Với các nhận thức như vậy, xã hội dân
sự sẽ bao gồm các tổ chức xã hội mang tính
độc lập do Nhà nước quản lý theo pháp luật.
Đồng thời với việc xây dựng xã hội dân sự,
cần tiến hành xây dựng và hoàn thiện các
đạo luật có liên quan như Luật Biểu tình,
Luật Báo chí, Bộ luật Dân sự, Luật Tiếp cận
thông tin. phù hợp với thể chế chính trị
pháp quyền, nhằm đảm bảo cho xã hội dân
sự hoạt động.
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
được coi là hai mặt đối lập tồn tại một cách
khách quan trong quá trình phát triển của xã
hội hiện đại. Nhà nước pháp quyền và xã hội
dân sự được hình thành và phát triển từ hai
mặt đối lập trước đó là nhà nước “thống trị”
và xã hội “bị trị” hàng ngàn năm. Đây được
coi là bước phát triển tiến bộ vượt bậc của
xã hội loài người vào thế kỷ thứ XVIII, khi
mà nhiều nhà nước tư sản đã xây dựng nên
những đạo luật, trong đó có đạo luật gốc là
hiến pháp (thành văn hay bất thành văn).
Chính nhà nước pháp quyền và xã hội dân
sự khi được xây dựng, hoàn chỉnh, sẽ là các
thể chế phù hợp, có thể kiểm soát hữu hiệu
các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
như ở nhiều nước phát triển trên thế giới
hiện nay đã chứng minh thấy rõ.
Như vậy, việc hình thành và xây dựng
xã hội dân sự hoàn chỉnh, bảo đảm một cách
trật tự, ổn định ở nước ta là rất cần thiết hiện
nay. Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và xã hội dân sự hoàn
chỉnh có thể được ví như các “đôi cánh”
hoàn hảo của chiếc máy bay Việt Nam, mà
thân của nó là nền kinh tế thị trường hiện
đại. Kinh tế thị trường hiện đại chỉ có thể
phát triển nhanh, bền vững, cũng như Quốc
gia Việt Nam chỉ có thể “cất cánh” vững
vàng khi có các đôi cánh trước và sau “đều
đặn” (cân bằng) là nhà nước pháp quyền và
xã hội dân sự hoàn chỉnh
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 226 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới thể chế thực hiện phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ "gốc rễ" theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Tham nhũng, lãng phí luôn gắn liền
với nhau, tương tự như một cặp song sinh.
Cũng có thể nói rằng, tham nhũng biểu hiện
ở bên trong (nội dung), còn lãng phí biểu
hiện ở bên ngoài (hình thức); tham nhũng thì
kín đáo, còn lãng phí thì công khai. Tham
nhũng, lãng phí được coi là các căn bệnh
mãn tính, nguy hiểm của mọi quốc gia, bởi
chúng không có loại thuốc nào đặc trị dứt
điểm, có thể làm quốc gia phát triển trì trệ,
bất công bằng xã hội, thậm chí làm sụp đổ
chế độ.
Sinh thời, Hồ Chí Minh nhìn nhận tệ
nạn tham nhũng là loại kẻ thù cực kỳ nguy
hiểm, kẻ thù ở bên trong - “nội xâm”, “kín
đáo”; còn tệ nạn lãng phí cũng là kẻ thù
nguy hiểm không kém, nhưng nó là kẻ thù
ở bên ngoài - “ngoại xâm”, “công khai”, hay
theo cách nói của Hồ Chí Minh, là kẻ thù
“đàng hoàng”2. Người cho rằng, tham
nhũng, lãng phí là “kẻ thù của nhân dân”3;
rằng: “tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho
dân cho nước”4. Theo Hồ Chí Minh, kẻ thù
là những kẻ tham nhũng, lãng phí, thậm chí
có khi còn “tệ hơn” so với kẻ thù là những
kẻ “phản quốc”. Người đã nêu rõ: “Trộm
cắp tiền bạc của nhân dân, tổn hại kinh tế
của Chính phủ cũng là mật thám, phản quốc,
nếu không phải là tệ hại hơn nữa”5.
Theo Hồ Chí Minh, tham nhũng thực
chất là “tham ô”, tức nói đến các hiện tượng
“ăn cắp” tinh vi của những kẻ đã lợi dụng
“cái ô” quyền lực để bòn rút công quỹ, hay
nhũng nhiễu, vòi vĩnh nhân dân, những
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
ÀÖÍI MÚÁI THÏÍ CHÏË THÛÅC HIÏåN PHOÂNG, CHÖËNG
THAM NHUÄNG, LAÄNG PHÑ TÛ “GÖËC RÏΔ THEO TÛ TÛÚÃNG HÖÌ CHÑ MINH
NGUYỄN HỮU ĐỔNG*
* PGS, TS. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 573.
2 Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr. 501.
3 Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr. 490.
4 Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr. 491.
5 Hồ Chí Minh, Sđd, t.6, tr. 501.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
giai đoạn hiện nay, được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Mặc dù tham nhũng, lãng phí được coi là căn bệnh phổ biến của mọi quốc gia,
nhưng thực tế cũng cho thấy, quốc gia nào có thể chế được xây dựng theo đúng
quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn, sẽ giảm thiểu được các căn bệnh
này. Bài viết chủ yếu làm rõ, đề xuất các giải pháp đổi mới thể chế, nhằm thực
hiện phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ “gốc rễ”1 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
người dưới quyền, hòng ăn của “đút”, ăn
“hối lộ”. Tham nhũng là hiện tượng tồn tại
của con người, là khái niệm chỉ sự vật, hiện
tượng khách quan trong xã hội. Mỗi sự vật,
hiện tượng đều có các mặt (các cặp) đối lập,
nên hiện tượng tham nhũng cũng có các mặt
đối lập. Các mặt đối lập chung, cơ bản của
tham nhũng là “tham” và “nhũng”. Tham là
muốn nói đến lòng tham của con người, sự
“ham muốn một cách thái quá”6, không biết
tự kiềm chế; nhũng là muốn nói đến sự
nhũng nhiễu, “làm phiền hà” của người này
đối với người khác, nhằm đòi hỏi, đạt được
cái gì đó7.
Con người sống trong các quốc gia,
nhưng trong mỗi quốc gia lại diễn ra các tệ
nạn tham nhũng, lãng phí ít nhiều khác
nhau. Điều đó cũng có nghĩa, để tìm hiểu
nguyên nhân và phòng, chống từ gốc rễ
tham nhũng, lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần phải nhìn nhận từ hai khía cạnh:
hành vi của con người và thể chế của quốc
gia. Xét về hành vi, không thể đổ lỗi cho con
người ở quốc gia này vì có lòng tham, sự vô
cảm hơn con người ở quốc gia khác, để rồi
cho rằng ở quốc gia đó có nhiều tham
nhũng, lãng phí. Do vậy, khi nhìn nhận
nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng, lãng
phí, chủ yếu phải xem xét đến những khiếm
khuyết của thể chế quốc gia8.
Thể chế được hiểu một cách cô đọng là
“những nguyên tắc xác định mối quan hệ
giữa xã hội và các thành viên trong xã hội”9.
Trong xã hội hiện đại, việc xác định và bảo
đảm những nguyên tắc này được coi là cơ
sở quan trọng để có thể kiểm soát được các
mặt trái của kinh tế thị trường, trong đó có
các tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Tham
nhũng, lãng phí là thuộc tính bên trong, tức
nói đến tính chất của thể chế; ngoài thuộc
tính bên trong, còn có hình thức bên ngoài
của thể chế. Xét về tính chất, trong mỗi thể
chế quốc gia có các mặt đối lập chung, cơ
bản là “chuyên chế” và “dân chủ”. Xét về
hình thức, trong mỗi thể chế quốc gia có các
thể chế chủ yếu là văn hóa, chính trị và kinh
tế; tương ứng với chúng, có các mặt đối lập
là “nhà nước” (văn hóa) và “xã hội” (chính
trị và kinh tế). Nhà nước là muốn nói tới cá
thể (cá nhân) - nhóm; còn xã hội là muốn
nói tới nhiều cá thể (cộng đồng) - nhiều
nhóm. Trong mối quan hệ giữa nhà nước và
xã hội, hay giữa cá nhân và cộng đồng
thường diễn ra các mâu thuẫn, thậm chí
xung đột. Một trong các mâu thuẫn, xung
đột cơ bản giữa nhà nước và xã hội là sự lạm
quyền, độc đoán, thiếu dân chủ của các nhà
cầm quyền trong bộ máy nhà nước. Do vậy,
có thể thấy rằng, nguyên nhân gốc rễ của
tham nhũng, lãng phí ở mỗi quốc gia được
nhìn nhận là xuất phát từ sự tha hóa quyền
lực (quyền hạn) được trao của các nhà cầm
quyền trong bộ máy nhà nước. Sự tha hóa
này đã không được ngăn ngừa bởi một thể
chế hiệu quả, tức thể chế bảo đảm sự công
bằng về lợi ích giữa một số cá nhân cầm
quyền trong bộ máy nhà nước và đông đảo
người dân trong cộng đồng xã hội. Nói cách
khác, tham nhũng, lãng phí thực chất là biểu
hiện sự xung đột về lợi ích giữa đông đảo
các công dân trong xã hội với một số công
dân được ủy quyền thực thi quyền lực
(quyền hạn) trong bộ máy nhà nước.
2. Ở nước ta hiện nay, tham nhũng, lãng
phí là các tệ nạn đang gây nhiều bức xúc
nhất trong xã hội. Đây được coi là các điểm
“nóng” lớn, có thể dẫn tới nguy cơ tồn vong
của chế độ như Đảng đã từng nêu ra. Sinh
thời, Hồ Chí Minh cũng đã từng cảnh báo
về tệ tham nhũng, lãng phí của cán bộ, đảng
viên khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền.
Người chỉ rõ rằng, tham nhũng, lãng phí là
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2005, tr. 910.
7 Viện Ngôn ngữ học, Sđd, tr. 727.
8 Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, “Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí từ “gốc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 24/3/2015.
9 Các thể chế hiện đại, Báo cáo phát triển Việt Nam 2010.
do cán bộ, đảng viên gây ra là chính, bởi vì
khi họ có quyền hành nhưng lại không có cơ
chế để kiểm soát quyền hành được trao đó;
hơn nữa, việc chống tham nhũng, lãng phí
trong bộ máy nhà nước thường rất kém bởi
do cán bộ, đảng viên hay xem thường pháp
luật, coi việc giải quyết chúng như là công
việc nội bộ. Người đã nêu rõ: “Một điều
đáng chú ý: nhiều khi có người ngoài Đảng
họ tiết kiệm của công hơn những đảng
viên”; rằng, xử lý tệ tham ô, lãng phí không
nghiêm là “vì đảng viên thường xem pháp
luật, chính quyềnv.v.. là việc trong nhà”10.
Do vậy, phòng, chống tham nhũng, lãng
phí từ việc đổi mới thể chế cần phải được
xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Điều đó có
nghĩa là, rất cần phải tiếp tục đổi mới các thể
chế kinh tế, chính trị và văn hóa. Đổi mới
các thể chế này phụ thuộc rất lớn vào việc
sửa đổi những cách làm cũ, tư duy bảo thủ,
giáo điều trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
đảng viên, đặc biệt là những người có trọng
trách cao. Tư duy cũ, bảo thủ, giáo điều
được coi là một trong các nguyên nhân tạo
ra các rào cản của quá trình đổi mới hiện
nay. Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ: “Cán bộ
ta chỉ biết khư khư giữ nếp cũ. Cái không
hợp cũng không dám sửa bỏ, cái cần thiết
cũng không dám đặt mới”11. Điều đó có
nghĩa là, để đổi mới thể chế kinh tế, chính
trị và văn hóa, trước hết, cần phải đổi mới
tư duy, phương pháp lãnh đạo của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý (gọi chung là cán
bộ lãnh đạo) trong hệ thống chính trị. Đảng
và Nhà nước, mỗi cán bộ lãnh đạo cần phải
đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo theo
hướng “lãnh đạo khéo”12 như Hồ Chí Minh
đã chỉ dẫn: “Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể
hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to
cũng hóa ra tài nhỏ”13; hơn nữa: “Nếu lãnh
đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn
mấy, nhân dân cũng làm được”14.
3. Để phòng, chống các tệ nạn tham
nhũng, lãng phí có hiệu quả, tức thực hiện
ngăn ngừa các tệ nạn này từ việc “phòng” là
chính, rất cần phải đổi mới phương pháp
trong lãnh đạo. Tức là cùng với việc tăng
cường giáo dục phẩm chất, đạo đức cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, cần phải đẩy mạnh
hơn nữa khâu đổi mới thể chế. Theo chúng
tôi, trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu
rộng ở nước ta hiện nay, cần phải tập trung
vào đổi mới thể chế theo các hướng chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, cần tiếp tục đổi mới triệt để
từ thể chế kinh tế “tập trung, quan liêu, bao
cấp” với cơ chế “xin - cho” có nhiều bất
cập, sang thể chế kinh tế thị trường hiện đại
gắn với phát triển kinh tế tri thức trong điều
kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay15.
Thể chế kinh tế thị trường hiện đại phát
triển theo xu hướng tiến bộ là biểu hiện trình
độ văn minh của xã hội loài người trong quá
trình lao động sản xuất vật chất, sản xuất
hàng hóa. Đây chính là sự thể hiện quy luật
kinh tế khách quan trong quá trình phát triển
của xã hội loài người. Không nên có cách
nhìn thiển cận rằng, kinh tế thị trường
thường gắn với cơ chế sản sinh ra các tệ nạn
tiêu cực như tham nhũng, lãng phí để rồi
không kiên quyết thực hiện đổi mới triệt để,
và định hướng sự phát triển đất nước theo ý
chí chủ quan, áp đặt. Việc duy trì công hữu
hay tư hữu trong nền kinh tế phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của đất nước cũng chỉ là
các biện pháp để tối ưu hóa cấu trúc nền kinh
tế, tạo ra các động lực để thúc đẩy tăng
10 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 6, tr. 500.
11 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 246.
12 Nguyễn Hữu Đổng, “Khéo lãnh đạo: nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 10/2014.
13 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 280.
14 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 10, tr. 74.
15 Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, “Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí nhìn từ công tác xây dựng Đảng”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam số 11/2015.
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
trưởng kinh tế, phát triển đất nước nói chung.
Trong thể chế kinh tế thị trường, Nhà nước
không nên can thiệp quá nhiều, sâu vào thị
trường, mà cần tôn trọng sự cạnh tranh bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, có các biện
pháp chống độc quyền và áp dụng đúng, đủ
các cơ chế thị trường. Nhà nước có trách
nhiệm chủ yếu là đưa ra những dự báo, xây
dựng các chiến lược phát triển nói chung;
nắm giữ một số lĩnh vực kinh tế công ích cần
thiết, một số lĩnh vực mà tư nhân không
muốn đầu tư; bảo đảm sự công bằng, bảo vệ
những người yếu thế trong xã hội. Tức là,
trong nền kinh tế này, Nhà nước cần quan
tâm và có trách nhiệm can thiệp vào thị
trường khi thị trường bị “thất bại” để khắc
phục các khuyết tật của nó.
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo
hướng hiện đại, cũng tức là thực hiện phát
triển nền kinh tế thị trường hướng tới các
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” như Cương lĩnh của
Đảng và Hiến pháp năm 2013 đã xác định.
Đây cũng chính là các mục tiêu mà trước lúc
đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn
trong bản Di chúc: “Toàn Đảng, toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh”16.
Thứ hai, cần đổi mới triệt để từ thể chế
chính trị theo mô hình nhà nước “chuyên
chính vô sản” có nhiều khiếm khuyết, và chủ
yếu chỉ phù hợp với nền kinh tế tập trung,
quan liêu, bao cấp, sang thể chế chính trị
theo mô hình nhà nước “pháp quyền” - nhà
nước trong đó cần bảo đảm được địa vị lãnh
đạo của Đảng17.
Nhà nước pháp quyền thời hiện đại là
nhà nước có bước phát triển tiến bộ rất lớn
so với kiểu nhà nước “thống trị” hàng ngàn
năm thời cổ đại và trung đại trước đây. Khi
đề cập tới việc xây dựng nhà nước kiểu mới
- nhà nước do giai cấp những người lao
động nắm giữ vào giai đoạn đầu, V.I.Lênin
cũng đã từng chỉ rõ rằng, vẫn cần phải sử
dụng thể chế chính trị pháp quyền và nhà
nước “kiểu tư sản”18. Điều đó cho thấy, các
nhà nước có tổ chức bộ máy đã được hoàn
thiện ở một số nước phát triển hiện nay trên
thế giới, cần phải được coi là các mô hình
chính thể để chúng ta có thể tham khảo, học
tập và vận dụng vào điều kiện có Đảng “của
toàn dân”19 nắm chính quyền. Trong nhà
nước pháp quyền như vậy, lẽ tất nhiên cũng
phải đáp ứng được các yêu cầu chung mà
Liên hợp quốc đã nêu ra:
i) Bảo đảm các yếu tố pháp quyền trong
tổ chức bộ máy nhà nước. Tức bảo đảm tính
tối thượng của pháp luật trong thể chế chính
trị pháp quyền dân chủ; loại bỏ các cơ hội
cho sự chuyên quyền, độc đoán trong bộ
máy công quyền; mọi công dân đều được
bình đẳng trước pháp luật; các quan tòa phải
hoàn toàn độc lập khi xét xử cũng như trừng
phạt những kẻ lạm quyền.
ii) Bảo đảm các yêu cầu về trách nhiệm
giải trình của các cơ quan, những người có
chức trách trong bộ máy công quyền. Đây
là yêu cầu mang tính nguyên tắc, nhằm đảm
bảo cho bộ máy công quyền hoạt động có
hiệu quả. Bởi trách nhiệm giải trình sẽ buộc
các cơ quan của chính phủ phải công khai
chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện sự
ủy thác và các chi tiêu ngân sách nhà nước.
iii) Bảo đảm sự minh bạch, sự tham gia
và sự dự phần của mọi người dân trong các
hoạt động của bộ máy công quyền. Để bảo
đảm sự minh bạch, mọi văn bản pháp luật
và các chính sách đều phải được xây dựng,
thực thi một cách công khai, có sự tranh
luận, giám sát, phản biện của xã hội, bảo
đảm tính công bằng; các nhân viên, cơ quan
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nội - 1989, tr. 50.
17 Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng,“Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí nhìn từ công tác xây dựng Đảng”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam số 11/2015.
18 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Vấn đề “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 10, tháng 5/2015.
19 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 231.
công quyền phải minh bạch về tài sản và thu
nhập. Điều đó cũng có nghĩa là, mọi người
dân đều có quyền tiếp cận các thông tin
chính xác, kịp thời từ phía chính quyền, bao
gồm các thông tin về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
Để đổi mới thể chế chính trị theo hướng
nêu trên, rất cần phải đổi mới phương thức
cầm quyền của Đảng hiện nay20. Điều đó có
nghĩa là Đảng phải thực sự “hóa thân”21 vào
Nhà nước cả về mặt nhân sự và xây dựng
đường lối, chính sách, để thực hiện vai trò
cầm quyền của mình; đồng thời, đổi mới
phương thức lãnh đạo theo hướng “lãnh đạo
khéo” mà Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra:
“Đảng và Chính phủ lãnh đạo khéo thì nhân
dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh trong hòa
bình cũng như trong kháng chiến”22. Lãnh
đạo khéo có nghĩa là các cán bộ, đảng viên,
những người có chức trách của Đảng, các
đoàn thể, Nhà nước phải biết vận dụng các
tri thức khoa học lãnh đạo, đặc biệt là các
phương pháp lãnh đạo dân chủ, sự thuyết
phục để giải quyết các vấn đề của thực tiễn
cuộc sống, nhằm đạt hiệu quả cao các chính
sách, mục tiêu đặt ra, thực hiện các mục tiêu
chung của đất nước. Lãnh đạo khéo tức là
phải thực hành dân chủ trong hoạt động lãnh
đạo. Tức việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân cần phải được coi là phương pháp thực
hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị, nhằm
kiểm soát quyền lực nhà nước, ngăn ngừa
các tệ nạn tham nhũng, lãng phí23. Thực hành
dân chủ trong lĩnh vực chính trị được hiểu là
việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc trong
các đạo luật về các quyền tự do của người
dân, các lực lượng, tổ chức chính trị, xã hội
trong mọi hoạt động của đời sống chính trị.
Đây được coi là sự điều chỉnh các hành vi
của xã hội bằng pháp quyền dân chủ. Điều
đó có nghĩa là phải xây dựng cơ quan tư pháp
độc lập. Ngoài ra, trong cơ quan hành pháp
nên có một số vị trí chủ chốt (trong các chính
quyền địa phương, cơ sở) có thể là người
ngoài Đảng giữ vai trò lãnh đạo, nếu họ có
đủ tài, đức và có uy tín trong nhân dân, cộng
đồng xã hội.
Thứ ba, cần đổi mới thể chế văn hóa
đơn dạng, tức các tổ chức xã hội do Đảng
lãnh đạo hiện nay, sang thể chế văn hóa đa
dạng, tức hình thành các tổ chức xã hội độc
lập (xã hội dân sự)24.
Xã hội dân sự trong điều kiện có nhà
nước pháp quyền, được hiểu là xã hội trong
đó, mỗi người dân đều được đảm bảo các
quyền của mình theo Hiến pháp, pháp luật.
Xã hội dân sự được xây dựng hoàn chỉnh có
thể gọi là xã hội công dân. Nếu nhìn nhận
xây dựng Nhà nước pháp quyền là biểu hiện
thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị,
thì xây dựng xã hội dân sự được coi là biểu
hiện thực hành dân chủ trong lĩnh vực văn
hóa. Xây dựng xã hội dân sự, hay thực hành
dân chủ trong lĩnh vực văn hóa được hiểu là
việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc trong
các đạo luật về các quyền tự do của người
dân, các nhóm, tổ chức xã hội trong mọi hoạt
động của đời sống văn hóa như tôn giáo, văn
học nghệ thuật, báo chí, y tế, giáo dục, thể
thao, giới tính. Đây được coi là sự điều chỉnh
các hành vi của xã hội bằng văn hóa dân chủ.
Cùng với thực hành dân chủ trong lĩnh vực
chính trị, thực hành dân chủ trong lĩnh vực
văn hóa sẽ là các cơ sở đảm bảo thực hành
dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội25.
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 16, tháng 8/2014.
21 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Đảng hóa thân vào Nhà nước” trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 17, tháng 9/2013.
22 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 7, tr. 317.
23 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Học tập phương pháp phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông số 5/2015.
24 Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, “Phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí nhìn từ công tác xây dựng Đảng”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam số 11/2015.
25 Xem:
Ở nước ta hiện nay, các cá nhân với tư
cách là đảng viên của Đảng dù đang hoạt
động trong bộ máy nhà nước cũng như mọi
đảng viên khác trong xã hội dân sự, đều là
những người giữ vai trò “tiên phong”,
“gương mẫu” về mặt “trí tuệ”, về hoạt động
sản xuất kinh doanh, về đạo đức và lối
sống... Sự tiên phong, gương mẫu về mọi
mặt của cá nhân các đảng viên trong hệ
thống chính trị và xã hội chính là hình thức
biểu hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Việc
đổi mới này rất cần thiết phải được tiến hành
đồng thời với việc nhận thức lại các khái
niệm “lãnh đạo”, “Đảng lãnh đạo” ở nước
ta hiện nay. Với tư cách là một động từ, khái
niệm lãnh đạo khác với khái niệm “chỉ đạo”
(quản lý, điều hành)26. Khái niệm lãnh đạo
là nói về các hoạt động, nhưng các hoạt
động đó không sử dụng các công cụ quyền
lực của chủ thể lãnh đạo. Không phải ngẫu
nhiên, Hồ Chí Minh đã từng nói rằng: “lãnh
đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho
tốt”27; rằng: “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả
các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh,
đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành
nào - đều phải là người đày tớ trung thành
của nhân dân”28. Cần nhận thức rõ rằng, khái
niệm Đảng lãnh đạo chỉ được hiểu là một
danh từ, tức các tổ chức, mỗi đảng viên của
Đảng cần phải làm sao trở thành như các cục
nam châm “có sức hấp dẫn lớn”29 đối với
những cục sắt nhỏ (quần chúng nhân dân).
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc viết
năm 1947, Hồ Chí Minh cũng chỉ nói đến
cách lãnh đạo (bao gồm cả chỉ đạo, quản lý,
điều hành) của các cá nhân người lãnh đạo,
đảng viên. Theo Người, tập thể lãnh đạo (cơ
quan có nhiều người lãnh đạo) chỉ áp dụng
cho các cơ quan bao gồm các “đại biểu”,
như các đại hội của Đảng, các đoàn thể, cơ
quan Quốc hội và các Hội đồng nhân dân30.
Các cơ quan này là nơi chủ yếu xây dựng
các cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp
luật, phương hướng phát triển đất nước, các
địa phương. Đây cũng chính là sự nhận thức
và cách diễn đạt một cách thông dụng, phổ
biến ở các nước trên thế giới hiện nay.
Với các nhận thức như vậy, xã hội dân
sự sẽ bao gồm các tổ chức xã hội mang tính
độc lập do Nhà nước quản lý theo pháp luật.
Đồng thời với việc xây dựng xã hội dân sự,
cần tiến hành xây dựng và hoàn thiện các
đạo luật có liên quan như Luật Biểu tình,
Luật Báo chí, Bộ luật Dân sự, Luật Tiếp cận
thông tin... phù hợp với thể chế chính trị
pháp quyền, nhằm đảm bảo cho xã hội dân
sự hoạt động.
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự
được coi là hai mặt đối lập tồn tại một cách
khách quan trong quá trình phát triển của xã
hội hiện đại. Nhà nước pháp quyền và xã hội
dân sự được hình thành và phát triển từ hai
mặt đối lập trước đó là nhà nước “thống trị”
và xã hội “bị trị” hàng ngàn năm. Đây được
coi là bước phát triển tiến bộ vượt bậc của
xã hội loài người vào thế kỷ thứ XVIII, khi
mà nhiều nhà nước tư sản đã xây dựng nên
những đạo luật, trong đó có đạo luật gốc là
hiến pháp (thành văn hay bất thành văn).
Chính nhà nước pháp quyền và xã hội dân
sự khi được xây dựng, hoàn chỉnh, sẽ là các
thể chế phù hợp, có thể kiểm soát hữu hiệu
các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
như ở nhiều nước phát triển trên thế giới
hiện nay đã chứng minh thấy rõ.
Như vậy, việc hình thành và xây dựng
xã hội dân sự hoàn chỉnh, bảo đảm một cách
trật tự, ổn định ở nước ta là rất cần thiết hiện
nay. Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân và xã hội dân sự hoàn
chỉnh có thể được ví như các “đôi cánh”
hoàn hảo của chiếc máy bay Việt Nam, mà
thân của nó là nền kinh tế thị trường hiện
đại. Kinh tế thị trường hiện đại chỉ có thể
phát triển nhanh, bền vững, cũng như Quốc
gia Việt Nam chỉ có thể “cất cánh” vững
vàng khi có các đôi cánh trước và sau “đều
đặn” (cân bằng) là nhà nước pháp quyền và
xã hội dân sự hoàn chỉnhn
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 10(314) T5/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Xem: Nguyễn Hữu Đổng, “Quan điểm của V.I.Lênin về hoạt động lãnh đạo của người đảng viên cộng sản”, Tạp chí Xây
dựng Đảng điện tử ngày 27/5/2013.
27 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 12, tr. 222.
28 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 10, tr. 323.
29 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 12, tr. 557-558.
30 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 504.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_the_che_thuc_hien_phong_chong_tham_nhung_lang_phi_tu.pdf