Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị
về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây
dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ
bản trong tình hình mới. Chưa có những
giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, tiêu cực xã hội còn diễn ra
nghiêm trọng. Công tác tư tưởng - lý luận,
công tác tổ chức - cán bộ, công tác kiểm
tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều
bất cập.
Những hạn chế kể trên làm cho Đảng
chưa thật sự ngang tầm nhiệm vụ; từ đó,
gây ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ,
đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Một bộ
phận người dân chưa thấy rõ được vai trò
đại diện cho quyền lợi và lợi ích của mình,
từ đó, xuất hiện tâm lý thờ ơ với các hoạt
động của Đảng và Nhà nước.
Hạn chế về đổi mới kinh tế
Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước
ta đã đạt được sự tăng trưởng khá so với
các nước trong khu vực, song vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa
thật sự bền vững.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ
thống thị trường hình thành và phát triển
chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực
còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa
đồng bộ và chưa hiện đại, cản trở sự phát
triển; việc tạo nền tảng để trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn
chậm và gặp nhiều khó khăn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam: Từ lý luận đến thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 30 (55) - Thaùng 7/2017
121
Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam:
Từ lý luận đến thực tiễn
Economic and political reforms in Vietnam: From theory to practice
ThS. Nguyễn Thị Hảo,
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Nguyen Thi Hao, M.A.,
Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực trọng yếu nhất của đời sống xã hội, có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị cũng là những nội cốt lõi, xuyên suốt trong đường lối đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bài viết phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam, như: Thực chất của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị ở Việt Nam; mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; thành tựu và hạn chế trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.
Từ khóa: đổi mới, đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, Việt Nam.
Abstract
Economy and politics are the two key areas of social life, having dialectical relationship with each
other. Also, economic and political reforms are the core contents which have been relevant in the “Doi
moi” (Reform) policy of the Vietnamese Communist Party.
The article analyzes and clarifies some theoretical as well as practical issues of economic reform and
political innovation in Viet Nam, such as: the nature of economic and political reforms in Vietnam; the
relationship between economic reform and political reform; achievements and limitations of economic
and political reforms in Vietnam.
Keywords: reform, economic reform, political reform, Vietnam.
Trong mỗi quốc gia, kinh tế phát triển
là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho sự ổn định
chính trị và ngược lại, sự ổn định chính trị
lại là điều kiện quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế. Cho nên, thực hiện đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị là yêu cầu tất
yếu, khách quan của công cuộc đổi mới
đất nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011) của Đảng
Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh phải đặc
biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt
tám mối quan hệ lớn, trong đó, mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị được coi là mối quan hệ cơ bản, cốt lõi
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VI T NAM: TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
122
1. Thực chất đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam
Xét đến cùng, kinh tế có vai trò quyết
định chính trị; còn chính trị là sự biểu hiện
tập trung nhất của kinh tế, là kinh tế cô
đọng lại. Theo đó, về nguyên tắc, chính trị
luôn phải tuân theo các quy luật kinh tế
khách quan; nếu không, sự vận động của
chính trị sẽ gặp những khó khăn, trở ngại,
thậm chí là thất bại. Tuy nhiên, chính trị lại
không phải là bản sao thụ động của kinh tế,
mà chính trị có quy luật riêng, nhưng vẫn
tác động trở lại kinh tế. Nếu chính trị tác
động đến kinh tế phù hợp với quy luật, thì
sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; còn ngược
lại, nếu chính trị tác động không phù hợp,
thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
Trước thời kỳ đổi mới (trước 1986), do
chịu ảnh hưởng nặng nề của mô hình chủ
nghĩa xã hội Liên xô, nên Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nhấn mạnh quá mức vai trò
của kiến trúc thượng tầng, tuyệt đối hoá vai
trò chi phối của chính trị đối với kinh tế và
các mặt khác của đời sống xã hội, chưa
đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong
quan hệ với chính trị. Cùng với đó, chúng
ta xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp với mục tiêu xác lập chế
độ công hữu xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơ
chế quản lý kế hoạch hóa bằng mệnh lệnh
hành chính, nhấn mạnh và tuyệt đối hóa vai
trò của nhà nước trong mọi hoạt động kinh
tế - xã hội. Điều này đã kìm hãm dần và
triệt tiêu động lực cho phát triển sản xuất,
gây ách tắc lưu thông và rối loạn trong
phân phối.
Từ đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay),
Đảng ta đã chủ trương “kết hợp ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị”1. Đây là
một chủ trương đúng đắn, có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn trong công
cuổi đổi mới ở nước ta.
Nhìn tổng thể, Đảng khởi xướng công
cuộc đổi mới bắt đầu từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối
và các chính sách đối nội, đối ngoại. Song,
cùng với đổi mới tư duy chính trị, Đảng tập
trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vật chất
và tinh thần cho giữ vững ổn định chính trị,
làm tiền đề cho đổi mới các mặt khác của
đời sống xã hội.
Về đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không có
nghĩa là thay đổi hoặc từ bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa, mà đổi mới chính trị chính là
kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tiếp tục
con đường bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, đi tới chủ nghĩa xã hội. Đó
cũng là quá trình hoàn thiện tổ chức bộ
máy, nội dung và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị theo hướng tạo lập
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực
hiện ý chí, quyền lực của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực chất của đổi mới chính trị ở nước
ta là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa
xã hội; đổi mới và hoàn thiện tổ chức bộ
máy, nội dung và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị; tạo lập một nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Nội dung đổi mới
chính trị chủ yếu tập trung vào đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đổi mới hệ
thống chính trị và hoàn thiện nề dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Về đổi mới kinh tế
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam, thực chất
là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
NGUYỄN THỊ HẢO
123
trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam; vừa vận
động theo những quy luật của nền kinh tế
thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi
những nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế
tập trung vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà
trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách,
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là biểu hiện của mối quan hệ
giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã
hội, đó là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực
chính trị; liên quan mật thiết đến mối quan
hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng; giữa cái khách quan và cái chủ quan;
giữa cái tất yếu và cái có thể
Theo quan điểm biện chứng, kinh tế là
yếu tố quyết định cuối cùng đối với chính
trị và chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, là kinh tế cô đọng lại. Trong mỗi
thời đại lịch sử, sự vận động của các chế độ
chính trị - xã hội, suy cho cùng, đều phụ
thuộc vào sự vận động của chế độ kinh tế -
xã hội, trong đó phương thức sản xuất có
vai trò, vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, chính trị
lại không phải là bản sao thụ động của kinh
tế, mà chính trị có quy luật vận động riêng,
độc lập tương đối so với kinh tế và tác
động trở lại kinh tế. Dưới sự tác động của
chính trị, kinh tế có thể được thúc đẩy,
hoặc bị kìm hãm, hoặc vừa được thúc đẩy,
vừa bị kìm hãm.
Ngay từ những năm đầu đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chủ trương
về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, rằng phải “tập
trung sứ làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của các tổ chức chính trị”2. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Đồng thời với
đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy ngày càng tốt
quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội”3.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng không
chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu
của nền kinh tế nhiều thành phần trong
suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự
cần thiết phải có chính sách đúng đắn
nhằm sử dụng và phát triển các thành phần
kinh tế, nhằm thực hiện những mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Đảng đã có những
bước tiến trong tư duy về kinh tế, với chủ
trương “phát triển một nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa vận dụng theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”4, thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách “phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”5 tại các Đại
hội lần thứ IX, X, XI, XII Đảng ta tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Một số thành tựu về đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
Công cuộc đổi mới của nước ta suốt 30
năm qua đã thu được nhiều thành tựu quan
trọng về mọi mặt, trong đó có thành tựu
ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VI T NAM: TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
124
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Thành tựu về đổi mới chính trị
Một là, đổi mới tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Từ Đại hội lần thứ VI đến nay, Đảng
ta đã không ngừng đổi mới phương pháp tư
duy lý luận, kiên định và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, bám sát tình hình thực tiễn thế giới
và trong nước, từng bước tổng kết thực
tiễn, khái quát lý luận, khắc phục những
quan điểm giản đơn, giáo điều, cực đoan,
duy ý chí và bảo thủ, mở ra bước chuyển
biến quan trọng trong tư duy lý luận, từng
bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối
đổi mới toàn diện, nâng cao nhận thức lý
luận về chủ nghĩa xã hội và về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quá trình đổi mới cho chúng ta nhận
thức được rằng, “xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên tất yếu phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã
hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”6. Nhờ sự
giữ vững nền tảng tư tưởng của xã hội
trong suốt tiến trình đổi mới đất nước,
Đảng ta đã tạo sự thống nhất tư tưởng
chính trị trong toàn Đảng và toàn xã hội;
giữ vững sự nhất quán về đường lối cách
mạng của Đảng, đó là mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị.
Trọng tâm của đổi mới chính trị ở
nước ta là đổi mới hệ thống chính trị. Hệ
thống chính trị của nước ta bao gồm: Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, vận hành theo cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ”. Trong thời kỳ đổi đi mới,
Đảng ta luôn coi công tác xây dựng Đảng,
có vai trò then chốt; chú trọng xử lý đúng
đắn quan hệ giữa nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng. Đảng và Nhà nước chú
trọng Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”,
có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực
hiện đường lối, quan điểm của Đảng và
quản lý đất nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân đã không ngừng đổi mới. Hiệu
quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể ngày càng được nâng cao, vai trò
thực hiện phản biện, giám sát xã hội được
củng cố, góp phần xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước, phát huy quyền dân chủ
của nhân dân, góp phần giữ vững được ổn
định chính trị - xã hội.
Ba là, xây dựng và phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa bao quát tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó, dân chủ trên lĩnh vực kinh tế (với nghĩa
nhân dân là chủ sở hữu tư liệu sản xuất chủ
yếu, chủ thể quản lý phân phối...) là cơ sở.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân thông qua việc xây dựng,
củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc; tăng cường sự đồng
thuận xã hội; đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể xã hội7. Nhờ đó, mối quan hệ
giữa các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
được gắn bó chặt chẽ và cụ thể hơn; tăng
cường đoàn kết, gắn bó trong nhân dân,
NGUYỄN THỊ HẢO
125
xây dựng cộng đồng, xã hội, tạo môi
trường văn hóa, xã hội lành mạnh, góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Thành tựu về đổi mới kinh tế
Qua 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta đã vận dụng những quy luật kinh tế
để xác định và xây dựng một nền kinh tế
phát triển cao, lực lượng sản xuất hiện đại
dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu, kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội. Chúng ta có được những bước tiến
mới trong tư duy phát triển và thực tiễn
hoạt động của nền kinh tế.
Công cuộc đổi mới của Đảng bắt đầu
từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh
tế. Đảng xác định xóa bỏ mô hình kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang
phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình
kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ, với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối, nhằm tạo lập môi
trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc đẩy cơ
cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, giải
phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Thành tựu nổi bật trên lĩnh vực đổi
mới kinh tế là đã đưa đất nước ta thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng kinh tế, xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau 30
năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu phát triển kinh tế ấn tượng, được
thế giới đánh giá cao. Sau 10 năm đầu đổi
mới (1986 - 1996), đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội1; sau 25 năm đổi
mới (năm 2010) đất nước ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước có
thu nhập trung bình8. Bình quân giai đoạn
2011- 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
khoảng 5,9%, mặc dù thấp hơn so với giai
đoạn 2006 - 2010 (7,26%/năm9), nhưng
trong bối cảnh kinh tế thế giới thì đây vẫn
là mức tăng tương đối tốt.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được xác định cụ thể hơn,
từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được
sự đồng thuận trong xã hội. Các yếu tố thị
trường được vận hành khá đồng bộ và gắn
kết hiệu quả hơn với thị trường nước ngoài.
Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải
thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng
hơn. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
được nâng lên một bước. Vấn đề Cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng đạt kết quả bước đầu, chủ
trương gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng theo hướng kết hợp giữa chiều rộng
và chiều sâu, chú trọng chiều sâu, nâng cao
hiệu quả và sức mạnh.
3. Một số hạn chế về đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở nước ta
Đổi mới là một quá trình vận động của
những mâu thuẫn đan xen giữa cái cũ và
cái mới, giữa cái bảo thủ, trì trệ và cái tiến
bộ, văn minh, giữa sự giáo điều và sự sáng
tạo. Cho nên, bên cạnh những thành tựu đạt
được, quá trình đổi mới ở nước ta cũng
mắc phải không ít hạn chế, yếu kém.
Hạn chế về đổi mới chính trị
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng
vẫn còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề
đặt ra trong quá trình đổi mới để định
hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa
học cho hoạch định đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Thực tế đổi mới vẫn còn nhiều vấn đề đòi
hỏi cần đi sâu nghiên cứu, làm rõ cả về mặt
lý luận và thực tiễn, như vấn đề: Định
hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị
ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VI T NAM: TỪ LÝ LUẬN ĐẾN THỰC TIỄN
126
trường; quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững; quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa
ổn định và phát triển; quan hệ giữa dân chủ
và kỷ luật; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội
Việc đổi mới hệ thống chính trị còn
chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế,
nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế,
chính sách. Cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà
nước còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ
của nhiều cơ quan, đơn vị còn chồng chéo,
chưa đủ cụ thể, chưa rõ thẩm quyền, trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Công tác dự báo, hoạch định và lãnh đạo tổ
chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà
nước còn nhiều bất cập. Việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ, song “chưa
theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản
lý đất nước”10.
Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị
về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, song công tác xây
dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ
bản trong tình hình mới. Chưa có những
giải pháp hiệu quả để ngăn chăn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên; tình trạng tham nhũng, lãng
phí, quan liêu, tiêu cực xã hội còn diễn ra
nghiêm trọng. Công tác tư tưởng - lý luận,
công tác tổ chức - cán bộ, công tác kiểm
tra, giám sát, công tác dân vận còn nhiều
bất cập.
Những hạn chế kể trên làm cho Đảng
chưa thật sự ngang tầm nhiệm vụ; từ đó,
gây ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ,
đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Một bộ
phận người dân chưa thấy rõ được vai trò
đại diện cho quyền lợi và lợi ích của mình,
từ đó, xuất hiện tâm lý thờ ơ với các hoạt
động của Đảng và Nhà nước.
Hạn chế về đổi mới kinh tế
Sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế nước
ta đã đạt được sự tăng trưởng khá so với
các nước trong khu vực, song vẫn chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa
thật sự bền vững.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ
thống thị trường hình thành và phát triển
chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực
còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa
đồng bộ và chưa hiện đại, cản trở sự phát
triển; việc tạo nền tảng để trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn
chậm và gặp nhiều khó khăn.
Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong
mục tiêu phấn đấu để đến 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được. Kinh tế vĩ
mô ổn định nhưng chưa vững chắc; nợ
công tăng nhanh, nợ xấu giảm dần nhưng
còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh còn
gặp nhiều khó khăn. Việc kiểm soát lạm
phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền
kinh tế chưa thực sự bền vững.
Nhìn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân giai đoạn (2011 - 2014) (5,64%)
cho thấy, mức tăng trưởng kinh tế thực tế
còn thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch, tốc
độ phục hồi còn chậm; chất lượng tăng
trưởng ở một số mặt còn thấp. Khoảng
cách phát triển so với các nước trong khu
vực còn lớn. Việc thực hiện cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng còn chậm. Mô hình tăng trưởng còn
chưa đủ rõ; năng suất lao động còn thấp,
phát triển kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào
NGUYỄN THỊ HẢO
127
vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp.
Có thể thấy, thời kỳ đổi mới, với tính
chất đặc trưng là sự thay đổi, biến động
không ngừng như ở Việt Nam hiện nay,
nguy cơ bất ổn định và những tác động tiêu
cực của nó tới sự phát triển vẫn đang tiềm
ẩn. Để đảm bảo giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đỏi mới chính trị ở
nước ta, cần xác định rõ những nhiệm vụ
ngắn hạn trong tổng thể dài hạn, hướng tới
mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước.
Cần giữ vững ổn định chính trị và phát triển
kinh tế trên cơ sở đổi mới toàn diện, đồng
bộ, có kế thừa; gắn với dân chủ, công bằng
xã hội, vì lợi ích của nhân dân. Giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là nội dung trọng yếu trong
công cuộc đổi mới nhằm mục tiêu phát triển
bền, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, tr.71.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá
VI, tr.17.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, tr.54.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện
Đại hội đại biểu lần thứ VII, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1991, tr.54.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện
Đại hội đại biểu lần thứ IX, Nxb. Chính trị
Quốc gia, tr.86.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.85.
7. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.79.
8. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.20.
9. Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.20.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.171.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà, Đoàn Minh
Tuấn (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam -
Những tìm tòi và đổi mới trên con đường lên
chủ nghĩa xã hội (1986 - 2006), Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
2. GS.TS. Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu
Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn Hiền, GS. TS. Nguyễn
Viết Thông (đồng chủ biên, 2016), Một số vấn
đề lý luận – thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
3. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt
Nam - Thực tiễn và nhận thức lý luận, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Thắng, Vũ Văn Phúc, Phạm
Văn Đức, Nguyễn Linh Khiếu (chủ biên,
2013). Văn kiện Đại hội XI của Đảng - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên, 2006), Đổi mới
và phát triển ở Việt Nam: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
6. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên, 2011), Về các
mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong
quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 21/6/2017 Biên tập xong: 15/7/2017 Duyệt đăng: 20/7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_kinh_te_va_doi_moi_chinh_tri_o_viet_nam_tu_ly_luan_d.pdf