Một là, các quy định của Luật về phân
công, phối hợp trong hoạt động lập pháp
không phù hợp.
Theo các điều quy định của Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015, việc Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội xem xét thông
qua một dự án luật tại một kỳ họp hay hai
kỳ họp thì sau khi cơ quan có thẩm quyền
đưa trình ra tại phiên họp toàn thể của Quốc
hội, dự án luật chủ yếu thuộc về trách nhiệm
của các cơ quan của Quốc hội. Theo khoản 5
Điều 74 quy định đối với dự án luật xem xét
thông qua tại một kỳ họp thì “cơ quan thẩm
tra chủ trì, phối hợp với cơ quan trình
dự thảo, dự án giúp Ủy ban thường vụ
Quốc hội (UBTVQH) dự kiến những vấn đề
quan trọng, những vấn đề lớn của dự án, dự
thảo và có ý kiến khác nhau trình Quốc hội
biểu quyết”. Đối với dự án luật thông qua tại
hai kỳ họp cũng quy định tương tương như
vậy: “a) Trong thời gian giữa hai kỳ họp của
Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo tổ chức việc
nghiên cứu giải trình dự án, dự thảo, xây
dựng báo cáo giải trình .; b) UBTVQH
xem xét, thảo luận báo cáo giải trình, tiếp
thu chỉnh lý ” (khoản 3 Điều 75).
Theo các quy định này, các dự án luật
sau lần trình thứ nhất (đối với dự án luật
thông qua tại một kỳ họp) và lần trình thứ
hai (đối với dự án luật thông qua tại hai kỳ
họp) thì dự án luật chuyển sang sân Quốc
hội và việc chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung dự án
luật hoàn toàn thuộc trách nhiệm của các cơ
quan của Quốc hội. Đó là cơ quan có thẩm
quyền thẩm tra (chủ yếu là thường trực của
cơ quan đó) và UBTVQH phối hợp với cơ
quan, tổ chức trình dự án luật (chủ yếu là cơ
quan soạn thảo). Phân công và phối hợp như
vậy là chưa hợp lý. Hiến pháp năm 2013 đã
xác định một cách minh bạch Quốc hội là
cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp;
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và
Tòa án Nhân dân thực hiện quyền tư pháp
Theo đó, quyền lập pháp là quyền thay mặt
toàn dân xem xét để bấm nút thông qua dự
án luật mà không phải là quyền làm ra các
dự thảo luật, sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý các
dự thảo luật. Quyền hành pháp như Hiến
pháp quy định là quyền: “đề xuất xây dựng
chính sách trình Quốc hội, UBTVQH quyết
định hoặc quyết định theo thẩm quyền để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
điều này, trình dự án luật, dự án ngân sách
nhà nước và các dự án khác trước Quốc
hội, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH”
(khoản 2 Điều 96). Như vậy, sau khi trình dự
án luật ra các kỳ họp của Quốc hội, việc các
cơ quan của Quốc hội chủ trì, phối hợp với
cơ quan soạn thảo chỉnh lý sửa đổi, bổ sung
nội dung của dự án luật là sự phối hợp không
hợp lý, dẫn đến trách nhiệm trong hoạt động
lập pháp không rõ ràng. Ở nước ta, cũng
như các nước trên thế giới, 90% dự án luật
là Chính phủ soạn thảo và đưa trình cơ quan
lập pháp. Bởi Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp, hơn ai hết thông qua hoạt động
quản lý mọi mặt đời sống nhà nước, Chính
phủ biết cần phải xây dựng chính sách như
thế nào, chính sách đó có nội dung ra sao và
điều chỉnh nó như thế nào thì có hiệu quả,
hiệu lực nhất. Do vậy, cơ quan chủ trì của
sự phối hợp này thuộc về các cơ quan của
Quốc hội nên làm cho chính cơ quan soạn
thảo dự án luật ỷ lại, dựa dẫm, không phát
huy đầy đủ thế mạnh của cơ quan trực tiếp
quản lý mọi mặt đời sống nhà nước. Do vậy,
thực tiễn cho thấy chất lượng của một số
dự án luật không cao. Ví như: Bộ luật Hình
sự, Luật Bảo hiểm xã hội sau khi ban hành
không được dư luận xã hội đồng tình, cần
phải kiểm điểm, quy trách nhiệm thì không
tìm ra được địa chỉ một cách cụ thể. Luật
tốt thì thành tích của chung, nhưng luật ban
hành ra chưa tốt không biết cơ quan nào chịu
trách nhiệm chính. Có ý kiến cho rằng, theo
quy định của Luật Ban hành VBQPPL hiện
hành thì Quốc hội chịu trách nhiệm chính,
ngược lại, có ý kiến cho rằng, theo Hiến
pháp năm 2013 thì Chính phủ là cơ quan
soạn thảo dự án luật phải chịu trách nhiệm
chính. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai.
Bởi, Hiến pháp năm 2013 đã quy định Chính
phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
mà nhiệm vụ hàng đầu của quyền hành pháp
là “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc
hội” còn Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn
xem xét thông qua Luật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới quy trình lập pháp hiện hành theo hiến pháp năm 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỔI MỚI QUY TRÌNH LẬP PHÁP HIỆN HÀNH
THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013
Tóm tắt:
Qua 4 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 cho thấy, công tác xây dựng pháp luật ở nước ta đã có chuyển biến
tích cực, chất lượng văn bản pháp luật đã được nâng cao hơn, nhiều văn
bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, đối chiếu với những nội dung mới của Hiến pháp năm 2013, có
thể thấy Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 còn có
khiếm khuyết như: các quy định của Luật về phân công, phối hợp trong
hoạt động lập pháp không phù hợp, chưa thể hiện đầy đủ vai trò của
Nhân dân trong hoạt động lập pháp; kiểm soát ủy quyền lập pháp chưa
được quy định chặt chẽ để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
của lập pháp ủy quyền. Vì vậy, việc hoàn thiện Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 đang được đặt ra cấp thiết.
Trần Ngọc Đường*
* GS. TS. Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Abstract
After 4 years of enforcement of the Law on Promulgation of Legal
Normative Documents of 2015, the law-making activities in our
country has had positive changes, the quality of legal documents has
been improved and they are timely issued to meet the requirements
of state management and provided important contribution to the
socio-economic developments. However, in comparison with the new
provisions under the Constitution of 2013, it can be observed that the
Law on Promulgation of Legal Normative Documents of 2015 still
has such shortcomings as: the inappropriate provisions of the Law on
allocation and coordination in legislative activities; the inadequate
role of the People in legislative activities; controlling of the legislative
authorization not strictly regulated to strengthen the positive effects
and reduce the negative aspects of legislative authorization. Therefore,
further improvements of the Law on Promulgation of Legal Normative
Documents of 2015 is urgently required.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quy trình lập pháp; Hiến
pháp; Quốc hội; đại biểu Quốc hội;
Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 25/06/2019
Biên tập : 07/07/2019
Duyệt bài : 15/07/2019
Article Infomation:
Keywords: Legislation process;
Constitution; National Assembly;
National Assembly deputies; Law on
Promulgation of Legal Normative
Documents..
Article History:
Received : 25 Jun 2019
Edited : 07 Jul. 2019
Approved : 15 Jul. 2019
1. Những bất cập của quy trình lập pháp
hiện hành
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 trong
hoạt động lập pháp và lập quy, Quốc hội đã
ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL) sửa đổi, bổ sung năm
2015. Tuy nhiên, Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015 chưa thể chế đầy đủ, sâu sắc
nội dung và tinh thần mới của Hiến pháp
năm 2013.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 13(389) T7/2019
- Trước hết, Hiến pháp năm 2013
không thừa nhận quyền lập hiến và quyền
lập pháp là một quyền như quan niệm của
Hiến pháp năm 1992 rằng chỉ duy nhất và
toàn quyền thuộc về Quốc hội. Ngược lại
Hiến pháp năm 2013 thừa nhận quyền lập
hiến và quyền lập pháp là hai quyền khác
nhau. Quyền lập hiến là quyền lực gốc, cao
hơn quyền lập pháp, còn quyền lập pháp
phái sinh từ quyền lập hiến. Vì thế quyền
lập hiến thuộc về Nhân dân, còn quyền lập
pháp thuộc về Quốc hội. Như vậy, quyền
lập pháp khác với quyền lập hiến. Lập pháp
là quyền duy nhất thuộc về Quốc hội, tức
là quyền thay mặt Nhân dân thẩm tra, phản
biện để xem xét quyết định thông qua hay
chưa thông qua một dự án Luật do cơ quan
hay cá nhân có thẩm quyền đưa trình Quốc
hội. Nếu dự án đó qua kiểm soát bằng các
hoạt động phân tích, đánh giá, phản biện mà
cơ quan có thẩm quyền đưa ra trình không
giải trình thuyết phục được các cơ quan của
Quốc hội và đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thì
phải có trách nhiệm nghiên cứu, tìm tòi để
có phương án chính sách phù hợp trình Quốc
hội. Vì vậy, không nên quan niệm, quyền lập
pháp duy nhất thuộc về Quốc hội là Quốc
hội phải làm từ A đến Z trong tất cả các công
đoạn của quy trình lập pháp. Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội và ĐBQH được bầu ra
không phải để soạn thảo các dự án Luật mà
nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu là thẩm tra,
kiểm soát các dự án luật, bảo đảm cho các dự
án luật sau khi xem xét, bấm nút thông qua
phù hợp với ý chí, nguyện vọng của Nhân
dân, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã
hội, bảo đảm tính khả thi, tính hợp hiến và
tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Hiến
pháp năm 2013 phân định Quốc hội là cơ
quan thực hiện quyền lập pháp nhằm làm rõ
mối quan hệ độc lập tương đối giữa Quốc
hội, Chính phủ và Tòa án Nhân dân tối cao.
Trong quy trình lập pháp, tính độc lập tương
đối của Quốc hội đối với hành pháp (Chính
phủ) và tư pháp (Tòa án Nhân dân) đó là:
bằng hoạt động thẩm tra, xem xét, Quốc hội
có quyền thông qua hay chưa thông qua dự
án luật.
- Hai là, Hiến pháp năm 2013 lần đầu
tiên quy định Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp (Điều 94). Điều đó khẳng định
rằng trong mối quan hệ với quy trình lập
pháp, hơn ai hết, Chính phủ là người phải
chịu trách nhiệm hàng đầu trong việc đề xuất,
hoạch định, soạn thảo, thẩm định, các chính
sách quốc gia mà phần lớn là dưới dạng các
dự án luật để đưa trình Quốc hội và nếu được
Quốc hội xem xét và bấm nút thông qua,
Chính phủ lại là người tổ chức thực hiện để
đưa chính sách quốc gia đó vào cuộc sống.
Đó chính là thiên chức của Chính phủ mà
Hiến pháp năm 2013 xác định trong mối quan
hệ với quyền lập pháp. Hoàn toàn đối lập với
quan niệm rằng Chính phủ được Quốc hội
giao nhiệm vụ “giúp đỡ” Quốc hội soạn thảo
dự án luật như quan niệm trong nhà nước tập
quyền XHCN trước đây. Do đó, chất lượng
của một đạo luật phần lớn phụ thuộc vào chất
lượng đầu vào của các chính sách do Chính
phủ soạn thảo trong dự án luật. Một đất nước
muốn phát triển và ổn định thì chính sách
quốc gia phải được ban hành kịp thời, “thông
minh” và tổ chức thực hiện tốt. Trách nhiệm
đó, theo Hiến pháp năm 2013 được Nhân dân
giao cho Chính phủ chứ không phải do Quốc
hội giao cho Chính phủ. Điều đó cũng hoàn
toàn phù hợp với thực tiễn nước ta, cũng như
của hầu hết các nhà nước dân chủ và pháp
quyền trên thế giới là hơn 90% các dự án luật
do Chính phủ soạn thảo, trình Quốc hội xem
xét, thông qua.
- Ba là, Hiến pháp năm 2013, lần
đầu tiên quy định "Tòa án Nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" (Điều
102). Quy định này thể hiện mối quan hệ
độc lập tương đối của Tòa án Nhân dân với
Quốc hội và Chính phủ. Tòa án Nhân dân
tối cao có quyền đưa trình các dự án luật
trong việc thực hiện quyền tư pháp (xét xử),
nhưng Chính phủ có quyền cho ý kiến và
phải có trách nhiệm về chính sách quốc gia
trong các dự án luật này. Bởi vì, Chính phủ
là người có trách nhiệm trong việc đảm bảo
cơ sở vật chất, tài chính cho việc thực hiện
trên thực tế các chính sách quốc gia này.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 13(389) T7/2019
- Bốn là, Hiến pháp năm 2013 lần đầu
tiên quy định một nguyên tắc mới về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Đó
là: “quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản
3 Điều 2). Điều đó khẳng định rằng, lập pháp
là một quyền, đồng thời là một phương thức
kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì vậy, việc
Quốc hội xem xét, thông qua các dự án luật
cần được xem là một phương thức kiểm soát
quyền lực nhà nước đối với các dự án luật
của các cơ quan có thẩm quyền trình trước
Quốc hội mà không phải là một hoạt động
làm luật theo nghĩa thông thường. Theo đó,
Luật Ban hành VBQPPL cần phải coi việc
xem xét, thông qua luật của Quốc hội là một
hoạt động kiểm soát việc thực hiện quyền
hành pháp, tư pháp, thay vì xem nó là một
hoạt động làm luật trong quy trình lập pháp
như hiện nay.
- Năm là, Hiến pháp năm 2013 lần
đầu tiên quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam giám sát, phản biện xã hội” (Điều 9)
và “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp” (Điều 6). Các quy
định nói trên đòi hỏi phải có vai trò giám sát
phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
sự tham gia đóng góp ý kiến của Nhân dân
trong quy trình lập pháp như là một phương
thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía
Nhân dân.
Như vậy, mô hình lập pháp mà Hiến
pháp năm 2013 xác lập là: Đầu vào của
hoạt động lập pháp theo Hiến pháp chủ yếu
là Chính phủ và đầu ra của hoạt động lập
pháp cũng chủ yếu là Chính phủ. Điều đó
có nghĩa là Chính phủ phải chịu trách nhiệm
về chất lượng của các chính sách thể hiện
trong dự án luật, kể cả các dự án luật không
do Chính phủ trình. Cùng với trách nhiệm
về chất lượng đầu vào của các dự án luật,
Chính phủ cũng phải chịu trách nhiệm cả về
đầu ra của dự án luật. Đó là trách nhiệm tổ
chức và thực hiện luật trong đời sống nhà
nước và đời sống xã hội.
Đối chiếu với những nội dung mới nói
trên của Hiến pháp năm 2013, có thể thấy
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 còn có
hạn chế sau đây:
Một là, các quy định của Luật về phân
công, phối hợp trong hoạt động lập pháp
không phù hợp.
Theo các điều quy định của Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015, việc Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội xem xét thông
qua một dự án luật tại một kỳ họp hay hai
kỳ họp thì sau khi cơ quan có thẩm quyền
đưa trình ra tại phiên họp toàn thể của Quốc
hội, dự án luật chủ yếu thuộc về trách nhiệm
của các cơ quan của Quốc hội. Theo khoản 5
Điều 74 quy định đối với dự án luật xem xét
thông qua tại một kỳ họp thì “cơ quan thẩm
tra chủ trì, phối hợp với cơ quan trình
dự thảo, dự án giúp Ủy ban thường vụ
Quốc hội (UBTVQH) dự kiến những vấn đề
quan trọng, những vấn đề lớn của dự án, dự
thảo và có ý kiến khác nhau trình Quốc hội
biểu quyết”. Đối với dự án luật thông qua tại
hai kỳ họp cũng quy định tương tương như
vậy: “a) Trong thời gian giữa hai kỳ họp của
Quốc hội, UBTVQH chỉ đạo tổ chức việc
nghiên cứu giải trình dự án, dự thảo, xây
dựng báo cáo giải trình.; b) UBTVQH
xem xét, thảo luận báo cáo giải trình, tiếp
thu chỉnh lý” (khoản 3 Điều 75).
Theo các quy định này, các dự án luật
sau lần trình thứ nhất (đối với dự án luật
thông qua tại một kỳ họp) và lần trình thứ
hai (đối với dự án luật thông qua tại hai kỳ
họp) thì dự án luật chuyển sang sân Quốc
hội và việc chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung dự án
luật hoàn toàn thuộc trách nhiệm của các cơ
quan của Quốc hội. Đó là cơ quan có thẩm
quyền thẩm tra (chủ yếu là thường trực của
cơ quan đó) và UBTVQH phối hợp với cơ
quan, tổ chức trình dự án luật (chủ yếu là cơ
quan soạn thảo). Phân công và phối hợp như
vậy là chưa hợp lý. Hiến pháp năm 2013 đã
xác định một cách minh bạch Quốc hội là
cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp;
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và
Tòa án Nhân dân thực hiện quyền tư pháp.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 13(389) T7/2019
Theo đó, quyền lập pháp là quyền thay mặt
toàn dân xem xét để bấm nút thông qua dự
án luật mà không phải là quyền làm ra các
dự thảo luật, sửa đổi, bổ sung, chỉnh lý các
dự thảo luật. Quyền hành pháp như Hiến
pháp quy định là quyền: “đề xuất xây dựng
chính sách trình Quốc hội, UBTVQH quyết
định hoặc quyết định theo thẩm quyền để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
điều này, trình dự án luật, dự án ngân sách
nhà nước và các dự án khác trước Quốc
hội, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH”
(khoản 2 Điều 96). Như vậy, sau khi trình dự
án luật ra các kỳ họp của Quốc hội, việc các
cơ quan của Quốc hội chủ trì, phối hợp với
cơ quan soạn thảo chỉnh lý sửa đổi, bổ sung
nội dung của dự án luật là sự phối hợp không
hợp lý, dẫn đến trách nhiệm trong hoạt động
lập pháp không rõ ràng. Ở nước ta, cũng
như các nước trên thế giới, 90% dự án luật
là Chính phủ soạn thảo và đưa trình cơ quan
lập pháp. Bởi Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp, hơn ai hết thông qua hoạt động
quản lý mọi mặt đời sống nhà nước, Chính
phủ biết cần phải xây dựng chính sách như
thế nào, chính sách đó có nội dung ra sao và
điều chỉnh nó như thế nào thì có hiệu quả,
hiệu lực nhất. Do vậy, cơ quan chủ trì của
sự phối hợp này thuộc về các cơ quan của
Quốc hội nên làm cho chính cơ quan soạn
thảo dự án luật ỷ lại, dựa dẫm, không phát
huy đầy đủ thế mạnh của cơ quan trực tiếp
quản lý mọi mặt đời sống nhà nước. Do vậy,
thực tiễn cho thấy chất lượng của một số
dự án luật không cao. Ví như: Bộ luật Hình
sự, Luật Bảo hiểm xã hội sau khi ban hành
không được dư luận xã hội đồng tình, cần
phải kiểm điểm, quy trách nhiệm thì không
tìm ra được địa chỉ một cách cụ thể. Luật
tốt thì thành tích của chung, nhưng luật ban
hành ra chưa tốt không biết cơ quan nào chịu
trách nhiệm chính. Có ý kiến cho rằng, theo
quy định của Luật Ban hành VBQPPL hiện
hành thì Quốc hội chịu trách nhiệm chính,
ngược lại, có ý kiến cho rằng, theo Hiến
pháp năm 2013 thì Chính phủ là cơ quan
soạn thảo dự án luật phải chịu trách nhiệm
chính. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai.
Bởi, Hiến pháp năm 2013 đã quy định Chính
phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
mà nhiệm vụ hàng đầu của quyền hành pháp
là “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc
hội” còn Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn
xem xét thông qua Luật.
Hai là, các quy định của Luật Ban
hành VBQPPL năm 2015 không coi việc
xem xét thông qua luật là một phương thức
kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo các
quy định của Luật Ban hành VBQPPL năm
2015, việc Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
xem xét thông qua luật là hoạt động làm
luật mà không được quan niệm là hoạt động
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
thực hiện quyền lập pháp với các cơ quan
đưa trình dự án luật trong việc thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp theo
nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước
mà Hiến pháp quy định. Vì thế, từ thẩm tra
của các Ủy ban và Hội đồng Dân tộc, cho
ý kiến của UBTVQH, cho đến ĐBQH xem
xét thông qua dự án luật tại kỳ họp toàn thể
Quốc hội đều mang tính chất góp ý để hoàn
thiện dự án luật. Đó là quá trình “hợp tác”
giữa các cơ quan của Quốc hội và Quốc hội
để nâng cao chất lượng của dự án luật trước
khi Quốc hội bấm nút thông qua chứ không
phải là quá trình kiểm soát quyền lực nhà
nước giữa cơ quan thực hiện quyền lập pháp
đối với các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp trong hoạt động xây
dựng pháp luật. Đây phải là một phương
thức kiểm soát quyền lực nhà nước trước
khi VBQPPL có hiệu lực thi hành. Phương
thức kiểm soát trước đối với quyền lực nhà
nước trong xây dựng pháp luật có tác dụng
phòng ngừa rất to lớn, thể hiện sự thận trọng
của Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Với quan
niệm đó, việc xem xét, thông qua luật tại
các cơ quan của Quốc hội, cũng như tại
các phiên họp toàn thể của Quốc hội ở nghị
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 13(389) T7/2019
trường không thể bằng các hoạt động “thảo
luận” “cho ý kiến về những vấn đề lớn còn
có ý kiến khác nhau” như Luật Ban hành
VBQPPL năm 2015 quy định mà phải là các
hoạt động phân tích, tranh luận, phản biện
thể hiện thái độ đồng tình hay phản đối các
chính sách quốc gia đề ra trong dự thảo luật
và cơ quan có thẩm quyền trình dự án luật
phải có trách nhiệm giải trình làm rõ vấn đề
trước Quốc hội. Qua tranh luận, phản biện và
giải trình mà không thuyết phục được Quốc
hội thì cơ quan trình dự án luật (chứ không
phải là sự hợp tác với các cơ quan của Quốc
hội) phải nghiên cứu, tìm tòi để sửa đổi, bổ
sung tìm ra phương án chính sách mới để
trình Quốc hội. Nếu lại không được Quốc
hội chấp nhận thì lúc đó, giữa các cơ quan
của Quốc hội và các ĐBQH với cơ quan
trình dự án luật mới có sự thỏa hiệp nhằm
tìm ra phương án chính sách tốt nhất có thể
để thông qua. Hoạt động lập pháp thực chất
là một hoạt động ban hành thể chế chính
sách quốc gia. Thể chế chính sách quốc gia
tốt thì đất nước giàu mạnh và ổn định. Vì
thế, ở các nước, hoạt động lập pháp là quá
trình cọ xát giữa lập pháp với cơ quan trình
dự án luật mà chủ yếu là hành pháp để tìm ra
thể chế chính sách phù hợp nhất. Chúng tôi
cho rằng, không nên xem các nước dân chủ
và pháp quyền trên thế giới theo mô hình đa
nguyên chính trị nên hoạt động lập pháp mới
có sự cọ xát giữa các phe phái, còn đối với
nước ta chỉ có một Đảng lãnh đạo, không
nên và không cần thiết phải như vậy. Theo
chúng tôi, dù là theo mô hình đa nguyên hay
nhất nguyên chính trị thì hoạt động lập pháp
là một hoạt động khó khăn, phức tạp; chỉ
thông qua tranh luận, phản biện và giải trình
một cách thực chất mới tìm được phương án
về thể chế, chính sách phù hợp và tốt nhất
cho quốc gia. Đặc biệt trong điều kiện ngày
nay, khi mà dân trí nước ta ngày một nâng
cao, dân chủ ngày càng được coi trọng, hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 càng ngày càng
phát triển, thì hoạt động lập pháp càng trở
nên khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự thận trọng
và chín chắn trong việc tìm ra các phương án
chính sách tốt nhất để điều chỉnh các quan
hệ xã hội. Điều đó lại càng cần một quy trình
lập pháp theo phương thức kiểm soát quyền
lực nhà nước mà không đơn thuần là một
hoạt động cùng nhau làm luật.
Ba là, chưa thể hiện đầy đủ vai trò của
Nhân dân trong hoạt động lập pháp.
Vai trò của Nhân dân thông qua Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đều đã được thể hiện
trong hầu hết các công đoạn của quy trình
lập pháp từ việc hình thành các đề nghị xây
dựng các VBQPPL, hình thành chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm đến việc
soạn thảo, thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh trước khi Quốc hội xem xét thông qua.
Tuy nhiên, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
tư cách là một chủ thể có thẩm quyền giám
sát và phản biện xã hội trong hoạt động xây
dựng pháp luật mà Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận thì Luật Ban hành VBQPPL hiện hành
chưa quy định. Đồng thời, Nhân dân với tư
cách là công dân có các quyền dân chủ trực
tiếp cũng cần phải được thể chế trong hoạt
động lập pháp của Nhà nước.
Bốn là, kiểm soát ủy quyền lập pháp
chưa được quy định chặt chẽ để phát huy
mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lập
pháp ủy quyền.
Theo Luật Ban hành VBQPPL hiện
hành, tuy không nói rõ là lập pháp ủy quyền,
nhưng thực chất là Quốc hội ủy quyền lập
pháp của mình cho Chính phủ quy định chi
tiết hướng dẫn thi hành một số điều, khoản,
điểm trong các bộ luật, đạo luật dưới hình
thức nghị định và ban hành nghị định để quy
định vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của
Quốc hội, UBTVQH nhưng chưa đủ điều
kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh
và giao cho UBTVQH ban hành pháp lệnh
quy định những vấn đề được Quốc hội giao.
Như vậy, ủy quyền lập pháp thực chất là
hoạt động lập pháp nhưng không do Quốc
hội được Nhân dân trực tiếp ủy quyền thực
hiện quyền lập pháp ban hành mà lại được
Quốc hội ủy quyền cho cơ quan nhà nước
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 13(389) T7/2019
khác ban hành. Điều đó đòi hỏi ủy quyền lập
pháp phải có giới hạn chặt chẽ, không tràn
lan để đảm bảo phân công quyền lực một
cách đúng đắn giữa lập pháp và hành pháp,
bảo đảm quyền lập pháp thuộc về Quốc hội
mà Hiến pháp năm 2013 đã quy định.
Ủy quyền lập pháp là hoạt động vừa
có mặt tích cực lại vừa có mặt hạn chế. Mặt
tích cực của ủy quyền lập pháp là hoạt động
bổ sung cho hoạt động lập pháp, góp phần
nâng cao chất lượng của hoạt động lập pháp.
Bởi lẽ, trong hoạt động lập pháp của Quốc
hội, có một số điều luật không thể quy định
chi tiết hoặc nếu quy định chi tiết thì rất dễ
bị lạc hậu so với thời gian làm cho luật thiếu
ổn định, dễ bị thay đổi. Bên cạnh đó, trong
điều kiện hiện nay, nếu mọi quy định pháp
luật đều phải được Quốc hội ban hành dưới
dạng một đạo luật là một quá trình tốn kém
thời gian và tiền bạc thì không thể đáp ứng
kịp thời và hiệu quả công tác quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội. Do đó, ủy
quyền lập pháp cho Chính phủ ban hành
dưới dạng nghị định quy định những vấn đề
cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ
điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp
lệnh là cần thiết. Tuy nhiên, ủy quyền lập
pháp cũng chứa đựng những yếu tố tiêu cực.
Đó là, nếu không có sự ủy quyền chặt chẽ,
phù hợp, đúng đắn theo cơ chế phân công,
phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp sẽ dẫn đến
lập pháp ủy quyền lạm quyền, ban hành tràn
lan, làm cho số lượng văn bản ủy quyền lập
pháp trở nên quá nhiều, người dân khó khăn
trong việc tiếp cận pháp luật. Hệ thống các
VBQPPL trở nên phức tạp, rối rắm, nhiều
tầng nấc. Đây là chưa kể lập pháp ủy quyền
được thực hiện theo quy trình lập quy, thiếu
dân chủ và công khai hơn với quy trình lập
pháp. Vì vậy, vấn đề đảm bảo chất lượng của
nghị định phù hợp với luật, phòng chống lợi
ích nhóm, lợi ích cục bộ, ngành ẩn chứa
trong nghị định không phải lúc nào cũng dễ
dàng phát hiện ra.
2. Đề xuất mô hình lập pháp tổng thể cần
được thể chế trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật sửa đổi thời gian tới
Để khắc phục và những hạn chế của
Luật Ban hành VBQPPL nêu trên, chúng tôi
xin đề xuất mô hình lập pháp tổng thể mà
Luật Ban hành VBQPPL cần phải thể chế
sau đây:
Một là, Chính phủ phải chịu trách
nhiệm chính về đầu vào đối với hoạt động
lập pháp bao gồm:
+ Soạn thảo các dự án luật trình
Quốc hội.
+ Chịu trách nhiệm về chính sách đề ra
trong dự thảo luật đưa trình Quốc hội. Trong
trường hợp chính sách trong dự án luật qua
thẩm tra và thảo luận tại nghị trường không
được Quốc hội đồng tình thì Chính phủ (chứ
không phải cơ quan soạn thảo) phải giải
trình, thuyết phục và bảo vệ chính sách thể
hiện trong dự án trước UBTVQH, Quốc hội
mà không dễ dàng thỏa hiệp theo đề xuất
của các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH.
Nếu cuối cùng Quốc hội vẫn không đồng
tình thì Chính phủ (chứ không phải cơ quan
được giao soạn thảo) và Quốc hội (cụ thể
là UBTVQH) phải cùng nhau tìm ra một
phương án chính sách mới phù hợp nhất có
thể để đưa trình Quốc hội tại các kỳ họp sau.
+ Đối với một số ít dự án luật không
do Chính phủ soạn thảo trình Quốc hội mà
do Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
Nhân dân tối cao soạn thảo và trình thì trước
khi trình, Chính phủ phải đánh giá, phản
biện về các chính sách trong các dự án luật
đó. Bởi suy đến cùng Chính phủ phải chịu
trách nhiệm bảo đảm nguồn lực cho việc thi
hành các chính sách này sau khi dự án luật
được Quốc hội thông qua. Vì vậy, Chính phủ
phải xem xét một cách thực chất với tư cách
là một phương thức kiểm soát trước các
chính sách trong các dự án luật không do
mình soạn thảo và đưa trình Quốc hội.
Hai là, Quốc hội chịu trách nhiệm xem
xét, thông qua hay chưa thông qua các dự án
luật do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đưa
(Xem tiếp trang 39)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 13(389) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_quy_trinh_lap_phap_hien_hanh_theo_hien_phap_nam_2013.pdf