệ và quy trình mới. Nội dung
chủ yếu của bài báo tập trung phân tích hiện trạng chất lượng lao động tại Việt Nam, qua đó chỉ ra những
hạn chế về chất lượng lao động, và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động đáp
ứng được yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Chất lượng lao động; cách mạng công nghiệp; nâng cao chất lượng; chất lượng nguồn nhân
lực; lao động Việt Nam.
Abstracts
The Industrial Revolution 4.0 requires intelligent production, in which, workers’ interaction with machines
is determined. These characteristics require the creativity of workers who also have professional skills and
skills. In the context of Industry 4.0, human resource management faces new challenges of knowledge
and skills related to new technologies and processes. The main content of the paper focuses on analyzing
the current quality of labor in Vietnam, thereby pointing out labor quality limitations, and proposes some
solutions to improve the quality of labor to meet the requirements of the industrial revolution 4.0.
Keywords: Labor quality; industrial revolution; improving the quality and quality of human resources and
Vietnamese labor.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 sẽ tạo
ra những thay đổi lớn về cung - cầu lao động. Các
nhà kinh tế và khoa học quốc tế cảnh báo, trong
cuộc cách mạng này, thị trường lao động sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động
cũng như cơ cấu lao động. Trong một số lĩnh vực,
với sự xuất hiện của robot, số lượng nhân viên
cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Như vậy,
9/10 lao động còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc
thất nghiệp.
Bởi vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng này
đang đòi hỏi cấp bách những nguồn nhân lực mới,
ở tầm vĩ mô cấp quốc gia cũng như trong mỗi tổ
chức, doanh nghiệp. Sự thay đổi lao động sẽ xảy
ra toàn diện trong xã hội, trên nền kinh tế vĩ mô
cũng như ở mỗi tổ chức xã hội, mỗi doanh nghiệp
hoạt động, đặc biệt ở những lĩnh vực có liên quan
đến công nghệ thông tin hay chịu ảnh hưởng nhiều
từ nền tảng công nghệ mới này.
2. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 ĐẾN LAO ĐỘNG VIỆC LÀM TẠI
VIỆT NAM
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được coi như
điểm nhấn của kỷ nguyên số và nó có tác động
mạnh mẽ đến các ngành và nghề trong nền kinh tế
của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam - một quốc
gia có nguồn cung lao động khá dồi dào và ổn định
với hàng triệu lao động. Tác động của cuộc CMCN
4.0 đến lao động việc làm rất rõ rệt, cụ thể:
- Tác động đến số lượng, chất lượng việc làm thông
Người phản biện: 1. PGS. TS. Lưu Ngọc Trịnh
2. TS. Nguyễn Minh Tuấn
94
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
qua sự thay thế sức lao động bằng máy móc, robot,
trí tuệ nhân tạo và ứng dụng công nghệ thông tin
đối với một số ngành, nghề đang diễn ra nhanh
chóng thâm nhập nơi làm việc trên thị trường lao
động Việt Nam. Điều này cũng sẽ làm thay đổi bản
chất của việc làm, sẽ làm một số công việc biến
mất nhưng đồng thời sẽ tạo ra nhiều công việc
mới. Thậm chí, không phải là những công việc
nặng nhọc mà cả những công việc đòi hỏi chuyên
môn cao, có thể được tự động hóa một phần hoặc
hoàn toàn. Theo các chuyên gia của Diễn đàn kinh
tế Thế giới (WEF), các nghề có nguy cơ mất việc
làm cao nhất gồm: công nhân nhà máy (44%);
nhân viên thu ngân (40%); tài xế taxi (20%); nhân
viên chĕm sóc khách hàng (18%); phi công (16%).
Trong khi đó, có rất ít loại việc làm khó thay thế
bằng robot. Cũng theo WEF, đó là các công việc:
bác sĩ, y tá (3%); luật sư (4%); nhà báo (5%); nhà
nghiên cứu (6%); nông dân (11%),...[1] Những
công nghệ này có tiềm nĕng giải phóng lao động
Việt Nam khỏi những công việc có giá trị gia tĕng
thấp, từ đó tạo điều kiện cho lao động tham gia
vào những công việc ít nhàm chán, có giá trị gia
tĕng cao hơn. Đồng nghĩa với việc làm tĕng nĕng
suất của người lao động.
Nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị tốt thì CMCN
4.0 có thể sẽ dẫn đến mất việc làm ở một số ngành,
nghề thâm dụng lao động. ILO dự báo, trong 10
nĕm tới, ở Việt Nam, 70% số việc làm có rủi ro
cao (có xác suất bị thay thế trên 70%), 18% có rủi
ro trung bình (có xác suất bị thay thế từ 30-70%)
và 12% có rủi ro thấp (có xác suất bị thay thế dưới
30%) [5]. Có rủi ro được hiểu là những công việc
có thể bị thay thế bằng các hệ thống, máy móc
tự động hóa. Những ngành có rủi ro cao nhất bao
gồm: nông, lâm và thủy sản (với 83,3% số việc
làm có rủi ro cao); công nghiệp chế biến, chế tạo
(74,4% số việc làm có rủi ro cao); bán buôn, bán
lẻ (84,1% số việc làm có rủi cao) [5]. Ngay cả công
việc trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống ở Việt
Nam với đặc điểm là lao động thủ công và có tính
lặp đi lặp lại cao cũng có nguy cơ bị thay thế bởi
máy móc và thiết bị tự động. Những nghề có rủi ro
cao là: trồng trọt (khoảng 13,7 triệu việc làm); chĕn
nuôi (gần 3,2 triệu việc làm); làm vườn (1,0 triệu
việc làm); đánh bắt và nuôi trồng thủy sản (0,84
triệu việc làm) [2], Tuy nhiên, tự động hóa không
phải là mối đe dọa đối với người tìm việc, nếu họ có
kỹ nĕng. Hầu hết các nhà tuyển dụng đều cho rằng
số hóa sẽ làm tĕng khả nĕng tuyển dụng trong thời
gian tới. Chỉ có 10% dự đoán sẽ giảm số nhân lực
vì tự động hóa. Do đó, khi tự động hóa, hầu hết các
doanh nghiệp sẽ cần thêm người chứ không ít hơn.
- Tác động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu cuộc CMCN 4.0. Theo nhiều nghiên
cứu cho thấy, kỹ nĕng lao động cần thiết trong
CMCN 4.0 ngoài yêu cầu cứng về kỹ nĕng kỹ thuật
(mức trung bình và cao) bao gồm những kiến thức
và kỹ nĕng chuyên biệt thuộc về kỹ thuật nhằm thực
hiện công việc cụ thể thì cần phải có những kỹ nĕng
làm việc mềm hay cốt lõi như: khả nĕng tư duy sáng
tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ nĕng sử
dụng máy tính, internet, khả nĕng ngoại ngữ, kỹ
nĕng làm việc nhóm, kỹ nĕng an toàn và tuân thủ
kỷ luật lao động, kỹ nĕng giải quyết vấn đề, kỹ nĕng
quản lý thời gian, kỹ nĕng tập trung. Ở Việt Nam,
mặc dù lực lượng lao động khá dồi dào nhưng chất
lượng cung còn thấp và đang được cải thiện, tuy
nhiên quá trình này diễn ra khá chậm chạp.
- Với nền tảng công nghệ số, tích hợp tất cả các
thông tin về công nghệ, quy trình, phương thức sản
xuất, nhu cầu về ngành, nghề, kỹ nĕng... và nhất là
khả nĕng kết nối, chia sẻ trên toàn thế giới thông
qua các thiết bị công nghệ... sẽ làm thay đổi cách
thức kết nối giữa cung và cầu trên thị trường lao
động. Tình trạng người lao động chưa có những
kỹ nĕng cần thiết để đáp ứng yêu cầu của việc làm
hiện tại hay sau này, và có rất nhiều yếu tố khác
làm hạn chế khả nĕng nâng cao những kỹ nĕng đó
và thành công trong công việc [7]. Ở Việt Nam, tình
trạng thiếu trình độ, kỹ nĕng hiện nay sẽ gia tĕng
khi các xu hướng lớn bắt đầu có ảnh hưởng đến
bức tranh việc làm. Ngay cả những lao động có kỹ
nĕng phù hợp cũng chưa chắc sẽ tìm được những
việc làm phù hợp với trình độ hay sở thích của
mình. Nguyên nhân cơ bản là chưa có một điểm
nào hay nơi nào để người lao động, doanh nghiệp
có thể kết nối được với nhau một cách hiệu quả.
- Tác động lớn đến công tác phân tích, dự báo
thông tin thị trường lao động. CMCN 4.0 sẽ tác
động mạnh đến số lượng, chất lượng hay bản chất
chất của việc làm hiện tại và tương lai. Và hiện nay,
một lý do cơ bản là vì thiếu thông tin về cơ hội việc
làm, thiếu thông tin về chất lượng người lao động,
thiếu thời gian mà hạn chế lựa chọn công việc,
thiếu thu nhập nên khó chuyển sang những công
việc phù hợp hơn, hay một loạt những yếu tố khác
dẫn đến mất cân đối giữa cung cầu trên thị trường
lao động. Như vậy, làm thế nào để giải quyết vấn
đề trên, đó chính là công tác phân tích, dự báo
thông tin thị trường lao động. Tuy nhiên, hiện công
tác này ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khĕn.
Yêu cầu đối với người lao động đáp ứng cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0
- Người lao động phải là những chuyên gia, vững
95
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
về kiến thức chuyên môn, có nĕng lực tư duy và
sáng tạo, đổi mới, có kĩ nĕng phân tích và tổng hợp
thông tin, có khả nĕng làm việc độc lập, làm việc
nhóm và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích
các chứng cứ và dữ liệu.
- Người lao động cần thay đổi bản thân, thay đổi
tư duy đáp ứng nhu cầu mới và cần cập nhật kiến
thức mới với hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công
nghệ nhằm đáp ứng với thời đại mới.
- Cần kết hợp học tập công nghệ 4.0 với chia
sẻ kinh nghiệm giữa đồng nghiệp qua giao lưu,
kiểm tra chéo, tham quan doanh nghiệp trong và
ngoài nước.
- Cần chủ động nâng cao tính chuyên nghiệp, khả
nĕng làm chủ các hệ thống công nghệ hiện đại.
Tĕng khả nĕng ứng dụng công nghệ thông tin, áp
dụng công nghệ cao trong công việc.
3. THỰC TRẠNG LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG VIỆT
NAM HIỆN NAY
Việt Nam là nước có quy mô dân số lớn, tháp
dân số tương đối trẻ và đang ở thời kỳ “cơ cấu
dân số vàng” với nguồn nhân lực dồi dào nhất từ
trước đến nay. Theo kết quả tổng điều tra dân số
và nhà ở nĕm 2019 được tiến hành ngày 1/4/2019
theo Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 26/6/2018
của Thủ tướng chính phủ, dân số nước ta đạt hơn
96,2 triệu người, trong đó nam chiếm 49,8%, nữ
chiếm 50,2%. Gia tĕng dân số trong những nĕm
qua kéo theo gia tĕng về lực lượng lao động. Nhìn
chung, mỗi nĕm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu
người bước vào độ tuổi lao động. Đây là một lợi
thế cạnh tranh quan trọng của Việt Nam trong việc
thu hút đầu tư nước ngoài góp phần phát triển kinh
tế - xã hội. Thực trạng lực lượng lao động Việt Nam
thể hiện qua các vấn đề sau:
3.1. Quy mô và phân bố lực lượng lao động
Lực lượng lao động trung bình cả nước nĕm 2018
là 55,3542 triệu người, tĕng 530 nghìn người
(0,96%) so với nĕm trước. Lực lượng lao động
bao gồm 54,25 triệu người có việc làm và hơn 1,1
triệu người thất nghiệp. Nữ giới chiếm 47,8%, thấp
hơn nam giới (52,2%) (bảng 1). Tỉ lệ nữ trong lực
lượng lao động giữa thành thị và nông thôn chênh
lệch không đáng kể, nhưng lại có sự khác biệt giữa
các vùng. Đồng bằng sông Cửu Long ở mức thấp
nhất (44,1%) và cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng
(50,5%). Số liệu cho thấy, có sự ngược chiều về
mức độ tham gia vào lực lượng lao động giữa hai
giới ở hai vùng đồng bằng lớn của nước ta. Sự
phân bổ lao động chưa tạo điều kiện phát huy lợi
thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động và
tác động tích cực đến sự di chuyển lao động từ các
vùng nông thôn ra thành thị.
Bảng 1. Số lượng và phân bố lực lượng lao động, năm 2018
Nơi cư trú/vùng
Lực lượng
lao động
(Nghìn người)
Tỷ trọng (%) % Nữ tính
trên từng
vùngTổng số Nam Nữ
Cả nước 55.354,2 100 100 100 47,8
Thành thị 18.071,8 32,6 32,6 32,7 47,9
Nông thôn 37.282,4 67,4 67,4 67,3 47,8
Các vùng
Trung du và miền núi phía Bắc 7.684,4 13,9 13,4 14,4 49,5
Đồng bằng sông Hồng
Trong đó: Hà Nội
12.095,5
3.851,0
21,9
7,0
20,7
6,8
23,1
7,2
50,5
49,2
Bắc Trung bộ và duyên hải Miền Trung 11.959,6 21,6 21,2 22,1 48,9
Tây Nguyên 3.596,0 6,5 6,5 6,5 47,8
Đông Nam Bộ
Trong đó: Thành phố Hồ Chí Minh
9.351,6
4.469,0
16,9
8,1
17,5
8,5
16,2
7,6
46,0
45,2
Đồng bằng sông Cửu Long 10.667,0 19,3 20,7 17,8 44,1
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2018 [4])
Mặc dù có sự tĕng lên đáng kể về tỷ trọng lực
lượng lao động ở khu vực thành thị trong những
nĕm gần đây, nhưng vẫn còn 67,4% lực lượng lao
động nước ta tập trung ở khu vực nông thôn. Phần
lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp,
mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông
nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi.
Người lao động chưa được trang bị các kiến thức
96
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Số liệu cho thấy, ở các trình độ học vấn thấp (từ
chưa bao giờ đi học cho đến chưa tốt nghiệp tiểu
học) thì nữ chiếm tỷ trọng cao hơn nam, tuy nhiên
càng ở các trình độ cao thì nam lại chiếm tỉ lệ
cao hơn nữ. Trình độ học vấn của lao động Việt
và kỹ nĕng làm việc theo nhóm, không có khả nĕng
hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng
kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Lao động chủ
yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển: Nguồn cung lao động
ở Việt Nam hiện nay luôn xảy ra tình trạng thiếu
nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao. Tỷ lệ
lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ nĕng, tay
nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp
còn yếu nên khả nĕng cạnh tranh thấp. Tình trạng
thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình
kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền,
sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm việc
và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết
bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của
người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu
cầu đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một
bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn
về kỷ luật lao động công nghiệp.
3.2. Cơ cấu lao động có việc làm theo trình độ
học vấn
Tỷ trọng lao động có việc làm chưa bao giờ đi học
chiếm 3,6% trong tổng số người có việc làm, trong
đó nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (60,1%). Gần một
phần ba số lao động trong nền kinh tế đã tốt nghiệp
trung học cơ sở (29,4%).
Bảng 2. Cơ cấu lao động có việc làm theo trình độ học vấn và giới tính, năm 2018 (Đơn vị: %)
Trình độ học vấn Tổng số Nam Nữ % Nữ tính trên từng trình độ học vấn
Tổng số 100 100 100 47,8
Chưa đi học 3,6 2,7 4,5 60,1
Chưa tốt nghiệp tiểu học 9,9 9,2 10,7 51,4
Tốt nghiệp tiểu học 21,8 21,4 22,2 48,6
Tốt nghiệp THCS 29,4 28,9 30,0 48,7
Tốt nghiệp THPT 13,4 13,4 13,4 47,8
Có trình độ chuyên môn kỹ thuật 21,9 24,3 19,3 42,0
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm, năm 2018 [4])
Nam còn chưa cao. Số lượng lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật chiếm 21,9%. Điều này làm
giảm lợi thế cạnh tranh của lao động Việt Nam so
với lao động các nước khác trong khu vực.
Biểu đồ 1. Phân phối lao động việc làm theo trình độ học vấn của một số nước khu vực ASEAN
(Nguồn: Asean in transformation - the future of jobs at risk of automation [6])
97
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Biểu đồ 1 ở trên cho thấy, trình độ học vấn của lao
động Việt Nam còn ở mức thấp. Số lượng người lao
động tốt nghiệp trung học cơ sở trở xuống chiếm
đa số, khoảng 74%, số lượng người lao động có
trình độ trung học phổ thông chiếm khoảng 18%,
còn lại là sau trung học và đại học. So sánh với một
số nước trong khu vực, lao động có trình độ cao ở
Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia, nhưng thấp hơn
so với Thái Lan, Indonesia và đặc biệt thấp hơn rất
nhiều so với Philippines. Theo Ngân hàng Thế giới,
kỹ nĕng công nhân được đào tạo tại trường không
phù hợp với những kỹ nĕng mà doanh nghiệp cần
còn rất lớn, trong đó gần 65% chủ doanh nghiệp
FDI cho rằng những kỹ nĕng mà các trường dạy
nghề và Trung học chuyên nghiệp đào tạo không
đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Tỷ lệ
này ở các doanh nghiệp trong nước còn thấp hơn,
chỉ khoảng 35%. Như vậy, để nâng cao nĕng suất
lao động cần phải giảm sự khác biệt giữa kỹ nĕng
được đào tạo và kỹ nĕng mà doanh nghiệp cần.
Có thể thấy, trong cuộc CMCN 4.0 với sự mở rộng
ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin,
điều khiển, tự động hóa thì lao động Việt Nam sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, người lao
động sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm khi
quá trình tự động hóa và robot thay thế con người
trong toàn bộ nền kinh tế. Do đó, vấn đề đào tạo
lao động đáp ứng được yêu cầu của các doanh
nghiệp đặc biệt trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 rất
cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
3.3. Trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ nĕng
lao động
3.3.1. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Mặc dù, chất lượng lao động Việt Nam đã được cải
thiện liên tục trong những nĕm gần đây nhưng nhìn
chung tỉ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở
nước ta vẫn còn thấp.
Trong tổng số lực lượng lao động gồm 55,35 triệu
người từ 15 tuổi trở lên trên cả nước, chỉ có khoảng
12,2 triệu người đã được đào tạo, chiếm 22,0%
tổng lực lượng lao động [3].
Hiện cả nước có hơn 43,1 triệu người (chiếm 78%
lực lượng lao động) chưa được đào tạo để đạt một
trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Như vậy,
nguồn nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng
trình độ tay nghề và chuyên môn kỹ thuật còn thấp.
Bảng 3. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2018 (Đơn vị: %)
Nơi cư trú/vùng Tổng số Dạy nghề
Trung
cấp
Cao
đẳng
Đại học
trở lên
Cả nước 22,0 5,5 3,8 3,2 9,7
Nam 24,4 9,0 3,5 2,5 9,5
Nữ 19,5 1,7 4,1 3,9 9,9
Thành thị 37,9 7,8 5,4 4,7 20,0
Nông thôn 14,4 4,3 3,0 2,4 4,6
Các vùng
Trung du và miền núi phía Bắc 18,3 4,7 4,3 2,9 6,5
Đồng bằng sông Hồng
Trong đó: Hà Nội
30,7
46,8
8,5
9,5
4,4
5,9
4,0
5,3
13,7
26,1
Bắc Trung bộ và duyên hải Miền Trung 21,2 5,1 4,0 3,3 8,8
Tây Nguyên 14,2 3,2 3,2 2,2 5,7
Đông Nam Bộ
Trong đó: Thành phố Hồ Chí Minh
27,9
36,9
6,6
6,8
3,7
4,4
4,0
5,2
13,6
20,5
Đồng bằng sông Cửu Long 13,3 2,7 2,7 1,7 6,2
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2018 [4])
So sánh số liệu theo 6 vùng kinh tế - xã hội thì tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất ở vùng Đồng
bằng sông Hồng (30,7%) và thấp nhất là ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (13,3%). Tỷ trọng lực
lượng lao động có trình độ đại học trở lên khác
nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng này
cao nhất là Đồng bằng sông Hồng (13,7%) và thấp
nhất là Tây Nguyên (5,7%).
Tỷ lệ lao động qua đào tạo của nam cao hơn nữ và
ở khu vực thành thị cũng như nông thôn đều cho
thấy xu hướng này.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng
lao động Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang
điểm 10) xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia
được khảo sát tại châu Á. Như vậy, lao động nước
ta còn yếu về chất lượng, thiếu nĕng động và sáng
tạo, tác phong công nghiệp.
98
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Biểu đồ 2. Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo theo thành thị/nông thôn và giới tính
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2018 [4])
Trong khi đó, theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân
lực và thông tin thị trường lao động TP. Hồ Chí
Minh (Falmi), nhu cầu về lao động tại các doanh
nghiệp hiện nay đang phát triển theo hướng cần
nhân lực có trình độ cao, nhân lực qua đào tạo
chiếm đến 82,92%. Trong đó, nhu cầu nhân lực có
trình độ đại học trở lên chiếm 12,46%; cao đẳng
chiếm 17,04%; trung cấp chiếm 26,04%; sơ cấp
nghề - công nhân kỹ thuật lành nghề chiếm 27,38%.
Để thích ứng, tồn tại và phát triển trong bối cảnh
CMCN 4.0, các doanh nghiệp ngày càng có xu
hướng tiếp cận với các công nghệ sản xuất hiện đại
nhằm tĕng nĕng suất, giảm chi phí, rút ngắn thời
gian đưa sản phẩm ra thị trường. Mục đích cuối
cùng là để tĕng cường khả nĕng cạnh tranh và đặc
biệt là không bị tụt hậu về công nghệ. Vì vậy, các
doanh nghiệp sẽ có nhu cầu tuyển dụng lao động
có trình độ chuyên môn - kỹ thuật cao để vận hành
dây chuyền và tham gia vào các khâu sản xuất đòi
hỏi kỹ nĕng phức tạp. Tuy nhiên, hiện nay, phần
lớn lao động Việt Nam có trình độ chuyên môn - kỹ
thuật khá thấp, hầu như không thể đáp ứng được
yêu cầu của các doanh nghiệp. Không những hạn
chế về quy mô mà chất lượng lao động đã qua đào
tạo cũng không được đảm bảo, nhiều lao động dù
Biểu đồ 3. Phân phối lao động theo kỹ năng (theo tỷ lệ phần trăm) của một số nước khu vực ASEAN
(Nguồn: Asean in transformation - the future of jobs at risk of automation [6])
đã được đào tạo bài bản nhưng vẫn bị đánh giá là
có trình độ chuyên môn và kỹ nĕng thấp không thể
đáp ứng hoặc đáp ứng ở mức thấp các yêu cầu
của công việc. Bên cạnh đó, nhân lực nước ta yếu
về chất lượng, thiếu nĕng động và sáng tạo, tác
phong lao động công nghiệp. Với trình độ tay nghề
và chuyên môn như hiện tại thì lao động Việt Nam
cũng phải đối mặt với sự canh tranh mạnh mẽ từ
lao động của các quốc gia khác khi tham gia vào
Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
3.3.2. Kỹ nĕng của người lao động
Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF), Việt Nam thậm chí là nước có tỷ trọng lao
động kỹ nĕng thấp cao nhất trong khu vực: 41%
lao động Việt Nam có kỹ nĕng thấp, trong khi tỷ lệ
này ở Lào là 1% và ở Singapore là 8%. Theo báo
cáo trên, nhóm nước Việt Nam, Lào, Campuchia
và Myanmar có lực lượng lao động có kỹ nĕng
kém nhất trong ASEAN. Báo cáo khuyến nghị, các
nước này cần có một hệ thống dạy nghề và kỹ thuật
nhất quán hơn để phục vụ cho sự phát triển công
nghiệp, bởi lao động cả bậc thấp và bậc cao tại các
quốc gia này còn thiếu và yếu nhiều kỹ nĕng.
99
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Biểu đồ 3 cho thấy, kỹ nĕng của người lao động
Việt Nam phổ biến ở mức thấp, chiếm khoảng 41%,
trong khi kỹ nĕng cao chỉ chiếm 10%. So sánh với
một số nước ASEAN, thấy rằng, tỷ lệ người lao
động Việt Nam có kỹ nĕng ở trình độ thấp cao nhất,
trong khi kỹ nĕng ở trình độ cao lại thấp, chỉ đứng
sau Indonesia. Kết quả khảo sát của Ngân hàng
Thế giới đã từng nghiên cứu về mức độ đáp ứng
các kỹ nĕng của sinh viên tốt nghiệp đại học so với
yêu cầu của nhà tuyển dụng tại 7 quốc gia Đông
Á, trong đó có Việt Nam cho thấy, thái độ làm việc
được đánh giá ở mức thiếu hụt nghiêm trọng đối
với lực lượng lao động Việt Nam. Các kỹ nĕng tư
duy sáng tạo, kỹ nĕng công nghệ thông tin, kỹ nĕng
lãnh đạo, kỹ nĕng giải quyết vấn đề thiếu hụt lớn.
Báo cáo Phát triển Việt Nam nĕm 2018 cũng cho
thấy, người lao động không có kỹ nĕng phù hợp,
thiếu kỹ nĕng hoặc vì sự khan hiếm người lao động
trong một số ngành nghề - thiếu hụt người lao động
có tay nghề. Khảo sát của ILSSA - Manpower cũng
cho thấy, ý thức về chất lượng và đúng giờ/đáng
tin cậy là những kỹ nĕng thiếu hụt lớn nhất, với
khoảng 30% trong nhóm lao động trực tiếp và quản
lý phân xưởng.
Những kỹ nĕng thiếu hụt tiếp theo là khả nĕng thích
nghi với những thay đổi, khả nĕng làm việc nhóm,
khả nĕng nhận biết tiếp thu và ứng dụng công nghệ
mới, kỹ nĕng máy tính cơ bản. Điều này phản ánh
một thực tế là chất lượng đào tạo ở nước ta thấp,
lao động ở Việt Nam đang làm việc tại những vị trí
đòi hỏi trình độ đào tạo cao hoặc thậm chí thấp hơn
so với những kỹ nĕng đang có - thừa hoặc thiếu
hụt kỹ nĕng.
3.4. Nĕng suất lao động
Theo Vĕn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
tại Việt Nam, nĕng suất lao động Việt Nam thấp
hơn nhiều nước khu vực và chỉ ngang bằng với
Lào hoặc nhỉnh hơn Campuchia. Đào tạo nhân lực
ở Việt Nam lại chưa gắn với nhu cầu của thị trường
cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Thực tế cho
thấy, rất nhiều học sinh, sinh viên ra trường không
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Nguyên nhân chính dẫn đến nĕng suất lao động
của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực
và trên thế giới đó là: Thứ nhất, thể chế thiếu đồng
bộ, đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công
nghệ, thị trường bất động sản. Hệ thống pháp luật,
chính sách cho việc phát triển các loại thị trường
chưa hoàn chỉnh, chất lượng chưa cao và chưa
theo kịp sự phát triển của thị trường; Thứ hai là,
quy mô nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ với xuất phát
điểm thấp, quy mô kinh tế nhỏ; Thứ ba là, quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
nhưng còn chậm, các ngành công nghiệp, dịch vụ,
nhất là những ngành dịch vụ mang tính chất động
lực hay huyết mạch của nền kinh tế như tài chính,
ngân hàng, du lịch của Việt Nam còn chiếm tỷ trọng
thấp; Thứ tư, máy móc, thiết bị và quy trình công
nghệ còn lạc hậu; Thứ nĕm, chất lượng nguồn
nhân lực hạn chế; Thứ sáu là, trình độ tổ chức,
quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn
bất cập.
Theo Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2014
- 2018, nĕng suất lao động của Việt Nam có xu
hướng tĕng ở hầu hết các ngành kinh tế, bình quân
tĕng 4%/nĕm và tĕng mạnh nhất từ nĕm 2016 trở
đi. Điều này cho thấy xu hướng phục hồi tĕng
trưởng nhanh của nền kinh tế cũng như sự cải tiến
của nĕng suất lao động. Đến nĕm 2018, nĕng suất
lao động của Việt Nam tính theo giá hiện hành ước
đạt khoảng 102,4 triệu đồng mỗi lao động.
Biểu đồ 4. Năng suất lao động Việt Nam phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2014 - 2018
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2018 [4])
100
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
Biểu đồ 4 cho thấy, trong các khu vực kinh tế thì
công nghiệp là khu vực có nĕng suất lao động cao
nhất, trong khi đó, nông - lâm - thủy sản là khu vực
có nĕng suất thấp nhất. Nĕng suất lao động của
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ bằng
hơn 1/3 nĕng suất lao động trong khu vực công
nghiệp và bằng hơn 1/2 nĕng suất của khu vực
dịch vụ. Nĕng suất lao động thấp ở khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản là một trong những nguyên
nhân chính ảnh hưởng tới nĕng suất lao động xã
hội, bởi vì phần lớn lao động Việt Nam làm việc
trong khu vực này.
Nĕm 2019, NSLĐ của Việt Nam đạt 110,4 triệu
đồng/lao động (tương đương 4,791 USD/lao động,
tĕng 272 USD so với nĕm 2018). Theo sức mua
tương đương (PPP) 2011, NSLĐ Việt Nam nĕm
2019 đạt 11.757 USD, tĕng 1.766 USD; tĕng 6,2%
so với nĕm 2018, là nĕm có mức tĕng NSLĐ cao
nhất trong giai đoạn 2016-2019.
Nĕng suất lao động có thể được đo lường theo
nhiều cách. Sau đây là bảng xác định nĕng suất
lao động tính theo GDP với giá cơ bản không đổi
trên mỗi lao động của một số quốc gia khu vực
châu Á - Thái Bình Dương nĕm 2017.
Biểu đồ 5. So sánh năng suất lao động của Việt Nam với một số nước trong khu vực
(Nguồn: APO Productivity Database 2019 [8])
Biểu đồ 5 cho thấy, nĕng suất lao động của Việt
Nam vẫn còn rất thấp so với các quốc gia thuộc khu
vực châu Á - Thái Bình Dương. Trước đây, nĕng
suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Myamar
và Campuchia, nhưng ở thời điểm này, nĕng suất
lao động của Myamar đã vượt Việt Nam. Bên cạnh
đó, Lào là một quốc gia phát triển sau Việt Nam
nhưng nĕng suất lao động của Lào trong những
nĕm gần đây tĕng cao hơn Việt Nam và kết quả
Lào đã thu hẹp dần khoảng cách và nhanh chóng
bắt kịp nĕng suất lao động nước ta, và vào nĕm
2017, nĕng suất lao động của Việt Nam đã tụt hậu
so với Lào. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần
phải tìm ra được giải pháp để nâng cao nĕng suất
lao động nhằm tránh tình trạng tụt hậu quá xa so
với các nước trong khu vực.
4. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Nhằm tạo điều kiện cho người lao động Việt Nam
có thể tiếp cận thành tựu sản xuất mới, để tham
gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thích ứng với những
thay đổi mà cuộc CMCN 4.0 sẽ đem tới, cần có các
giải pháp sau:
Thứ nhất, đối với Nhà nước, cần hoàn thiện các cơ
chế chính sách về phát triển đội ngũ nhà giáo và đổi
mới cơ cấu hệ thống giáo dục - đào tạo trên cơ sở
khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ nĕng nghề
nghiệp, tiêu chuẩn kỹ nĕng mềm phù hợp với bối
cảnh đất nước và xu thế các nước trong khu vực
và trên thế giới. Xây dựng nội dung, chương trình
và phương pháp giáo dục đào tạo theo định hướng
phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; chú
trọng các môn học liên quan đến ứng dụng thực tế
cũng như rèn luyện trình độ ngoại ngữ và các kỹ
nĕng cần thiết cho người học. Xây dựng các tiêu
chí chất lượng và hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về
nĕng lực nghề nghiệp hội nhập quốc tế cũng như
rà soát, bổ sung quy hoạch mạng lưới các trường
cao đẳng, đại học đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhân
lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối
cảnh toàn cầu hoá. Đồng thời, tĕng cường các
hoạt động hợp tác song phương và đa phương
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo như: Nghiên cứu
khoa học, trao đổi học thuật; Đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên, cán bộ quản lý; Quản trị nhà trường; Tạo
điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và xã hội
101
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
để các nhà đầu tư nước ngoài mở các cơ sở giáo
dục chất lượng cao tại Việt Nam.
Thứ hai, đối với nước ta hiện nay, muốn ứng dụng
công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải nâng cao chất lượng
lao động bắt đầu ngay từ khâu đào tạo nghề, điều
chỉnh đào tạo nhân lực theo xu hướng nghề nghiệp
mới. CMCN 4.0 đang tạo ra những thay đổi rất lớn
trong các lĩnh vực ngành nghề, đòi hỏi lao động kỹ
thuật chất lượng cao phù hợp với sự thay đổi của
công nghệ. Vì vậy, các ngành học liên quan đến
sử dụng khoa học công nghệ nên được chú trọng
nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu thị trường việc làm
không chỉ trong nước mà còn ngoài nước. Cần
quan tâm hơn nữa đến việc phát triển ngành tự
động hóa, đồng thời đầu tư cho các nhóm nghiên
cứu sâu về các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ
thông tin, nĕng lượng và vật liệu mới, công nghệ
sinh học,...Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu
ứng dụng, nghiên cứu công nghệ, nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp và gắn nghiên cứu với các hoạt
động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên
cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác giữa người
và máy.
Thứ ba, cùng doanh nghiệp đào tạo - đang dần
trở thành “chìa khóa” cho nguồn nhân lực phù hợp
với thị trường lao động, nhà trường cần phối hợp
với doanh nghiệp xây dựng và xác định nội dung,
mục tiêu đào tạo, các chuẩn kỹ nĕng cần đạt, tiến
độ luân chuyển qua các vị trí đào tạo, và tổ chức
học tập, rèn luyện kỹ nĕng cho người học tại vị
trí làm việc cho đến khi kết thúc khóa học. Đào
tạo gắn kết với doanh nghiệp linh hoạt như vậy sẽ
mang lại hiệu quả cho nhiều phía: Sinh viên được
rèn luyện, ứng dụng ngay việc học với phát triển kỹ
nĕng tại vị trí việc làm. Doanh nghiệp có cơ hội thử
thách tuyển dụng, đào tạo huấn luyện tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng bền vững cho chính doanh
nghiệp của mình. Nhà trường tĕng hiệu quả trong
đào tạo, giáo viên được tiếp cận, cập nhật với công
nghệ mới, Bên cạnh đó, xây dựng mối liên kết
giữa nhà trường và các doanh nghiệp, một mặt để
tạo cầu nối cho sinh viên có được môi trường thực
hành thực tế, đảm bảo kỹ nĕng do nhà trường đào
tạo phù hợp với kỹ nĕng mà doanh nghiệp cần; mặt
khác, để kết nối trực tiếp người lao động và người
sử dụng lao động giúp giảm chi phí tìm việc và chi
phí tuyển dụng.
Thứ tư, bản thân người lao động cần phải xác định
rằng cuộc CMCN 4.0 là xu thế tất yếu, nó đang
diễn ra và không gì có thể ngĕn cản được. Người
lao động không có quyền lựa chọn mà bắt buộc
phải thích nghi bằng cách chủ động học tập, rèn
luyện, đi trước đón đầu các kỹ nĕng cần thiết cho
một nền kinh tế thông minh và công nghiệp hóa
nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường lao động.
Mỗi cá nhân người lao động phải nỗ lực học tập và
trau dồi kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ nĕng
nghề nghiệp, trang bị kỹ nĕng mềm như: khả nĕng
tư duy, xử lý các tình huống thực tế, kỹ nĕng giao
tiếp, nghiên cứu tài liệu nước ngoài, sử dụng công
nghệ thông tin, sự sáng tạo, thích nghi, nắm bắt
được xu thế phát triển của xã hội, coi trọng đến
các vấn đề ngoại ngữ, tin học, bản lĩnh chính trị,
đạo đức nghề nghiệp, nĕng lực lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ra, người lao động cần có nĕng lực tư duy và
sáng tạo, đổi mới, có kĩ nĕng phân tích và tổng hợp
thông tin, có khả nĕng làm việc độc lập, làm việc
nhóm, chủ động nâng cao tính chuyên nghiệp, khả
nĕng làm chủ các hệ thống công nghệ hiện đại, áp
dụng công nghệ cao trong công việc, để đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
5. KẾT LUẬN
Cuộc CMCN 4.0 đang phát triển mạnh mẽ trên thế
giới và ảnh hưởng trực tiếp tới Việt Nam. Đây là cơ
hội lớn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tuy nhiên, việc thiếu hụt lao
động chất lượng cao là vấn đề thách thức đang đặt
ra đối với Việt Nam trong đón bắt cơ hội của cuộc
Cách mạng này. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc
dù có nhiều chuyển biến tích cực song chất lượng
lao động tại Việt Nam hiện nay còn chưa cao, kỹ
nĕng và nĕng suất lao động còn thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng
được yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. Trên cơ sở đó,
giải pháp đặt ra trong thời gian tới là cần quan tâm
hơn nữa đến việc phát triển ngành tự động hóa,
đồng thời đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về
các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin,... đẩy
mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên
cứu công nghệ, nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Đồng thời xây dựng mối liên kết giữa nhà trường
và các doanh nghiệp, một mặt để tạo cầu nối cho
sinh viên có được môi trường thực hành thực tế,
đảm bảo kỹ nĕng do nhà trường đào tạo phù hợp
với kỹ nĕng mà doanh nghiệp cần. Mỗi cá nhân
người lao động phải nỗ lực học tập và trau dồi kiến
thức chuyên môn, rèn luyện kỹ nĕng nghề nghiệp,
trang bị kỹ nĕng để đáp ứng được yêu cầu mà
cuộc CMCN 4.0 đặt ra.
102
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 3 (70) 2020
[4] Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo Điều tra
Lao động việc làm năm 2018.
[5] Tổ chức Lao động Quốc tế của Liên hợp quốc
(ILO), Các nghiên cứu khác nhau.
[6] ILO, (2017), Asean in transformation: The
future of jobs at risk of automation - ILO.1.2.
Background statistics, 10 - 11.
[7] Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2016), Tổng
luận “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”,
[8] APO Productivity Database 2019, 5.1. Per
Worker Labor Productivity, 44.
[9] Các website:gso.gov.vn, molisa.gov.vn,
chinhphu.vn, laodongxahoi.net
THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Mạnh Thắng (2018), Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư tác động đến lao động
và việc làm, tổng thông tin điện tử Công đoàn
Việt Nam.
[2] Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật.
[3] Thủ tướng Chính phủ (2011), Chiến lược
phát triển Giáo dục 2011- 2020, ban hành
theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày
13/6/2012;
Vũ Thị Lý
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào
tạo, nghiên cứu):
+ Năm 2007: Tốt nghiệp ngành Kế toán, Trường Đại học Thương mại.
+ Năm 2010: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội.
- Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ.
- Lĩnh vực quan tâm: Kế toán doanh nghiệp, kế toán hành chính sự nghiệp, quản trị
kinh doanh, bảo hiểm, thuế.
- Email: lyvu1985@gmail.com.
- Điện thoại: 0976365265.
Nguyễn Thị Quỳnh
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào
tạo, nghiên cứu):
+ Năm 2008: Tốt nghiệp Đại học ngành Kế toán, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
+ Năm 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Kế toán, Trường Đại học Thương mại.
- Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ.
- Lĩnh vực quan tâm: Kế toán doanh nghiệp, kế toán hành chính sự nghiệp, quản trị
kinh doanh, bảo hiểm, thuế.
- Email: quynhnguyen.neu@gmail.com.
- Điện thoại: 0977567238.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dinh_huong_nang_cao_chat_luong_lao_dong_viet_nam_dap_ung_yeu.pdf