Đánh giá chiều dài xương mũi thai nhi đã được
triển khai tại Trung tâm y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh
hơn 10 năm nay, và việc chiều dài xương mũi dưới
bách phân vị thứ 5 so với tuổi thai được xem là định
nghĩa của bất sản xương mũi thai nhi. Tuy nhiên, việc
xác định ngưỡng ranh giới của chiều dài xương mũi
thai nhi ở thai phụ Việt Nam vẫn chưa được xác nhận,
do vậy rất khó khăn để đánh giá nguy cơ Hội chứng
Down.
Để có được kết quả chính xác, một kỹ thuật nghiêm
ngặt đo chiều dài xương mũi thai nhi được áp dụng. Để
giải quyết vấn đề này, dữ liệu về số đo chiều dài xương
mũi hiện tại được thu thập bởi bác sĩ siêu âm duy nhất
có kinh nghiệm 5 năm siêu âm về hình thái học thai
nhi. Điều này giúp giảm thiểu sự sai lệch giữa người
làm siêu âm khác nhau và bảo đảm được sự mặt cắt
dọc giữa để đo xương mũi thai nhi một cách chính xác.
Theo tiêu chuẩn đo lường, một giá trị tham khảo
bình thường của người Việt Nam về chiều dài xương
mũi thai nhi ở tuổi 19-26 tuần đã được xác định.
Chiều dài xương mũi thai nhi tăng đáng kể theo tuổi
thai và BPD, phù hợp với trước báo cáo trước đó
(4,5,8,9,15,22). Bách phân vị 50 của chiều dài xương
mũi thai nhi trong nghiên cứu của chúng tôi dài hơn
số đo của của Narayani và Radhakrishnan ở Ấn Độ
(5), nhưng kết quả này tương ứng với nghiên cứu của
Kanagawa et al ở Nhật Bản, Sutthibenjakul et al. ở Thái
Lan và Chen et al. ở Trung Quốc (Bảng 2) (8,9,19).
Tương tự, đối với bách phân vị thứ 5 của chiều dài
xương mũi thai nhi, nghiên cứu của chúng tôi khác
nhau rõ rệt với dữ liệu từ Nam Á, nhưng tương ứng với
số liệu từ Đông và Đông Nam Á (Bảng 3). Kết quả hiện
tại phù hợp với kết quả của Papasozomenou et al. và
Zelop et al., đã đo chiều dài xương mũi ở các dân số
khác nhau và kết luận rằng chiều dài xương mũi thai
đổi đáng kể theo sắc tộc và chủng tộc trong 3 tháng
giữa thai kỳ.
Giá trị tham chiếu bình thường của chiều dài
xương mũi thai nhi ở tuổi thai từ 19-26 tuần cho thấy
khác nhau ở các quốc gia tại Châu Á, bao gồm Ấn độ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan. Do vậy, phải chú ý
đến sắc tộc của thai phụ trong việc sử dụng chiều dài
xương mũi thai nhi như là một dấu chứng chỉ điểm của
bất thường nhiễm sắc thể. Do vậy, một khi đối mặt với
bất sản xương mũi cần phải thực hiện đánh giá chi tiết
về cấu trúc thai để xem có các bất thường khác đi kèm
không.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Độ dài xương mũi thai nhi ở tuổi thai từ 19-26 tuần tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
67ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/20178
Aim: The purpose of this study was to establish the normal range
of fetal nasal bone length (NBL) at the second
trimester of gestation in Vietnamese pregnancies.
Methods: A prospective cross-sectional study was carried out. A
total of 2432 singleton pregnancies were evaluated
for fetal NBL at 19–26 weeks 6 days between 1 January 2013
and 31 December 2014. Three measurements of
NBL were taken and the largest value was chosen. Fetal
anomalies and neonatal abnormalities were excluded.
Results: Mean fetal NBL was 6.75 ± 0.82 mm and mean
gestational age was 22.2 ± 1.4 weeks. Median NBL increased
linearly with advancing gestational age: NBL (mm) = 0.26 ×
gestational age (weeks) + 1.03 (R2 = 0.20; P
<0.000). The fifth percentile of fetal NBL ranged from 4.6 to 6.3
mm, corresponding with gestational age 19–26
weeks.
Conclusion: The normal range ofNBLwas established at second
trimester inVietnamese pregnancies. NBL at the
fifth percentile for gestational age was different from that of other
Asian ethnicities. It is necessary to define short
NBL or hypoplasia of NBL with regard to ethnicity.
Key words: Down syndrome, fetal nasal bone length,
ultrasonography.
ĐỘ DÀI XƯƠNG MŨI THAI NHI Ở TUỔI
THAI TỪ 19-26 TUẦN TẠI VIỆT NAM
Tô Mai Xuân Hồng*, Phan Thanh Hải**
* Bộ môn Sản phụ khoa Đại
học Y dược TP HCM
** Trung tâm Medic TP HCM
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201868
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đánh giá chiều dài xương mũi thai nhi ở 3 tháng
đầu và 3 tháng giữa của thai kỳ đã được chứng minh
là một dấu hiệu có giá trị cho các sai lệch về nhiễm sắc
thể, bao gồm trisomy 21 và trisomy 18 (1-3). Dựa trên
giá trị chiều dài xương mũi thai nhi bách phân vị thứ
5 của tuổi thai ở 3 tháng giữa thai kỳ, bác sĩ lâm sàng
có thể dự đoán hội chứng Down với tỷ lệ phát hiện là
77,7% và tỷ lệ dương tính giả của 0,7% (4). Nguồn gốc
sắc tộc và chủng tộc trước đây đã cho thấy ảnh hưởng
đến chiều dài xương mũi thai nhi (5-7). Các giá trị chiều
dài xương mũi thai nhi bình thường khác nhau ở người
da trắng, Châu Phi, Bắc Á, Đông Nam Á cũng đã được
báo cáo (5,8,9)
Tại Việt Nam, chương trình sàng lọc hội chứng
Down dựa trên khoảng sáng sau gáy của thai nhi và
xét nghiệp máu kết hợp (combined test) ở 3 tháng đầu
đã được thực hiện từ năm 2007. Chương trình này vẫn
được coi là có giá trị, nhưng hội chứng Down vẫn còn
là bất thường phổ biến nhiễm sắc thể phổ biến nhất ở
người Việt Nam, với hơn 10 trẻ bị bệnh Down trên tổng
số 800 trẻ sinh ra mỗi năm (10). Tỷ lệ này có thể là do
một số phụ nữ Việt Nam đến khám thai muộn và bỏ qua
hội tầm soát dị tật Down vào 3 tháng đầu thai kỳ. Vì vậy,
rất cần thiết có một chương trình lọc dị tật Down vào 3
tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ nhằm nâng cao giá
trị phát hiện dị tật này.
Siêu âm học, một công cụ không quan trọng trong
chẩn đoán trước khi sinh ở Việt Nam, và đóng một vai
trò thiết yếu trong việc đánh giá cấu trúc thai nhi và các
dấu chỉ điểm mềm bao gồm chiều dài xương mũi thai
nhi của thai nhi ở 3 tháng giữa thai kỳ. Việc chưa có
một số liệu tham chiếu về chiều dài xương mũi thai nhi
của thai kỳ bình thường cho dân số Việt Nam, làm hạn
chế việc phân loại các trường hợp thai kỳ có nguy cơ
cao với Hội chứng Down. Chính vì thế, mục đích của
nghiên cứu này là thiết lập một tham chiếu bình thường
của chiều dài xương mũi thai nhi thai nhi ở dân số Việt
Nam để có thể được thực hiện tốt chương trình sàng
lọc bất thường nhiễm sắc thể thai nhi.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
Một nghiên cứu cắt ngang tương lai đã được tiến
hành tại Trung tâm Y khoa Medic tại Thành phố Hồ Chí
Minh từ ngày 1 tháng 1 năm 2013 đến ngày 31 tháng
12 năm 2014. Trong nghiên cứu này, 2432 phụ nữ Việt
Nam mang thai đã trải qua siêu âm chi tiết vào tuần
19-26. 6 ngày. Tuổi thai ở thời điểm đo chiều dài xương
mũi thai nhi được tính toán dựa trên cả hai thông số
bao gồm kỳ ngày đầu kỳ kinh cuối cùng và siêu âm
3 tháng đầu thai kỳ với việc đo chiều dài mông. Các
tiêu chí loại trừ bao gồm dị tật bẩm sinh, dị dạng cấu
trúc bào thai nghi ngờ hoặc được chẩn đoán ở lần siêu
âm trước, sinh hóa bất thường, và bất thường ở trẻ sơ
sinh. Tất cả những thai phụ này được theo dõi cho đến
khi sinh và trẻ sơ sinh được các bác sĩ nhi khoa và trẻ
sơ sinh xem xét kỹ lưỡng để chẩn đoán có hay không
có hội chứng Down sau sinh.
Đo chiều dài xương mũi thai nhi
Đo lường chiều dài xương mũi thai nhi được thực
hiện bởi một bác sĩ duy nhất có kinh nghiệm 5 năm về
siêu âm đánh giá hình thái học thai nhi. Một mặt cắt dọc
giữa (mid- sagittal) đã được sử dụng để xác định xương
mũi, môi, hàm trên và hàm dưới có góc giữa chùm tia
siêu âm và trục mũi (gần đến 45° hoặc 135° như được
mô tả bởi tác giả Sonek (3) Hình 1). Chiều dài xương
mũi thai nhi được đo 3 lần và giá trị lớn nhất được ghi
nhận. Đánh giá chi tiết cấu trúc bào thai và các thông
số tăng trưởng bao gồm đường kính lưỡng đỉnh(BPD),
chiều dài đùi (FL), chiều dài xương cánh tay (HL) và
chu vi vòng bụng (AC). Tất cả các đánh giá thai nhi và
các phép đo được thực hiện bằng máy siêu âm Medison
R7 (Samsung Medison, Seoul, Hàn Quốc).
Hình 1. Chiều dài xương mũi thai nhi theo Sonek
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 69
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 2. Chiều dài xương mũi theo tuổi thai
Phân tích thống kê
Phân tích thống kê được thực hiện bằng cách sử
dụng STATA / IC 11.1 cho Windows (Stata Corp, TX,
USA). Các giá trị trung bình, trung bình, độ lệch chuẩn,
và khoảng ranh giới của NBL thai nhi được ghi nhận
trong tuổi thai từ 19-26 tuần 6 ngày. Một biểu đồ phân
tán cho phép đo NBL thai nhi theo tuổi thai đã được xây
dựng và thiết lập được giá trị ở bách phân vị thứ 5, 10
và 50 cho mỗi tuần thai nghén. Một đường cong hồi
quy tuyến tính được xây dựng cho NBL theo tuổi thai
và đường kính lưỡng đỉnh. Các kết quả được đánh giá
là có ý nghĩa thống kê khi P <0,01.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm mang thai
Tổng cộng 2432 trường hợp mang thai khỏe mạnh
đơn đã được phân tích trong nghiên cứu này. Tuổi mẹ
trung vị là 28 tuổi (dao động, 16 - 46 năm); 275 (11,3%)
của phụ nữ mang thai trên 35 tuổi tại thời điểm kỳ kiểm
tra. Tuổi thai trung bình là 22,2 ± 1,4 tuần.
Phạm vi tham chiếu chiều dài xương mũi thai nhi
Chiều dài xương mũi thai nhi trung bình là
6,75 ± 0,82 mm. Chiều dài xương mũi thai nhi gia
tăng đáng kể khi tuổi thai tăng lên (R2= 0,20; P <
0.000; Hình 2) và tương quan của chiều dài xương
mũi thai nhi và tuổi thai được xác định như sau:
NBL (mm) = 0,26 x tuổi thai (tuần) + 1,03.
Các giá trị của NBL tương ứng với bách phân vị
thứ 5, 10 và 50 ở mỗi độ tuổi thai được liệt kê trong
Bảng 1. Chiều dài xương mũi thai nhi trung bình của
thai nhi là 6,1mm
Mối liên quan giữa chiều dài xương mũi thai nhi và
đường kính lưỡng đỉnh được tính theo công thức sau:
NBL (mm) = 0.08 x BPD (mm) + 2.58 (R2=0.21; P
<0.001).
IV. BÀN LUẬN
Việc đánh giá chiều dài xương mũi thai nhi ở 3
tháng đầu và 3 tháng giữa của thai kỳ là một phương
pháp quan trọng để sàng lọc cho hội chứng Down
(1,3,11). Theo Cicero et al, siêu âm đánh giá thiểu sản
xương mũi có khả năng phát hiện khoảng 60% trisomy
21 với tỷ lệ dương tính giả 1%. Ngoài ra, khôn có xương
mũi thai nhi ở 3 tháng đầu hoặc 3 tháng giữa thai kỳ có
thể liên quan đến các dị tật sau này; do đó, Dukhovny et
al. đã đề nghị nên có siêu âm để đánh giá chi tiết về giải
phẫu thai ở các thai không có xương mũi hoặc thiểu sản
xương mũi để có thể tiên đoán kết cục của thai nhi (12)
Xương mũi có nguồn gốc từ các tế bào mào thần kinh
và có thể phát triển từ các cặp trung tâm cốt hóa xương
độc lập kết hợp nằm trong một màng bao phủ mũi sụn
nang(13). Những xương này tăng lên cả chiều dài và
chiều rộng theo sự lớn dần của tuổi thai (14). Ở 3 tháng
giữa của thai kỳ, có một sự tăng tỷ lệ xương mũi về
tổng khối lượng mô sụn xương ở thai nhi với bộ nhiễm
sắc thể bình thường so với thai nhi có hội chứng Down
(tỷ lệ 35-50% mô xương ở bào thai ở thai có bộ nhiễm
sắc thể bình thường so với 10-20% trong trisomy 21)
(14). Một số nghiên cứu đã đề xuất một mối liên hệ
giữa chậm cốt hóa xương mũi của thai nhi và hội chứng
Down(11-15), nhưng việc trì hoãn sự cốt hóa xương
mũi này cũng được ghi nhận ở các thai nhi mà không
có bất thường nhiễm sắc thể, tùy thuộc vào dân tộc của
người mẹ (5,9,11,12,16).
Các thai kỳ có bộ nhiễm sắc thể ở phụ nữ Châu
Phi vùng Caribbbean có một tỷ lệ cao không có
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201870
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
xương mũi thai nhi (8.8%) khi so sanh với thai nhi có
bộ nhiễm sắc thể bình thường và không có xương
mũi ở nhóm phụ nữ da trắng (2.6%) (12). Prefumo
và cộng sự cũng lưu ý một xu hướng về tỷ lệ cao
thai nhi không có xương mũi ở các phụ nữ châu Á
mang thai bình thường (0,88-5,0%) (11-16). Vì vậy,
cần thiết phải thiết lập một thang tham khảo của
chiều dài xương mũi thai nhi theo nguồn gốc chủng
tộc và chủng tộc. Hơn nữa, có nhiều định nghĩa khác
nhau về tình trạng bất sản xương theo y văn, gồm
có các định nghĩa sau: chiều dài xương mũi dưới <
bách phân vị 2.5 (17), < dưới bách phân vị 5 (18),
<dưới bách phân vị 10 (19), và < dưới 0.75 MoM cho
tuổi thai 20 (15) được xem là bất sản xương mũi.
Việc đa dạng về định nghĩa bất sản xương mũi này
có thể làm cho thai phụ lo lắng, dẫn đến tăng số
lượng chọc dò ối để loại trừ hội chứng Down. Việc
xác nhận thiểu sản xương mũi đòi hỏi phải có thông
tin về các dữ liệu chuẩn của chiều dài xương mũi
thai nhi theo tuổi thai và sắc tộc của thai phụ (5,15)
Tại Việt Nam, mỗi năm có tới 800 trẻ sơ sinh mắc hội
chứng Down ra đời (10) và tỷ lệ ước lượng của hội
chứng Down là 103 328 trong 82662 800 người. Các
kết quả này phản ánh chương trình sàng lọc tích cực
Việt Nam đã thực hiện trong 10 năm qua. Tuy nhiên,
vẫn cần phải đối mặt để giải quyết sự gia tăng trisomy
21, và trong đó, đóng góp vào sự gia tăng tỷ lệ Hội
chứng Down này có thể là do bỏ qua chương trình
sàng lọc Hội chứng Down ở 3 tháng đầu thai kỳ. Hiệu
quả của sàng lọc Hội chứng Down chương trình đã
không được tối đa hóa do các yếu tố khác nhau: (i)
thiếu tích hợp các công cụ chẩn đoán trước khi sinh
ở 3 tháng đầu và 3 tháng giữa của thai kỳ; và (ii) các
xét nghiệm sinh hóa có kết quả không chính xác ở các
trung tâm chăm sóc sức khoẻ nông thôn. Để giải quyết
những thách thức này, siêu âm ở 3 tháng giữa thai kỳ
để đánh giá cấu trúc thai nhi và các dấu hiệu chỉ điểm
mềm bao gồm chiều dài xương mũi thai nhi được coi
là công cụ hữu ích nhất để cải thiện chương trình sàng
lọc, đặc biệt là trong trường hợp bỏ qua chương trình
sàng lọc 3 tháng đầu thai nhi.
Đánh giá chiều dài xương mũi thai nhi đã được
triển khai tại Trung tâm y khoa Medic, TP Hồ Chí Minh
hơn 10 năm nay, và việc chiều dài xương mũi dưới
bách phân vị thứ 5 so với tuổi thai được xem là định
nghĩa của bất sản xương mũi thai nhi. Tuy nhiên, việc
xác định ngưỡng ranh giới của chiều dài xương mũi
thai nhi ở thai phụ Việt Nam vẫn chưa được xác nhận,
do vậy rất khó khăn để đánh giá nguy cơ Hội chứng
Down.
Để có được kết quả chính xác, một kỹ thuật nghiêm
ngặt đo chiều dài xương mũi thai nhi được áp dụng. Để
giải quyết vấn đề này, dữ liệu về số đo chiều dài xương
mũi hiện tại được thu thập bởi bác sĩ siêu âm duy nhất
có kinh nghiệm 5 năm siêu âm về hình thái học thai
nhi. Điều này giúp giảm thiểu sự sai lệch giữa người
làm siêu âm khác nhau và bảo đảm được sự mặt cắt
dọc giữa để đo xương mũi thai nhi một cách chính xác.
Theo tiêu chuẩn đo lường, một giá trị tham khảo
bình thường của người Việt Nam về chiều dài xương
mũi thai nhi ở tuổi 19-26 tuần đã được xác định.
Chiều dài xương mũi thai nhi tăng đáng kể theo tuổi
thai và BPD, phù hợp với trước báo cáo trước đó
(4,5,8,9,15,22). Bách phân vị 50 của chiều dài xương
mũi thai nhi trong nghiên cứu của chúng tôi dài hơn
số đo của của Narayani và Radhakrishnan ở Ấn Độ
(5), nhưng kết quả này tương ứng với nghiên cứu của
Kanagawa et al ở Nhật Bản, Sutthibenjakul et al. ở Thái
Lan và Chen et al. ở Trung Quốc (Bảng 2) (8,9,19).
Tương tự, đối với bách phân vị thứ 5 của chiều dài
xương mũi thai nhi, nghiên cứu của chúng tôi khác
nhau rõ rệt với dữ liệu từ Nam Á, nhưng tương ứng với
số liệu từ Đông và Đông Nam Á (Bảng 3). Kết quả hiện
tại phù hợp với kết quả của Papasozomenou et al. và
Zelop et al., đã đo chiều dài xương mũi ở các dân số
khác nhau và kết luận rằng chiều dài xương mũi thai
đổi đáng kể theo sắc tộc và chủng tộc trong 3 tháng
giữa thai kỳ.
Giá trị tham chiếu bình thường của chiều dài
xương mũi thai nhi ở tuổi thai từ 19-26 tuần cho thấy
khác nhau ở các quốc gia tại Châu Á, bao gồm Ấn độ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan. Do vậy, phải chú ý
đến sắc tộc của thai phụ trong việc sử dụng chiều dài
xương mũi thai nhi như là một dấu chứng chỉ điểm của
bất thường nhiễm sắc thể. Do vậy, một khi đối mặt với
bất sản xương mũi cần phải thực hiện đánh giá chi tiết
về cấu trúc thai để xem có các bất thường khác đi kèm
không.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 71
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2. Chiều dài xương mũi thai nhi ở bách phân vị 50 so với các nghiên cứu Châu Á
Bảng 3. Chiều dài xương mũi thai nhi ở bách phân vị thứ 5 so với các nghiên cứu Châu Á
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vos FI, De Jong-Pleij EA, Bakker M, Tromp
E, Bilardo CM. Trends in serial measurements of
ultrasound markers in second and third trimester Down
syndrome fetuses. Fetal Diagn Ther 2015; 38:48–54.
2. Masihi S, Barati M, Mohamadjafari R, Hashemi
M. Assessment of nasal bone in first trimester screening
for chromosomal abnormalities in Khuzestan. Iran J
Reprod Med 2014;12:321–326.
3. Sonek JD. Nasal bone evaluation with
ultrasonography: A marker for fetal aneuploidy.
Ultrasound Obstet Gynecol 2003; 22:11–15.
4. Bunduki V, Ruano R, Miguelez J, Yoshizaki
CT, Kahhale S,Zugaib M. Fetal nasal bone length:
Reference range and clinical application in ultrasound
screening for trisomy 21. Ultrasound Obstet Gynecol
2003; 21:156–160.
5. Narayani BH, Radhakrishnan P. Mid-second
trimester measurement of nasal bone length in the
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/201872
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Indian population. J Obstet Gynaecol India 2013; 63
:256–259.
6. Papasozomenou P, Athanasiadis AP, Zafrakas
M et al.Fetal nasal bone length in the second trimester:
Comparison between population groups from different
ethnic origins.JPerinatMed 2016;44:229–235.
7. Zelop CM, Milewski E, Brault K, Benn P, Borgida
AF, Egan JF.Variation of fetal nasal bone length
in second-trimester fetuses according to race and
ethnicity. J Ultrasound Med 2005; 24:1487–1489.
8. Kanagawa T, Fukuda H, Kinugasa Y et al. Mid-
second trimester measurement of fetal nasal bone
length in the Japanese population. J Obstet Gynaecol
Res 2006; 32:403–407.
9. Sutthibenjakul S, Suntharasaj T, Suwanrath C,
Kor-anantakul O, Geater A. A Thai reference for normal
fetal nasal bone length at 15 to 23 weeks’ gestation. J
Ultrasound Med 2009;28:49–53.
10. Vietbao.vn. [Screening Down syndrome in
pregnancy.] 2005[Cited 28 July 2005] Available from
URL: Suc-khoe/Tam-soat-hoi-chung-
Down-trong-thai-ky/ 10919504/248/ (in Vietnamese).
11. Cicero S, Sonek JD, McKenna DS, Croom
CS, Johnson L,Nicolaides KH. Nasal bone hypoplasia
in trisomy 21 at 15-22 weeks’ gestation. Ultrasound
Obstet Gynecol 2003; 21:15–18.
12. Dukhovny S, Wilkins-Haug L, Shipp TD, Benson
CB, Kaimal AJ, Reiss R. Absent fetal nasal bone: What
does it mean for the euploid fetus? J Ultrasound Med
2013; 32: 2131–2134.
13. Sandikcioglu M, Molsted K, Kjaer I. The
prenatal development of the human nasal and vomeral
bones.J Craniofac Genet Dev Biol 1994;14:124–134.
14. Goncalves LF, Espinoza J, Lee Wet
al.Phenotypic characteristics of absent and hypoplastic
nasal bones in fetuses with Down syndrome: Description
by 3-dimensional ultrasonography and clinical
significance.JUltrasoundMed 2004;23:1619–1627.
15. Cusick W, Provenzano J, Sullivan CA, Gallousis
FM, Rodis JF.Fetal nasal bone length in euploid and
aneuploid fetuses between 11 and 20 weeks’gestation: A
prospective study.J Ultrasound Med 2004;23:1327–1333.
16. Prefumo F, Sairam S, Bhide A, Penna L,
Hollis B, ThilaganathanB. Maternal ethnic origin and
fetal nasal bones at 11-14 weeks of gestation.BJOG
2004;111:109–112.
17. Cusick W, Shevell T, Duchan LS, Lupinacci
CA, Terranova J,Crombleholme WR. Likelihood ratios
for fetal trisomy 21 based on nasal bone length in
the second trimester: How best to define hypoplasia?
Ultrasound Obstet Gynecol 2007;30:271–274.
18. Odibo AO, Sehdev HM, Dunn L, McDonald
R, Macones GA.The association between fetal nasal
bone hypoplasia and aneuploidy. Obstet Gynecol
2004;104:1229–1233.
19. Chen M, Lee CP, Leung KY, Hui PW, Tang MH.
Pilot study on the midsecond trimester examination of
fetal nasal bone in the Chinese population.Prenat Diagn
2004;24:87–91.
20. Odibo AO, Sehdev HM, Stamilio DM, Cahill A,
Dunn L,Macones GA. Defining nasal bone hypoplasia
in second-trimester Down syndrome screening: Does
the use of multiplesof the median improve screening
efficacy? Am J Obstet Gynecol 2007;197:361e1–361 e4.
21. www.rightdiagnosis.com Statistic by country
for Down syndrome: Incidence (annual for Down
syndrome). [Cited 2004] Available from URL: http://
www.rightdiagnosis.com/d/down_syndrome/stats-
country.htm#extrapwarning
22. Sharma A, Tayal T, Narayani BH, Radhakrishnan
P, Kaul A.Nasal bone length: The long and short of it.
Evaluation of the reference values for the fetal nasal
bone length at 16 to 25 weeksof gestational age in an
Indian population.Prenat Diagn 2013;33:800–803.
Fetal nasal bone length at 19–26 weeks’ gestation
in Vietnam
Xuan-Hong Tomai1 and Thanh-Hai Phan2
1Department of Obstetrics and Gynaecology,
University of Medicine and Pharmacy, and 2Medic
Medical Center, Ho Chi Minh City,
Vietnam
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 29 - 1/2018 73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này là để xác định chiều dài xương mũi của thai nhi bình thường ở 3 tháng
giữa mang thai trên các thai phụ Việt Nam.
Các phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang tương lai được thực hiện. Tổng cộng 2432 thai phụ đơn thai
được đo chiều dài xương mũi thai nhi ở tuần thứ 19-26 tuần 6 ngày từ ngày 1 tháng 1 năm 2013 đến ngày 31 tháng
12 năm 2014. Chiều dài xương mũi thai nhi được đo 3 lần và giá trị lớn nhất được chọn. Bất thường thai và dị dạng
sơ sinh đã được loại trừ ra khỏi nghiên cứu
Kết quả: Chiều dài xương mũi thai nhi trung bình là 6,75 ± 0,82 mm và tuổi thai trung bình là 22,2 ± 1,4 tuần.
Chiều dài xương mũi thai nhi trung vị tăng lên tuyến tính với tuổi thai chuyển tiếp: NBL (mm) = 0,26 × tuổi thai (tuần)
+ 1,03 (R2 = 0,20; P <0.000). Giá trị chiều dài xương mũi thai nhi ở bách phân vị thứ 5 dao động từ 4,6 đến 6,3 mm,
tương ứng với tuổi thai 19-26 tuần.
Kết luận: Phạm vi bình thường của chiều dài xương mũi thai nhi được thiết lập ở tam cá nguyệt thứ hai ở Việt
Nam mang thai. Giá trị của chiều dài xương mũi thai nhi ở bách phân vị thứ 5 ở các tuổi thai cũng khác với tỷ lệ các
dân tộc Châu Á khác. Khi đánh giá NBL ngắn hoặc bất sản cần xét đến yếu tố dân tộc.
Từ khóa: Hội chứng Down, độ dài xương mũi của thai nhi, siêu âm.
Người liên hệ: Tô mai Xuân Hồng; Email: tomaixuanhong@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 20/10/2017; Ngày chấp nhận đăng bài: 30/11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
do_dai_xuong_mui_thai_nhi_o_tuoi_thai_tu_19_26_tuan_tai_viet.pdf