The experiment of making fishsource using a TTX-bearing puffer Toquigener gloerfelti as a
material was conducted during 12 months in order to observe a trend of toxicity in the fishsource product. The
result showed that toxicity had been decreased by time and after 12 months; about 86.43 - 93.93 % of initial
toxicity was disappeared. The reason for this is the increasing of pH in the fermentation condition caused the
decomposition of some tetrodotoxin moleculars. Notibly, after long time of experiment with high salinity, acidic
or neutrolize condition, still certain toxicity (6.07 - 13.57%) was remaining in puffer fishsource product. On
the other hand, according to local fishsource producers, fishsource is often ready to be commercial after 3-4
months of proccessing, that may contain 49.44 - 37.47% of initial toxicity (based on the data obtained from this
study). It means that if initital toxicity in the fishsource material was high enough, there is a possibility to
cause human poisoning. The studied result indicated that using toxic puffer as fishsource material is not safe
for human consumption.
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 644 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Độc tính Tetrodotoxin trong sản phẩm nước mắm chế biến từ cá nóc độc chấm cam Torquigener gloerfelti, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
263
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 263-267
ISSN: 1859-3097
ĐỘC TÍNH TETRODOTOXIN TRONG SẢN PHẨM
NƯỚC MẮM CHẾ BIẾN TỪ CÁ NÓC ĐỘC CHẤM CAM
TORQUIGENER GLOERFELTI
Đào Việt Hà1, Shigeru Sato2
1Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Số 1 Cầu Đá, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Email: daovietha69@gmail.com
2Khoa Khoa học Thủy Sản, Đại học Kitasato, Nhật Bản
Ngày nhận bài: 7-12-2012
TÓM TẮT: Thí nghiệm chế biến nước mắm (theo cách thức địa phương) với nguyên liệu là cá nóc chấm
Cam Torquigener gloerfelti đã được tiến hành trong vòng 12 tháng nhằm theo dõi biến động của độc tính
tetrodotoxin trong sản phẩm nước mắm này. Kết quả cho thấy độc tính có chiều hướng suy giảm theo thời gian
thí nghiệm. Sau 12 tháng, độc tính giảm khoảng 86,43 - 93,93 % so với tổng độc lực ban đầu. Sự tăng dần của
yếu tố pH trong quá trình lên men kỵ khí gây ra sự phân hủy một phần cấu trúc hoá học của TTX, dẫn đến sự
suy giảm độc lực. Tuy nhiên, sau thời gian khá dài trong điều kiện đặc biệt của quy trình chế biến nước mắm
(độ mặn cao, pH acid hoặc trung tính), vẫn tồn tại một lượng độc tố nhất định trong sản phẩm (chiếm 6,07 -
13,57% tổng độc lực ban đầu). Trong khi đó, trên thị trường hiện nay, sản phẩm nước mắm được bán ra chỉ
sau 3-4 tháng kể từ thời điểm bắt đầu chế biến (theo tính toán trong thí nghiệm của nghiên cứu này, là lúc độc
tính còn tồn tại khoảng 49,44 - 37,47 % so với ban đầu), và như vậy, nếu độc tính trong nguyên liệu đầu vào
cao, sẽ có nguy cơ gây ngộ độc tử vong cho người tiêu dùng thông qua việc sử dụng sản phẩm nước mắm chế
biến từ cá nóc độc. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng cá nóc làm nước mắm là không đảm bảo an toàn
thực phẩm.
Từ khóa: nước mắm, Toquigener gloerfelti, tetrodotoxin, độc tính
MỞ ĐẦU
Trước thực trạng ngộ độc cá nóc tràn lan tại
Việt Nam, nhằm bảo vệ an toàn sức khỏe cộng
đồng, tháng 6 năm 2003, Chính phủ đã có lệnh cấm
đánh bắt, tiêu thụ và chế biến các sản phẩm từ cá
nóc. Tuy nhiên, điều này đã gây ra khá nhiều ý kiến
tranh luận trong dân chúng, thậm chí cả các nhà
khoa học và các nhà quản lý nguồn lợi thủy sản. Có
một số ý kiến cho rằng cá nóc chỉ độc nếu như
không biết cách xử lý, làm sạch trong quá trình chế
biến, hoặc độc tố sẽ bị phân hủy hoàn toàn trong quá
trình lên men nước mắm. Chính vì vậy, cho đến nay
ở một số địa phương, vẫn tồn tại những cơ sở
chuyên sản xuất và chế biến các sản phẩm từ cá nóc
như muối khô hay làm nước mắm.
Trong tổng số khoảng 17 loài cá nóc độc được
ghi nhận phân bố tại vùng ven biển Việt Nam hiện
nay, cá nóc chấm Cam Torquigener gloerfelti (tên
trích dẫn trước đây: Torquigener pallimaculatus) là
một trong những loài có độc tính mạnh [1], thường
xuyên bắt gặp trong lưới dã cào với sản lượng khá
cao với mùa vụ hầu như quanh năm [2]. Cá nóc
chấm Cam cũng là nguyên nhân của trên 50% tổng
số các vụ ngộ độc cá nóc trên toàn quốc [Đao Việt
Hà, thông tin cá nhân]. Từ các khảo sát tình hình
thực tế cho thấy dân địa phương ở một số vùng ven
Đào Việt Hà, Shigeru Sato
264
biển sử dụng cá nóc chấm Cam làm thực phẩm với
một số hình thức chế biến khác nhau như làm cá
khô, nước mắm hay chả cá. Bài báo này công bố kết
quả nghiên cứu sự biến động của độc tính
tetrodotoxin trong quá trình chế biến nước mắm từ
cá nóc chấm Cam T. gloerfelti. Kết quả nghiên cứu
này là nguồn tư liệu khoa học có giá trị, là cơ sở
khoa học giải quyết nhu cầu bức xúc hiện nay của
xã hội đối với những quan niệm về xử lý và chế biến
cá nóc. Đồng thời, những thông tin này giúp cho Bộ
Y tế, Bộ Thủy sản và các cơ quan chức năng khác
trong việc quản lý chất lượng thủy sản và đảm bảo
an toàn vệ sinh thực phẩm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
30kg cá nóc chấm Cam Torquigener goerfelti
(hình 1) được thu mua từ các ghe đánh bắt hải sản
tại cảng cá Bến Đồn, Vạn Ninh, Khánh Hòa trong
năm 2004. Ngay lập tức, mẫu vật được vận chuyển
về phòng thí nghiệm trong điều kiện lạnh. Tại đây,
từng cá thể được rửa sạch, thấm nhẹ bên ngoài cho
khô ráo để chuẩn bị cho thí nghiệm tiếp theo.
Hình 1. Cá nóc chấm Cam Torquigener gloerfelti
Thí nghiệm chế biến nước mắm (thực hiện theo
phương pháp cổ truyền tại địa phương): Tiến hành 3
lô thí nghiệm, mỗi lô bao gồm 8-10kg cá nóc chấm
Cam được xay nhỏ toàn bộ cơ thể bằng máy nghiền
thức ăn gia súc. Trộn đều hỗn hợp cá với muối hạt
theo tỉ lệ về khối lượng 3 kg cá/1 kg muối. Chuyển
hỗn hợp cá-muối này vào thạp sành dung tích 20 lít
có đục lỗ và lắp vòi khoá bên cạnh (để rút dịch nước
mắm chảy ra), đáy thạp được lót một lớp sỏi sạch và
lưới nilon. Sau đó, phủ lên bề mặt cá-muối một lớp
lưới nilon và nén chặt bằng đá tảng, cuối cùng bề
mặt thạp sành được che phủ bởi 1 lớp vải màn
mỏng. Mở nhẹ vòi khóa cho dịch rỉ từ từ vào lọ thuỷ
tinh sạch, đổ lại dịch này vào trong thạp hàng ngày
cho đến khi dịch trở nên trong suốt và có màu nâu
vàng đặc trưng của nước mắm (sau khoảng 4 -6
tháng kể từ lúc bắt đầu thí nghiệm). Hàng tháng, rút
20ml dịch để sử dụng cho phân tích sắc ký lỏng cao
áp (HPLC) cho mục đích theo dõi biến động của độc
lực theo thời gian trong vòng 12 tháng liên tục (từ
tháng 8/2004 cho đến hết tháng 7/2005).
Độc tố tetrodotoxin trong hỗn hợp cá nóc chấm
Cam sau khi xay nhuyễn được chiết rút theo
Kawabata [3] và xác định bằng HPLC theo Yotsu
và cs [4]. Từ kết quả này, độc tính tương ứng được
chuyển đổi 01 mg độc tố TTX tương ứng với 4.500
MU đơn vị độc lực, 1 mg 4epimer-TTX tương ứng
với 910 MU và 1 mg Anhydro-TTX tương ứng với
79 MU [5]. Độc tính này được coi như là tổng độc
lực ở thời điểm bắt đầu thí nghiệm. Tương tự, phân
tích HPLC được thực hiện để xác định hàm lượng
TTXs trong dịch nước mắm và chuyển đổi sang đơn
vị độc tính. Độc tố chuẩn tetrodotoxin (bao gồm
TTX, 4epi-TTX và Anhydro-TTX) do khoa Khoa
học Thủy sản, đại học Kitasato, Nhật Bản cung cấp.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Hình 2. Sắc ký đồ HPLC phân tích độc tố TTXs
(TTX, 4epimerTTX, anhydroTTX) (A: TTXs
chuẩn; B: dịch chiết cá nóc chấm Cam Torquigener
gloerfelti; RT: Thời gian lưu)
Kết quả phân tích PHLC ghi nhận một hàm
lượng khá cao độc tố TTX trong nguyên liệu cá nóc
chấm Cam để làm nước mắm (hình 2), với độc tính
tổng số tương ứng đạt tới giá trị 270MU/g.
Hình 3 biểu diễn mối tương quan giữa độc tính
trong nước mắm (đã được logarit hóa) với thời gian
(tháng) thí nghiệm. Từ hình này cho phép nhận xét
thấy độc tính trong sản phẩm nước mắm này có mối
Độc tính tetrodotoxin trong sản phẩm nước ...
265
quan hệ tuyến tính loga với thời gian. Hàm hồi quy
được biểu diễn ở dạng MU/ml = EXP(-0,1766T +
5,7664) (hoặc ln (MU/ml) = - 0,1766T + 5,7664).
Từ kết quả theo dõi độc tính trong sản phẩm nước
mắm chế biến từ cá nóc Chấm Cam trong thí
nghiệm này, có thể nhận thấy độc tính có chiều
hướng suy giảm theo thời gian thí nghiệm. Sau 12
tháng, độc tính suy giảm khoảng 86,43 - 93,93% so
với tổng độc lực ban đầu.
ln(MU/ml) = -0.1766T + 5.7664
Hoaëc MU/ml = exp(-0.1766T+5.7664)
0
1
2
3
4
5
6
7
0 2 4 6 8 10 12 14
Thôøi gian (thaùng)
ln
(M
U
/m
l)
Hình 3. Biến động của độc tính (MU/mL) trong sản
phẩm nước mắm chế biến từ cá nóc chấm Cam theo
thời gian thí nghiệm
Sau thời gian khá dài (12 tháng) trong điều kiện
đặc biệt của quy trình chế biến nước mắm (độ mặn
rất cao, pH acid hoặc trung tính), vẫn tồn tại một
lượng độc tố nhất định trong sản phẩm (6,07 -
13,57%). Với độc tính trong nguyên liệu ban đầu
của thí nghiệm này, độc tính trong sản phẩm nước
mắm sau 12 tháng lên men còn khoảng 16-
37MU/mL. Tuy nhiên, trên thị trường hiện nay, sản
phẩm nước mắm được bán ra chỉ sau 3 - 4 tháng kể
từ thời điểm bắt đầu chế biến.Theo số liệu tính toán
của nghiên cứu này, thời điểm 3 tháng là lúc độc
tính còn tồn tại khoảng 49,44 - 37,47% so với ban
đầu, tức là khoảng 100-133MU/mL. Trong khi đó,
độc lực của loài cá nóc chấm Cam vào mùa mang
trứng có thể đạt tới 5.000MU/g [6]; nếu độc tính của
nguyên liệu đầu vào đạt giá trị như vậy, sau 3 tháng
lên men nước mắm, độc tính còn lại ít nhất khoảng
1.870MU/g. Với độc lực này, 4-5mL nước mắm loại
này chứa độc tính đủ gây tử vong cho 1 người bình
thường (ước tính 1g mẫu tương ứng với 1mL dịch
nước mắm thu được). Từ kết quả này, nhận thấy sản
phẩm nước mắm chế biến từ cá nóc độc hiện nay
không thể được coi là an toàn tuyệt đối cho người
tiêu dùng.
y = -0.0043x + 6.7333
R2 = 0.8842
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0 100 200 300 400 500 600
MU/ml
pH
Hình 4. Mối tương quan giữa pH và độc tính
(MU/mL) trong sản phẩm nước mắm chế biến từ cá
nóc chấm Cam Torquigener gloerfelti
Theo thông tin thu thập được từ các buổi phỏng
vấn, dân địa phương tại một số vùng ven biển nước
ta vẫn sử dụng các loài cá nóc có độc tính mạnh như
nóc Thu, nóc chấm Cam, nóc Vằn, nóc Răng mỏ
chim, nóc Tro để làm nước mắm với quan niệm
độc tố sẽ bị tiêu hủy hoàn toàn sau vài tháng trong
điều kiện lên men nước mắm. Nhiều trường hợp
thực tế, người dân thường sử dụng cá nóc lẫn với
nhiều loại cá tạp khác (không độc) để chế biến nước
mắm, do đó, độc tính TTX trong sản phẩm nước
mắm không đạt tới giá trị cao như trong thí nghiệm
này, nhưng không thể bảo đảm rằng cách này là
hoàn toàn an toàn tiêu dùng thực phẩm. Lý do thứ
nhất là khác với các loại độc tố biển khác, do tính
chất đặc biệt nguy hiểm của TTX nên một sản phẩm
biển chỉ được xác nhận là an toàn khi không có sự
có mặt của độc tố này (không phát hiện được kể cả
ở dạng vết), ngoại trừ Nhật Bản đề xuất liều an toàn
đối với độc tố TTX trong sản phẩm hải sản là
10MU/g [7]. Lý do thứ hai là độc tố TTX trong
cùng loài có tính biến động cá thể rất rộng, trong khi
đó tại Việt Nam chưa có số liệu chính xác về đặc
tính này, do vậy không thể lường trước được độc
tính của cá nóc khi với số lượng lớn được sử dụng
làm nước mắm sẽ đạt tới giá trị bao nhiêu. Để có
được quy trình xử lý chế biến cá nóc hoàn toàn an
toàn thực phẩm cho con người, cần thiết phải có
được cơ sở dữ liệu khoa học đầy đủ và chính xác về
đặc tính biến động cá thể của độc tố trong các loài
cá nóc thường gặp, có sản lượng cao và hay được sử
dụng làm thực phẩm tại nước ta. Đây là một trong
hướng nghiên cứu cơ bản cần thiết trước mắt nhằm
tiến tới mục tiêu nghiên cứu, xây dựng quy trình xử
lý cá nóc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Đào Việt Hà, Shigeru Sato
266
Một phát hiện khá thú vị trong khi tiến hành thí
nghiệm là độc tính có mối tương quan nghịch khá
chặt chẽ với yếu tố pH trong quá trình lên men nước
mắm (R2 = 0,88; hình 4). Tại thời điểm tháng thứ 1
của thí nghiệm, pH có giá trị acid nhẹ (5,1 - 5,2) và
tăng dần theo thời gian; đến tháng thứ 12, pH đạt
giá trị gần trung tính (6,7); trong khi độc tính lại có
chiều hướng giảm dần theo thời gian. Sự phân hủy
hợp chất hữu cơ của các vi sinh vật kỵ khí trong quá
trình lên men nước mắm rất có thể đã sản sinh ra
những sản phẩm trung gian, dẫn đến hiện tượng tăng
độ pH trong sản phẩm. Độc tố TTX có cấu trúc bền
trong môi trường acid và bị phân hủy trong môi
trường kiềm; hoặc trong môi trường trung tính với
thời gian dài [8]. Khi pH tăng dần có thể gây ra sự
phân hủy phần nào cấu trúc hoá học của TTX dẫn
đến sự suy giảm độc lực. Kết quả nghiên cứu này là
một trong những cơ sở khoa học bước đầu cho
nghiên cứu, xây dựng quy trình xử lý chế biến cá
nóc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm tại Việt
Nam trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Do sự thay đổi pH từ acid đến trung tính của
quá trình lên men nước mắm, có sự suy giảm độc
tính TTX theo thời gian trong sản phẩm nước mắm
chế biến từ cá nóc. Tuy nhiên, sau 12 tháng thí
nghiệm, vẫn tồn tại một hàm lượng nhất định (6,07
- 13,57% tổng độc lực có trong nguyên liệu) của
độc tố TTX trong sản phẩm này. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sản phẩm nước mắm chế biến từ cá
nóc độc có thể có nguy cơ ngộ độc tử vong cho
người tiêu dùng, do đó không đủ tiêu chuẩn an
toàn thực phẩm.
Lời cảm ơn: Đề tài được Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam (tên trước đây: Trung tâm
Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia) tài trợ
kinh phí nghiên cứu trong hướng khoa học Biển và
công trình Biển giai đoạn 2004-2005. Tác giả xin
gửi lời cảm ơn đến ông Nguyễn Thanh Vân (trưởng
phòng Thông tin - Thư viện, Viện Hải dương học)
và gia đình đã tư vấn cách làm nước mắm phổ biến
của dân địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tuyết Nga, Đào Việt Hà, Phạm Xuân Kỳ,
Lưu Thị Hà và Cao Phương Dung, 2003.
Nghiên cứu độc tố tetrodotoxin trong một số
loài cá nóc tại Nha Trang năm 2001-2003.
Tuyển tập Nghiên cứu biển. 8, 215-224. Nxb.
Khoa học Kỹ thuật.
2. Nguyễn Hữu Phụng, 1999. Danh mục các loài
cá biển Việt Nam. Nxb. Nông Nghiệp.
3. Kawabata, T., 1978. Puffer toxin. In: The
Manual for the methods of Food Sanitation
Tests. The Manual for the methods of Food
Sanitation Tests. Vol 2, 232.
4. Yotsu, M., Endo, A. and T., Yasumoto., 1989.
Short communication: An improved
tetrodotoxin analyser. Agric. Biol. Chem. 53:
893-895.
5. Nakamura, M. & T., Yasumoto., 1985.
Tetrodotoxin derivaties in puffer fish. Toxicon,
23 (2), 271-276.
6. Viet Ha Dao, Tien Dung Nguyen, Thu Hong
Nguyen, Yoshinobu Takata, Shigeru Sato,
Masaaki Kodama and Yasuwo Fukuyo. 2012.
Coastal Marine Science 35(1): 001-006.
7. Kodama, M. and S., Sato., 2005. Puffer toxin. In
Shyokuhin Eiseikensasisin (The Manual for
Food Sanitation Test). Ministry of Health,
Labour and Welfare (ed.), 661-666, Japanese
Hygienic Association, Tokyo. (In Japanese).
8. Hashimoto, Y., 1979. Marine toxins and other
marine bioactive metabolites. Japanese
Scientific Society Press. 358 pp.
Độc tính tetrodotoxin trong sản phẩm nước ...
267
THE TOXICITY OF THE FISHSOURCE MADE FROM A
TETRODOTOXIN-BEARING PUFFER
TOQUIGENER GLOERFELTI
Dao Viet Ha1, Shigeru Sato2
1Institute of Oceanography-VAST
2Fisheries School, Kitasato University, Japan
ABSTRACT: The experiment of making fishsource using a TTX-bearing puffer Toquigener gloerfelti as a
material was conducted during 12 months in order to observe a trend of toxicity in the fishsource product. The
result showed that toxicity had been decreased by time and after 12 months; about 86.43 - 93.93 % of initial
toxicity was disappeared. The reason for this is the increasing of pH in the fermentation condition caused the
decomposition of some tetrodotoxin moleculars. Notibly, after long time of experiment with high salinity, acidic
or neutrolize condition, still certain toxicity (6.07 - 13.57%) was remaining in puffer fishsource product. On
the other hand, according to local fishsource producers, fishsource is often ready to be commercial after 3-4
months of proccessing, that may contain 49.44 - 37.47% of initial toxicity (based on the data obtained from this
study). It means that if initital toxicity in the fishsource material was high enough, there is a possibility to
cause human poisoning. The studied result indicated that using toxic puffer as fishsource material is not safe
for human consumption.
Keywords: fishsource, Toquigener gloerfelti, tetrodotoxin, toxicity
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3532_11945_1_pb_2905_2079594.pdf