Đổi mới tƣ duy về vai trò mỗi cá nhân trong công cuộc đổi mới và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trƣờng
Trong cách nghĩ hiện nay, trước mỗi trì trệ ách tắc, chúng ta thường đổ cho
“cơ chế” mà ít ai thấy trách nhiệm của chính mình. Trước những hạn chế và thiếu
sót của đổi mới, kể cả những tiêu cực, tham nhũng, chúng ta thường đổ cho thể chế
và dường như ở tình trạng thụ động, trông chờ vào những văn bản và qui định của
chính phủ, hy vọng từ đó dẫn đến những cải cách sâu rộng.
Thế nhưng, công cuộc đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm cải cách trên thế
giới đã chỉ ra rằng, một cuộc cải cách thành công chỉ có thể diễn ra nếu hội đủ ba
yếu tố then chốt: (i) sự trăn trở và bức xúc cao độ của toàn xã hội; (ii) tầm nhìn và
ý chí chiến lược của người lãnh đạo; và (iii) những thử nghiệm năng động có tính
đột phá ở cấp cơ sở. Trong ba yếu tố nêu trên, yếu tố thứ ba có vai trò đặc biệt năng
động, nó thúc đẩy sự chín muồi của hai yếu tố đầu. Do đó, sức năng động và những
thử nghiệm có tính đột phá của cá nhân và cấp cơ sở có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Thành công của sự nghiệp đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta trong những
năm qua cũng bắt đầu từ sự đột phá năng động của cá nhân, tổ chức, và địa phương.
Tuy nhiên, sự năng động và đột phá của các nhân và cơ sở trong giai đoạn mới của
công cuộc đổi mới và cải cách hiện nay khó khăn và thách thức hơn nhiều, vì nó
không chỉ đòi hỏi sự dũng cảm trong nỗ lực cởi trói mà còn đòi hỏi kết tụ được tinh
hoa của phẩm chất dân tộc, với tầm nhìn, hoài bão, và khả năng tìm kiếm và hấp thụ
tri thức của nhân loại. Mỗi cá nhân cần trở thành một nhân tố năng động và tích cực
cho công cuộc đổi mới, khởi đầu bằng nỗ lực đổi mới tư duy, trên cơ sở đó, đóng
góp những sáng kiến và sinh lực mới cho sự nghiệp phát triển chung.
Tóm lại, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, có sức mạnh kỳ diệu
trong nâng cao năng lực và tầm vóc đi lên của mỗi cá nhân, tổ chức, và xã hội. Thế
nhưng đổi mới tư duy là quá trình rất khó khởi động. Không phải ngẫu nhiên, John
Maynard Keynes, nhà kinh tế học lớn nhất của thế kỷ XX, đã từng nhận xét: “Khó
khăn nằm không phải ở cách tư duy mới, mà ở việc thoát khỏi được cách nghĩ cũ,
cách nghĩ đã ăn sâu trong mọi ngõ ngách của não trạng chúng ta”. Cho nên, một khi
đã thấy rõ những nội dung cần đổi mới trong tư duy, thảo luận sâu sắc và kiên quyết
đổi mới triệt để là những bước đi ban đầu rất quan trọng. Đổi mới tư duy cần trở
thành sự lựa chọn khảng khái và dũng cảm của mỗi cá nhân, tổ chức, và toàn xã hội.
Đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế sẽ tạo nên nền tảng vững chắc và sức
mạnh tiềm tàng cho dân tộc ta phát triển sáng tạo, bền vững, bao trùm, đi tới vị thế
vẻ vang và xứng đáng của mình trong cộng đồng thế giới.
18 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
87
ĐỔI MỚI TƢ DUY KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TS. Lê Minh Nghĩa
(Hội đồng lý luận Trung ương)
Vài nét mở đầu
Đổi mới tư duy kinh tế là điểm xuất phát trong nhận thức đổi mới lý luận ở
nước ta. Và quả thực, những đổi mới trong tư duy về kinh tế đã mang lại những
thay đổi to lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề cơ bản là: tại sao hiện nay, đổi mới tư duy kinh tế trở
thành vấn đề cấp thiết? Tư duy cũ là những cách tư duy nào mà ta bảo là không còn
thích hợp và cần phải đổi mới? và tư duy mới là những cách tư duy nào mà ta cần
được trang bị cho nhận thức của mình? E rằng khó mà có câu trả lời rành mạch và
đầy đủ cho vấn đề cơ bản đó. Lịch sử phát triển tư duy là lịch sử của một quá trình
tiến hoá, cái cũ không bao giờ bị phủ định hoàn toàn mà được gạn lọc để tiếp tục có
tác dụng ở những vị trí thích hợp trong cái mới, và cái mới nhiều khi đã có mầm
mống từ trong cái cũ và được tái tạo, phát huy sức mạnh mới trong những điều kiện
mới. Nói đổi mới tư duy không có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn một tư duy cũ nào đó và
thay thế hoàn toàn bằng một tư duy mới đối lập nào đó.
Hy vọng việc trình bày một số nhận thức bước đầu về đổi mới tư duy mà
trước hết là tư duy kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta, có thể mang lại chút
đóng góp để cùng trao đổi ý kiến về vấn đề “Đổi mới tư duy kinh tế để phát triển
bền vững, sáng tạo, bao trùm”- đang là vấn đề thật sự có ý nghĩa đối với sự phát
triển của đất nước ta hiện nay.
I. ĐỔI MỚI TƢ DUY KINH TẾ -TIỀN ĐỀ NHẬN THỨC LÝ LUẬN CỦA
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (Thời kỳ trƣớc Đại hội VI)
1. Những bƣớc đột phá cục bộ về đổi mới tƣ duy kinh tế trƣớc đổi mới, tạo
tiền đề hình thành nhận thức lý luận đổi mới toàn diện tại Đại hội VI.
Trước đổi mới, do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc
chúng ta (cùng tắc biến) không còn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới
(biến tắc thông). Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy
mà trước hết là tư duy kinh tế.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm
làm cho sản xuất "bung ra" là bƣớc đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở
88
nước ta. Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu
kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương,
chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định nghĩa
vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự
do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn
nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương
thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội
bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng để khuyến
khích tính tích cực của người lao động,...
Trên cơ sở đó, Chỉ thị 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải
tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản
phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất,
đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp.
Trên lĩnh vực công nghiệp, với Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 của Hội
đồng Chính phủ, cùng với Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương
khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất,
kinh doanh, được áp dụng, bước đầu tạo ra động lực mới cho lĩnh vực công nghiệp.
Có thể nhìn nhận những tư duy đột phá về kinh tế được thể hiện trong Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư và
trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này như sau:
- Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn
diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
- Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tòi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực
lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản
xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động.
Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây
Nam gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để
những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã
phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn sâu,
bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của
thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn,
89
tiếp tục đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất
hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bƣớc đột phá thứ
hai về đổi mới tƣ duy kinh tế với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo
giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan
trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản
xuất hàng hoá.
Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực
kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: a)
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn
lọc; b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; c) Trong cơ chế
quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp;
chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây
là bƣớc đột phá thứ ba về đổi mới tƣ duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những
nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết
phải tạo ra động lực thiết thực cho người lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh
tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những tư duy đổi mới về kinh tế
đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng
lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở
Đại hội VI.
2. Đổi mới tƣ duy kinh tế là tiền đề nhận thức lý luận của đổi mới toàn diện
ở Việt Nam (thời kỳ từ Đại hội VI đến nay)
Quá trình đổi mới tư duy kinh tế từ cục bộ đến toàn cục, được phản ánh hoàn
thiện từng bước qua mỗi kỳ Đại hội Đảng. Cụ thể quá trình đổi mới tư duy kinh tế
được ghi nhận trên những nét chính sau:
Đại hội VI của Đảng ta đã xác định đường lối đổi mới, coi phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã mở ra một
90
thời kỳ mới cho đất nước phát triển. Đặc biệt, Đại hội VI thừa nhận có sản xuất
hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội;đồng thời chủ trương kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, áp dụng những biện pháp
kích thích sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ tình trạng ngăn sông cấm
chợ, chia cắt thị trường. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 2 (tháng 4-1987) về lưu
thông phân phối, quyết định bỏ chính sách hai giá, thực hiện “bốn giảm”1, tiếp tục
xoá bỏ tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”. Nghị quyết Trung ương 3 (tháng 8-1987)
quyết định chuyển hoạt động của các đơn vị công nghiệp quốc doanh sang kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện tự chủ trong
kinh doanh. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4-1988) về tiếp tục đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp, thực hiện việc khoán đến hộ (“khoán 10”), tạo động lực mới
thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh, toàn diện.
Đại hội VII (tháng 6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
đến năm 2000, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) tiếp
tục phát triển và cụ thể hoá tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát
của quá trình đổi mới là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Hội nghị cũng chỉ ra những nguy cơ mà đất nước phải vượt qua. Đó là: tụt
hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới;
chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ tham nhũng và quan liêu; “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch. Hội nghị đưa ra quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước trong thời kỳ mới; khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xem "phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) khẳng định “Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng” chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
vào năm 2020; coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là khâu đột phá trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1
Giảm tốc độ lạm phát; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ bội chi ngân sách; giảm bớt khó khăn về đời sống
của người ăn lương, của quân đội, công an, người về hưu, nhân dân lao động.
91
Đại hội IX (tháng 4-2001) đã nhìn lại một cách tổng quát quá trình cách mạng Việt
Nam trong thế kỷ XX, rút ra 4 bài học qua 15 năm đổi mới1(1986 - 2000), định ra
chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI ; khẳng định
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của cả thời kỳ quá độ.
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (tháng 2-2002) đã ra các nghị quyết: Tiếp tục
đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001-2010; Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài, rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô.
Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đại hội X đã khẳng định:
“Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn với đường lối cơ bản này, Đại hội X đã chỉ rõ hơn
định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta; nêu rõ những
yêu cầu cần phải thực hiện để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; để
phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản
theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; và để phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các
loại hình sản xuất kinh doanh2.
Hội nghị Trung ương 6, khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã xác định: “Kinh tế thị trường là sản phẩm
của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản
nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Thực
tiễn đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế
thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của
kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội
và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”3
Đại hội XI tiếp tục khái quát thực tiễn, cụ thể hóa hơn mô hình phát triển nền
kinh tế thị trường, nhấn mạnh yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
1
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù
hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn là,
đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
2. Sđd, tr.78-87.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.139-140.
92
của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị
trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận
dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã
hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”1.
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi,
bổ sung năm 2011) và nhấn mạnh: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Do nhân dân làm
chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện.
Đại hội XII đã tiến thêm một bước làm rõ hơn khái niệm nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh. Dân chủ,
công bằng, văn minh”2
Có thể khái quát một số bước chuyển đổi mới tư duy kinh tế đặc trưng ở
nước ta trong hơn 30 năm đổi mới như sau:
+ Từ tư duy sản xuất theo mô hình kinh tế hiện vật, phi thị trường sang tư
duy sản xuất theo mô hình kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN,
gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách. Trong đó, tư duy kinh tế về bản chất kinh tế thị trường và
những nội hàm của tính định hướng XHCN, được xác định và ngày càng cụ thể hóa
trong các kỳ đại hội Đảng, đã thực sự trở thành tư duy lý luận có sức sáng tạo,
không chỉ làm sáng rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam mà còn là sự bổ sung
cho kho tàng lý luận về CNXH.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội,2011, tr.204-215
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr.102.
93
+ Từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần kinh tế. Các
thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói,
bước chuyển đổi mới tư duy này thực sự là khâu đột phá trong nhận thức lý luận
kinh tế, cởi trói tư duy và tạo động lực cho công cuộc đổi mới thực hiện thuận lợi,
có hiệu quả.
+ Từ tư duy quản lý theo cơ chế tập trung bao cấp, làm cho con người ỷ lại,
thụ động, sang tư duy quản lý theo cơ chế thị trường, đòi hỏi tính năng động, sáng
tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của con người.
+ Từ tư duy phân phối bình quân, cào bằng, không thừa nhận đến thừa nhận
đa dạng hóa hình thức phân phối mà phân phối theo lao động là chủ yếu, gắn với
phân phối theo vốn, tài sản
+ Từ tư duy không chấp nhận bóc lột, không chấp nhận phân hoá giàu nghèo,
sang tư duy chấp nhận bóc lột, chấp nhận phân hoá giàu nghèo ở mức độ nhất định.
+ Từ tư duy đảng viên không làm kinh tế tư nhân sang đảng viên được làm
kinh tế tư nhân
+ Từ tư duy kinh tế “khép kín” sang tư duy mở, chủ động hội nhập quốc tế,
chấp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Từ tư duy “Nhà nước làm thay thị trường”, “Nhà nước làm tất cả”, độc
quyền sang tư duy nhà nước chủ yếu thực hiện vai trò kiến tạo phát triển, khắc
phục các khuyết tật của thị trường, đa dạng hóa các chủ thể làm kinh tế, giảm độc
quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp...
+Từ tư duy Nhà nước đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ yếu, sang
thị trường đóng vai trò phân bổ các nguồn lực là chủ yếu.
+Từ tư duy công nghiệp hoá bằng con đường “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”, sử dụng
vốn của nhà nước sang tư duy công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức và
phát triển rút ngắn, sử dụng nguồn vốn xã hội hoá theo cơ chế thị trường.
+Từ tư duy mô hình kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng với năng suất, chất
lượng và hiệu quả thấp, sang mô hình kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu
với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo
vệ môi trường
Những đặc trưng đổi mới tư duy kinh tế nêu trên là nền tảng tiền đề nhận
thức lý luận của tư duy đổi mới hiện nay trên các lĩnh khác về chính trị, văn hoá, xã
hội, an ninh- quốc phòng, đối ngoại Đương nhiên, mức độ thành công, chất lượng
94
chuyển đổi của mỗi bước chuyển đổi mới tư duy kinh tế nêu trên không đều nhau.
Không nắm bắt, giải mã được những tín hiệu đặc trưng tư duy kinh tế mới đó thì
không thể có tư duy lý luận đổi mới đúng đắn, sáng tạo.
II. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN TƢ DUY
LÝ LUẬN KINH TẾ CỦA ĐẢNG TRONG XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN.
2.1. Những thành công
Một là, quá trình đổi mới và phát triển tư duy lý luận kinh tế của Đảng là
xuyên suốt nhất quán, ngày càng đạt được tính hệ thống, đồng bộ cao; đảm bảo sự
thống nhất, hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, giữa phát triển và hội nhập trong
quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy lý luận kinh tế
của Đảng thực sự đi trước, có vai trò dẫn đường và định hướng quá trình đổi mới và
phát triển kinh tế trên thực tế. Thực tế quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn cả khó khăn và thuận lợi, đặc biệt
là trong bối cảnh sự tan rã của Liên Xô cũ và các nước Đông Âu ở thời kỳ đầu đổi
mới; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầuTuy nhiên, Đảng và Nhà
nước ta vẫn kiên trì tư duy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cho
đến nay, thực tế đã chứng minh đây là con đường đi đúng đắn bằng những thành tựu
phát triển kinh tế-xã hội mà nước ta đã đạt được trong gần 30 năm qua.
Hai là, đã hình thành tư duy nhất quán có tính chiến lược về chế độ sở hữu
và các thành phần kinh tế. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế,
giúp giải phóng sức sản xuất vốn bị kìm hãm trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung trước kia. Đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế khác ngoài sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước, trên cơ
sở đó đã có những chủ trường, định hướng đúng đắn về phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, từ đó huy động được tổng
hợp các nguồn lực để xây dựng đất nước.
Ba là, đã có sự thay đổi cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của
Nhà nước trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước
vừa xây dựng chế độ, chính sác vừa thực hiện mọi hoạt động của nền kinh tế, vừa
thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đã được xác định rõ, đó
là xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng và cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô,
môi trường kinh doanh, can thiệp vào nền kinh tế với mục tiêu sửa chữa những
khuyết tật của thị trường và đảm bảo an sinh xã hội. Đồng thời, Nhà nước cũng
95
đóng vai trò là một chủ thể kinh tế trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và
quản lý tài sản công.
Bốn là, chính sách thị trường thông thương giữa các vùng trong cả nước và
giữa trong nước và nước ngoài là một bước tiến lớn trong nhận thức và xây dựng
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chính sách “cởi trói” để hàng hóa được tự do lưu
thông cùng với chính sách mở cửa nền kinh tế đã giúp đổi mới tư duy trong sản xuất
và phân phối, chuyển Việt Nam từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang một nền kinh
tế sản xuất hàng hóa, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
trở thành một nền kinh tế thị trường được nhiều nước trên thế giới công nhận1.
Năm là, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
đã chuyển dịch từ chỗ coi Nhà nước là chủ thế quyết định phân phối (phân phối lần
đầu và phân phối lại) sang việc coi thị trường quyết định phân phối lần đầu và vai
trò của Nhà nước trong việc phân phối lại. Cơ chế phân bổ nguồn lực bằng hiện vật
và cào bằng chuyển sang phân bổ dựa trên các nguyên tắc và tiêu chí hiệu quả, tập
trung vào những ngành, lĩnh vực trọng tâm đã góp phần nâng cao tính minh bạch và
hiệu quả trong phân bổ ngân sách nói riêng và nguồn lực xã hội nói chung. Cơ cấu
kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo dựng được những tiền đề cần
thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tăng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát
triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển.
Sáu là, cơ chế giá chuyển từ quản lý mệnh lệnh hành chính, không phản ánh
đúng quy luật giá trị, là một trong những nguyên nhân gây lạm phát cao sang quản
lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã khắc phục nhưng bất cập,
hạn chế về giá, giá cả hàng hoá phản ánh giá trị hàng hoá, khắc phục được những
mặt trái về giá trong KTTT, đảm bảo ổn định và an sinh xã hội.
Bẩy là, khuyến khích phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó thị
trường tài chính đã được chú trọng, đặc biệt là thị trường vốn để tạo kênh dẫn vốn
quan trọng cho nền kinh tế. Phát triển thị trường không chỉ bao gồm thị trường hàng
hóa và dịch vụ mà còn cả thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, tài sản, tiền tệ và
sức lạo động.
1 Tính đến thàng 12/2018, Việt Nam đã được 69 quốc gia trên thể giới, trong đó có Nhật bản, công nhận
nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
96
Tám là, nhận thức được vai trò tích cực của cơ chế thị trường và đa dạng
hoá các chủ thể tham gia thị trường. Trong đó, Nhà nước quản lý thị trường bằng
pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, công cụ đòn bảy kinh tế và bằng nguồn lực
của khu vực kinh tế nhà nước. Từng bước tách chức năng kinh doanh của doanh
nghiệp và chức năng quản lý, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, chủ sở hữu,
hình thành các định chế tài chính trung gian để thực hiện nhiệm vụ tín dụng chính
sách của nhà nước cũng như đầu tư kinh doanh vốn nhà nước.
2.2. Những vấn đề đặt ra
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, quá trình đổi mới tư duy kinh tế
của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta trong gần 30 năm qua vẫn còn một số hạn chế.
Một là, Quá trình đổi mới tư duy kinh tế, tư duy lý luận của Đảng trong
những năm qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới
cũng như chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn, nhất là việc cụ thể
hóa thành cơ chế, chính sách, cộng với sự lúng túng, chậm trễ trong lý luận về kinh
tế thị trường định hướng XHCN, đã cản trở sự đổi mới trên thực tế. Một số vấn đề
lý luận cơ bản về định hướng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực ngoài kinh tế, chưa
thật sự sáng rõ. Những khái niệm, nội hàm về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN... còn chậm được luận giải dẫn đến lúng túng trong áp dụng vào thực tiễn.
Cần nghiên cứu làm rõ “mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị
trường với các nguyên tắc kinh tế của CNXH trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN” . Thậm chí trong giới học thuật và trong xã hội, cũng không ít ý kiến
còn nghi ngờ sự “đồng hành” giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN.
Hai là, các vần đề về quan hệ sở hữu, vai trò của các thành phần kinh tế, đặc
biệt là vấn đề sở hữu đất đai, cũng là vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, phải chăng “sở hữu nhà nước” về tư liệu sản xuất
chủ yếu, đồng nhất với “chế độ công hữu”? Kinh tế nhà nước thế nào là “chủ đạo”
trong nền kinh tế thị trường? Làm thế nào để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các DNNN, làm thế nào để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước trở
thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế?
Ba là, tăng trưởng kinh tế không ổn định, có xu hướng chững lại trong gần
10 năm trở lại đây; khối lượng tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển
theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Việc huy động các
nguồn lực còn hạn chế, đặc biệt là huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho đầu
tư phát triển và sản xuất kinh doanh.
97
Bốn là, việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực còn kém hiệu quả, cơ cấu đầu tư
chưa hợp lý, đầu tư dàn trải, thậm chi gây ra sự lãng phí các nguồn lực, chưa phát
huy được tiềm năng, lợi thế của các ngành, vùng. Chất lượng nguồn nhân lực, kết
cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.
chính sách tiền lương và phân phối trong xã hội còn nhiều bất hợp lý.
Năm là, nhận thức về vai trò của hệ thống giá cả thị trường và cạnh tranh tự
do trong nền kinh tế thị trường không rõ ràng, thể hiện qua thái độ đối với tình trạng
độc quyền trong một số lĩnh vực của nhiều DNNN.
Sáu là, yêu cầu và nguyên tắc xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường cũng
như các yếu tố thị trường chưa được luận giải hợp lý; có tình trạng chia cắt thị
trường giữa các bộ, ngành, giữa các địa phương; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô
và vi mô) chưa được hoàn thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà
nước và cơ chế chính sách chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng
được với kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.
Bảy là, chưa làm sáng tỏ vai trò của nhà nước trong nền kình tế thị trường do
chưa phân định rõ chức năng nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn ôm đồm, bao
biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân phối vốn; quản
trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà nhà
nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước “khung
khổ hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hoá và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển,...).
Thể chế kinh tế thị trường nói chung còn thiếu đồng bộ, nhất quán, điều này gây ra
sự cản trở hoặc gia tăng sự méo mó trong vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu
kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất
cập. Tư tưởng bảo bộ khu vực DNNN vẫn còn nặng.
III.TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƢ DUY KINH TẾ TẠO TIỀN ĐỀ THÚC ĐẨY
NHẬN THỨC LÝ LUẬN CỦA ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế là yếu tố tiên quyết cho đổi
mới toàn diện Xét cho cùng, trong kinh tế và trong xã hội cũng vậy, sự thua kém,
tụt hậu của một con người, một tổ chức, thậm chí một quốc gia, không phải chỉ là
do hạn chế về khả năng hay nguồn lực, mà chủ yếu là do thiếu áp lực cho những đổi
mới triệt để về tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm.
Mục tiêu của đổi mới tư duy kinh tế không có gì khác hơn là nhằm gắn phát
triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất, coi đó là nhiệm vụ thường
98
xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ, với những hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất luôn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo ra động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Để đạt được mục tiêu của đổi mới tư duy
kinh tế, phát huy những thành tựu, giải quyết khắc phục những vấn đề đặt ra và thực
hiện mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, , văn minh” việc
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách
quan với những nội dung cấp bách sau:
1.Đổi mới tƣ duy kinh tế, đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển
các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất
kinh doanh nhằm sớm tạo lập nền tảng tiên tiến, hợp lý, vững chắc của nền
kinh tể thị trƣờng định hƣớng XHCN
Hoàn thiện thể chế về sở hữu trên thực tế theo đúng tinh thần hiến pháp sửa
đổi, tổ chức lại, sắp xếp lại căn bản khu vực DNNN gắn liền với khuyến khích
mạnh mẽ, không hạn chế sự phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp nhằm sớm tạo ra thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo (số lượng đủ lớn,
cân bằng các chủ thể tham gia thị trường, sự tự do, bình đẳng trong cạnh tranh và
kinh doanh; chủ động xóa bỏ độc quyền, kiểm soát độc quyền trong cạnh tranh và
giảm khu vực DNNN xuống mức hợp lý)
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu theo hướng cùng với việc khẳng định
bằng hiến pháp sự tồn tại khách quan, lâu dài (hàng trăm năm trong tiến trình đi lên
CNXH) và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình
doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau
trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp nhằm pháp chế hóa đầy đủ vững
chắc toàn bộ hệ thống quyền sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân
thực sự trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Thu hút mạnh đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực kinh tế phù hợp với quy hoạch
và chiến lược phát triển của đất nước, nhất là các lĩnh vực công nghệ cao.
Phát huy quyền tự do kinh doanh theo hiến pháp của mọi công dân; đảm bảo
mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh.
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khẩn trương cơ cấu lại ngành
99
nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước, tập trung
vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, thu hẹp những lĩnh vực độc
quyền nhà nước, xóa bỏ bao cấp của nhà nước. Xác định đúng đắn, cụ thể hơn
quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quán trị và giám đốc doanh nghiệp đối với vốn
và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản
nhà nước.
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định luật pháp về quyền và nghĩa vụ
trước pháp luật của người sở hữu (hội đồng quản trị), quyền và trách nhiệm của
người được chủ sở hữu giao quản lý sử dụng các tài sản để kinh doanh (ban giám
đốc); phân phối lợi nhuận tạo ra cho người chủ sở hữu, người được giao quản lý sử
dụng, người lao động, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và
phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Các nguồn lực xã hội được
phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Chính sách phân phối và
phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh
nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia.
Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế;
bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức trung hình của xã hội, cho các đối tượng chính
sách. Đổi mới cơ chế phân bổ chi ngân sách cho phát triển xã hội, củng cố và mở
rộng hiệu quả hệ thống an sinh xã hội.
2. Đổi mới tƣ duy kinh tế, hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trƣờng
-Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về canh tranh và kiểm soát độc quyền
trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước gắn liền với nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về thị
trường, pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế.
-Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh,
hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
cho các thị trường này. Thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với các
cam kết quốc tế. Phát triển các phương thức giao dịch thị trường hiện đại, nhất là
với hàng hóa nông sản và vật tư nông nghiệp để ấn định giá, giảm bớt rủi ro cho
người sản xuất và người tiêu dùng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giá
đối với một số ít hàng hoá, dịch vụ độc quyền, bảo đảm tuân thủ yêu cầu của cơ chế
thị trường và các cam kết quốc tế.
100
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối; Từng bước mở
cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc tế. Tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện tốt việc cổ phần hóa các ngân hàng
thương mại nhà nước, thu hút được các đối tác chiến lược; áp dụng các thông lệ và
chuẩn mục quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh và vai trò chủ đạo của các ngân
hàng này
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát
triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Đưa các
giao dịch chứng khoán phi tập trung vào phạm vi quản lý, kiểm soát của Nhà nước.
Tăng tính minh bạch của thị trường. Chống các giao dịch phi pháp, các hành vi rửa
tiền, nhiễu loạn thị trường.
- Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm. Tạo điều
kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phẩn kinh tế trong nước,
khuyến khích hợp tác và liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Quan tâm hơn nữa đến các dịch vụ bảo hiểm đối với con người và hàng nông sản.
Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để các quyền về
đất đai và bất động sản được vận động theo cơ chế thị trường, trở thành một nguồn
vốn trong sản xuất kinh doanh. Xác định rõ quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa
đặc biệt, được định giá theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà
nước. Nhà nước chủ động tham gia thị trường bất động sản với tư cách là chủ sở
hữu đất đai và nhiều bất động sản trên đất.
- Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, đất
được giao nhưng không đưa vào sử dụng theo cam kết và các trường hợp sở hữu, sử
dụng nhà, đất vượt quá hạn mức quy định, ngăn chặn những cơn sốt giá do đầu cơ
bất động sản, đặc biệt là đất đai. Kiểm soát chặt chẽ và áp dụng cơ chế thị trường
đối với việc chuyển đổi đất công và tài sản công trên đất thành hàng hoá bất động sản.
Bảo đảm lợi ích thoả đáng và công bằng giữa các nhà đầu tư phát triển bất động sản,
các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất và của Nhà nước. Phát triển đồng bộ các
dịch vụ tư vấn pháp luật, công chứng, thẩm định, đấu giá, đăng ký giao dịch... tạo môi
trường thuận lợi, an toàn cho các giao dịch trên thị trường đất đai, bất động sản.
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về tiền lương, tiền công. Tiền
lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy luật thị
trường, dựa trên cung - cầu về sức lao động, chất lượng, cường độ lao động và mức
101
độ cạnh tranh việc làm. Hoàn thiện luật pháp, chính sách cho hoạt động và phát
triển thị trường lao động
- Áp dụng phổ biến chế độ h p đồng lao động, kể cả trong các đơn vị sự
nghiệp công lập và khu vực kinh tế nhà nước. Đưa thương lư ng và ký kết thỏa ước
lao động tập thể thành quy định bắt buộc; tăng cường sự tham gia của đại diện
người lao động và người sử dụng lao động vào hoạch định chính sách, kế hoạch
phát triển thị trường lao động. Tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước
đối với thị trường lao động.
- Xây dụng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý và hỗ tr phát
triển các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và nâng
cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đổi mới,
nhập khẩu và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến vào sản uất kinh
doanh. Hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý
thị trường công nghệ.
Sự phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả cả 5 loại thị trường cơ bản ấy
là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
3. Nhanh chóng chuyển từ tƣ duy “cởi trói”, “làm cho sản xuất bung ra”
sang tƣ duy tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trƣởng, với “khát
vọng chấn hƣng đất nƣớc”, làm cho “non sông ta sánh vai với các cƣờng quốc
năm châu”
Công cuộc đổi mới của chúng ta đã đem lại những thành quả rất đáng trân
trọng. Tuy nhiên trong công cuộc đổi mới này, thành công của chúng ta dựa phần
nhiều trên tư duy động lực “cởi trói” chứ chưa phải trên tư duy động lực của “hoài
bão và ước mơ chấn hưng đất nước”. Thành công trong những năm qua làm chúng
ta say sưa với động lực “cởi trói” và nhiều người tin rằng đó là động lực căn bản
cho công cuộc phát triển. Điều này rất nguy hiểm. Cũng như một con người, một
dân tộc với cách tư duy này chỉ có thể đủ ăn và có chút khấm khá (nhờ vào vị thế
địa lý và tài nguyên giàu có mà ông cha để lại). Muốn trở thành một dân tộc cường
phát, được cộng đồng thế giới trân trọng và ngưỡng mộ, chúng ta phải nhanh chóng
chuyển từ tư duy “cởi trói”, “làm cho sản xuất bung ra” sang tư duy tái cấu trúc nền
kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, từ chiều rộng sang chiều sâu với “khát vọng
chấn hưng đất nước”.
Để sức mạnh tiềm tàng của dân tộc được thực sự khơi dậy, sự nghiệp phát
triển của nước ta trong những năm tới đây cần dựa trên động lực mãnh liệt của “ý
chí và khát vọng chấn hưng đất nước”, làm cho “non sông ta sánh vai với các cường
102
quốc năm châu”, chứ không phải chỉ là nỗ lực “cởi trói”, “làm cho sản xuất bung
ra”. Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ “cởi trói” “làm cho sản xuất bung ra” và
hài lòng với các thành quả đã đạt được thì trì trệ vẫn có chỗ đứng và dân tộc khó có
thể làm nên những thành quả kỳ diệu trong tương lai. Khát vọng độc lập, tự do được
dân tộc ta phát huy cao độ trong chiến tranh giành độc lập nhưng thường bị coi nhẹ,
nhìn nhận một cách phiến diện trong thời bình. Lý do có lẽ là, ước vọng đưa dân tộc
đến vị thế phồn vinh trong cộng đồng thế giới chưa trở thành thiêng liêng và bức
xúc như ước mơ giành độc lập. Chính lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấm
thía lời dậy của Bác Hồ: độc lập, tự do mà không có ấm no, hạnh phúc thì độc lập,
tự do chẳng có nghĩa gì.
Cần nghiêm khắc nhận thấy rằng, một bộ phận đáng kể trong đội ngũ cán bộ,
đảng viên của chúng ta đã mất đi bổn phận thiêng liêng về trách nhiệm đưa dân tộc
đi tới phồn vinh và vị thế vẻ vang trong cộng đồng thế giới. Những người này
không thấu hiểu rằng, cái giá phải trả cho những thiếu sót về trách nhiệm, bổn phận
công dân không chỉ là sự giảm sút niềm tin của thế hệ trẻ mà còn là sự mất đi lòng
tự hào của một dân tộc đã chấp nhận muôn vàn hy sinh để bảo vệ phẩm giá của
mình. Có thể nói, hiện nay, tạm thời chúng ta có khá lên về mức sống vật chất chút
ít, nhưng lòng tự hào của chúng ta với tư cách là một dân tộc có hoài bão lớn, nhân
bản, và kiên cường, đang bị tổn thương nghiêm trọng.Hai thiếu sót trong tư duy
kinh tế mà nhiều người Việt Nam thường mắc phải là “tầm nhìn không rộng” và “ý
chí không cao, dễ thoả mãn”.“Tầm nhìn không rộng” làm mất đi khả năng nắm bắt
những thời cơ có ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc và huy động các nguồn lực chiến
lược cho phát triển; “ý chí không cao, dễ thoả mãn” làm người ta dễ sa vào hưởng
thụ cá nhân, thiếu tính hợp tác, thậm chí đi đến mâu thuẫn và lục đục nội bộ. Để đất
nước đi lên, chúng ta thực sự cần trách được hai điểm thiếu sót nguy hiểm này, kiên
quyết chuyển t tư duy “cởi trói”, “làm cho sản xuất bung ra” sang tư duy tái cấu
trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển t chiều rộng sang chiều sâu,
với“khát vọng chấn hưng đất nước”, làm cho “non sông ta sánh vai với các cường
quốc năm châu”
4. Đổi mới tƣ duy về thang bảng giá trị và thƣớc đo thành đạt
Thang bảng giá trị và thước đo thành đạt ở xã hội ta đang bị quá thiên lệch
theo các tiêu chí nặng vật chất và hình thức. Các tiêu chí về tinh thần và giá trị xã
hội đang bị xem nhẹ. Kết quả là, nhiều người lao vào kiếm tiền bất chính với tâm
niệm “hy sinh đời bố, củng cố đời con” mà không nghĩ đến sự tổn hại về danh dự và
phẩm chất, không chỉ của bản thân mà cả của con cái mình; nhiều người chạy chọt
kiếm học vị, chức vụ mà không biết rằng sự chạy chọt này đã làm họ mất đi sự trân
103
trọng của xã hội; nhiều gia đình xâu xé nhau trong tranh chấp nhà cửa, quyền lợi bất
chấp sự tan nát của quan hệ họ hàng, ruột thịt.
Đổi mới tư duy theo nội dung này phải làm cho các tiêu chí giá trị tinh thần,
đặc biệt là các tiêu chí về sự chân chính, lòng nhân bản, và cống hiến cho xã hội, trở
nên có vai trò then chốt trong thang bảng giá trị và thước đo thành đạt. Khi đó, đối
với một cá nhân, sự trân trọng của xã hội giá trị hơn chức vụ hay bằng cấp, đối với
một gia đình, để lại cho con cái niềm tự hào về sự trong sáng và tận tâm của bố mẹ
quí hơn là của cải.
Điều đáng nhấn mạnh là, trong các nước tư bản phát triển, nơi mà nhiều
người tin là đồng tiền có vị trí thống trị, các tiêu chí tinh thần lại được xã hội đặc
biệt coi trọng. Con người ta có thể thất bại nhiều lần trong làm ăn chứ khó có thể
dối trá, thất nhân tâm, dù chỉ một lần, trong sự nghiệp. Hơn thế nữa, hầu hết các
doanh nhân giàu có và có tiếng tăm lừng lẫy đều bắt đầu sự nghiệp của mình bằng
say mê và tâm huyết tạo nên giá trị mới đặc sắc cho xã hội chứ không phải tham
vọng làm giàu bằng mọi giá. Sự giàu có dường như là hệ quả chứ không phải là
động lực chính yếu cho nỗ lực vươn lên của họ.
Để thực sự khởi động quá trình đổi mới tư duy theo nội dung này, các cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp, các trường đại học và cả hội cần sử dụng các tiêu chí
giá trị tinh thần, năng lực ứng ử, sáng tạo, hiệu quả(chứ không phải các tiêu chí
hình thức: điểm thi đại học, b ng cấp, chứng chỉ) làm thước đo quan trọng cho
thang bảng giá trị và thước đo thành đạt của mình.
5. Đổi mới tƣ duy, cách nhìn trƣớc những thất bại và thách thức
Ngạn ngữ có câu “thất bại là mẹ thành công”, tuy nhiên, theo cách tư duy
thông thường hiện nay, chúng ta thường coi thất bại và thách thức như những món
nợ nặng nề. Cách nghĩ này dẫn tới hai thiệt thòi lớn. Thứ nhất, chúng ta mất đi tính
dám nghĩ-dám làm và trở nên cẩn thủ. Thứ hai, chúng ta không khai thác được triệt
để thất bại như một tài sản quí mà chúng ta đã phải trả giá đắt mới có được.
Tầm vóc của một con người, một tổ chức, hay một quốc gia được đo không
đơn thuần bởi những thành công, mà quan trọng hơn, bằng khả năng trưởng thành
vượt bậc từ thất bại và thách thức. Khả năng này rất quan trọng cho nỗ lực làm nên
một sự nghiệp vẻ vang, dù đó là một cá nhân, một tổ chức, hay một quốc gia. Nước
ta còn nghèo, thế và lực còn yếu, thất bại trên chặng đường đi lên sẽ còn nhiều; vì
vậy “khả năng trưởng thành vượt bậc từ thất bại và thách thức” cần được đặc biệt
khơi dậy, trân trọng, và phát huy tới mức cao nhất. Theo cách tư duy hiện nay,
chúng ta chưa thực sự coi trọng nhân tố này.
104
6. Đổi mới tƣ duy về vai trò mỗi cá nhân trong công cuộc đổi mới và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trƣờng
Trong cách nghĩ hiện nay, trước mỗi trì trệ ách tắc, chúng ta thường đổ cho
“cơ chế” mà ít ai thấy trách nhiệm của chính mình. Trước những hạn chế và thiếu
sót của đổi mới, kể cả những tiêu cực, tham nhũng, chúng ta thường đổ cho thể chế
và dường như ở tình trạng thụ động, trông chờ vào những văn bản và qui định của
chính phủ, hy vọng từ đó dẫn đến những cải cách sâu rộng.
Thế nhưng, công cuộc đổi mới ở nước ta và kinh nghiệm cải cách trên thế
giới đã chỉ ra rằng, một cuộc cải cách thành công chỉ có thể diễn ra nếu hội đủ ba
yếu tố then chốt: (i) sự trăn trở và bức xúc cao độ của toàn xã hội; (ii) tầm nhìn và
ý chí chiến lược của người lãnh đạo; và (iii) những thử nghiệm năng động có tính
đột phá ở cấp cơ sở. Trong ba yếu tố nêu trên, yếu tố thứ ba có vai trò đặc biệt năng
động, nó thúc đẩy sự chín muồi của hai yếu tố đầu. Do đó, sức năng động và những
thử nghiệm có tính đột phá của cá nhân và cấp cơ sở có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Thành công của sự nghiệp đổi mới thể chế kinh tế ở nước ta trong những
năm qua cũng bắt đầu từ sự đột phá năng động của cá nhân, tổ chức, và địa phương.
Tuy nhiên, sự năng động và đột phá của các nhân và cơ sở trong giai đoạn mới của
công cuộc đổi mới và cải cách hiện nay khó khăn và thách thức hơn nhiều, vì nó
không chỉ đòi hỏi sự dũng cảm trong nỗ lực cởi trói mà còn đòi hỏi kết tụ được tinh
hoa của phẩm chất dân tộc, với tầm nhìn, hoài bão, và khả năng tìm kiếm và hấp thụ
tri thức của nhân loại. Mỗi cá nhân cần trở thành một nhân tố năng động và tích cực
cho công cuộc đổi mới, khởi đầu bằng nỗ lực đổi mới tư duy, trên cơ sở đó, đóng
góp những sáng kiến và sinh lực mới cho sự nghiệp phát triển chung.
Tóm lại, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, có sức mạnh kỳ diệu
trong nâng cao năng lực và tầm vóc đi lên của mỗi cá nhân, tổ chức, và xã hội. Thế
nhưng đổi mới tư duy là quá trình rất khó khởi động. Không phải ngẫu nhiên, John
Maynard Keynes, nhà kinh tế học lớn nhất của thế kỷ XX, đã từng nhận xét: “Khó
khăn nằm không phải ở cách tư duy mới, mà ở việc thoát khỏi được cách nghĩ cũ,
cách nghĩ đã ăn sâu trong mọi ngõ ngách của não trạng chúng ta”. Cho nên, một khi
đã thấy rõ những nội dung cần đổi mới trong tư duy, thảo luận sâu sắc và kiên quyết
đổi mới triệt để là những bước đi ban đầu rất quan trọng. Đổi mới tư duy cần trở
thành sự lựa chọn khảng khái và dũng cảm của mỗi cá nhân, tổ chức, và toàn xã hội.
Đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế sẽ tạo nên nền tảng vững chắc và sức
mạnh tiềm tàng cho dân tộc ta phát triển sáng tạo, bền vững, bao trùm, đi tới vị thế
vẻ vang và xứng đáng của mình trong cộng đồng thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_tu_duy_kinh_te_trong_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huo.pdf