Từ kết quả khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy: đối
tượng giao tiếp của NCT sống trong các TTDL chủ yếu là
nhóm những người sống trong TTDL và với những người
làm công tác xã hội; hầu hết các TTDL được khảo sát đều
chưa có các tổ chức, nhóm xã hội, câu lạc bộ dành cho
NCT nên tỉ lệ NCT tham gia vào các nhóm này rất ít.
Đối tượng giao tiếp của NCT hiện nay bị thu hẹp hơn
so với trước khi vào sống trong TTDL và có sự khác nhau
giữa nam và nữ; đối tượng giao tiếp của NCT sống trong
các TTDL tư nhân đa dạng, phong phú hơn đối tượng giao
tiếp của NCT sống trong các trung tâm của Nhà nước.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 537 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đối tượng giao tiếp của người cao tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 434 (Kì 2 - 7/2018), tr 59-63
59 Email: thuyngoc.tlgd57@gmail.com
ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI CAO TUỔI
SỐNG TRONG CÁC TRUNG TÂM DƯỠNG LÃO
Vũ Thúy Ngọc - Tạp chí Giáo dục
Ngày nhận bài: 20/04/2018; ngày sửa chữa: 20/05/2018; ngày duyệt đăng: 31/05/2018.
Abstract: Improving the spiritual life in general and communicative efficiency for the elderly
living in nursing homes is essential to help the elderly live happily, healthily and meaningfully.
The paper presents the status of communicative agents of the elderly living in nursing homes.
Survey results show that the elderly communicate mainly to the people living in the nursing home
and social workers. They are less involved in organizations or social groups for the elderly.
Communicative agents of the elderly are shrinking compared to before entering the nursing home
and are different between men and women; between private nursing homes and state centers.
Keywords: Communication, communicative object, elderly, nursing center.
1. Mở đầu
Giao tiếp là hoạt động không thể thiếu của con người.
Giao tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tiến trình
phát triển của lịch sử xã hội, cũng như quá trình hình
thành và phát triển của từng nhân cách. Không một lĩnh
vực hoạt động nào của đời sống xã hội lại không tồn tại
giao tiếp. “Giao tiếp là hoạt động cần thiết với tất cả mọi
người, giao tiếp giúp chúng ta tiếp nhận thông tin, cảm
xúc, tình cảm của người khác, thay đổi thái độ và hành
vi để đáp ứng yêu cầu của hoàn cảnh” [1; tr 129].
Đối với người cao tuổi (NCT) nói chung và NCT
sống trong các trung tâm dưỡng lão (TTDL) nói riêng thì
việc tham gia các hoạt động xã hội có xu hướng giảm
mạnh do sự thay đổi căn bản của môi trường sống. Từ
chỗ sống cùng gia đình, người thân, bà con, họ hàng,
nay phải sống trong TTDL, tách biệt khỏi gia đình, người
thân, quê hương, dòng họ, nên đã khiến cho đối tượng
giao tiếp của NCT có nhiều thay đổi. Đối tượng giao tiếp
của NCT sống trong các TTDL là những người mà họ
tiếp xúc trong khi thực hiện quá trình giao tiếp. Trong
TTDL, NCT thường giao tiếp với ai và giao tiếp với đối
tượng nào nhiều nhất? Tại sao? Đó là câu hỏi cần có lời
giải đáp. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu đối tượng giao
tiếp của những NCT sống trong TTDL là một việc làm
cần thiết.
Bài viết trình bày về thực trạng đối tượng giao tiếp
của NCT sống trong các TTDL. Kết quả khảo sát là cơ
sở để đề xuất một số biện pháp tâm lí nhằm cải thiện
và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NCT sống trong
các TTDL.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng đối tượng giao tiếp của NCT
sống trong các TTDL, chúng tôi tiến hành khảo sát 337
NCT sống trong 4 TTDL ở Hà Nội là (Trung tâm chăm
sóc NCT Nhân Ái, TTDL Diên Hồng, Trung tâm bảo trợ
Xã hội 2 và Trung tâm bảo trợ Xã hội 3) từ tháng 8-
12/2017 bằng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Điều
tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát và thống kê
toán học, sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 20.0 để xử
lí số liệu. Thang đo gồm 3 mức độ:Mức thấp: 1 ≤ ĐTB
< 1,23; Mức trung bình: 1,23 ≤ ĐTB < 2,03; Mức cao:
2,03 ≤ ĐTB < 5,00.
2.2. Kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng đối tượng giao tiếp của người cao tuổi
sống trong các trung tâm dưỡng lão
Trong nghiên cứu này, đối tượng giao tiếp của NCT
sống trong các TTDL được tìm hiểu qua mức độ giao tiếp
của NCT với 5 nhóm đối tượng: Nhóm người thân trong
gia đình (bố mẹ; vợ/chồng; các con cháu; anh, chị, em,
bà con, họ hàng); nhóm bạn bè (bạn đồng học; đồng
hương; đồng nghiệp; hàng xóm láng giềng; bạn cùng
sinh hoạt trong các tổ chức xã hội); nhóm những người
làm công tác xã hội (CTXH) (chuyên gia tâm lí; nhân
viên CTXH, sinh viên thực tập, tình nguyện); nhóm
những người trong TTDL (NCT, cán bộ quản lí, phục vụ
trong TTDL); nhóm các tổ chức, xã hội dành cho NCT
(Hội NCT; Hội cựu chiến binh; Câu lạc bộ thể dục thể
thao, khiêu vũ, bóng chuyền hơi). Kết quả được thể
hiện ở bảng 1.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 434 (Kì 2 - 7/2018), tr 59-63
60
Bảng 1. Đối tượng giao tiếp của NCT sống trong các TTDL
STT Đối tượng giao tiếp
Mức độ thực hiện
Điểm trung
bình (ĐTB)
Độ lệch
chuẩn
(ĐLC)
Thứ bậc
1 Nhóm người thân trong gia đình 1,61 0,49 3
2 Nhóm bạn bè 1,50 0,57 4
3 Nhóm những người làm công tác xã hội 1,84 0,70 2
4 Nhóm những người trong TTDL 2,00 0,75 1
5 Các tổ chức, nhóm xã hội dành cho NCT 1,18 0,37 5
ĐTB chung 1,63 0,40
Ghi chú:Mức thấp: 1 ≤ ĐTB < 1,23; Mức trung bình: 1,23 ≤ ĐTB < 2,03; Mức cao: 2,03 ≤ ĐTB < 5,00
Với ĐTB = 1,63 và ĐLC = 0,40 cho thấy, NCT sống
trong các TTDL được khảo sát giao tiếp với các đối
tượng ở mức trung bình. Sở dĩ có kết quả này có thể do
hoàn cảnh, điều kiện môi trường sống của TTDL gần như
“khép kín”, cô lập với xã hội, nên NCT ít có cơ hội gặp
gỡ, trò chuyện với mọi người bên ngoài; họ hiếm khi
tham gia vào các tổ chức, nhóm xã hội dành cho NCT.
Hàng ngày, họ chỉ sống và hoạt động trong khuôn viên
của trung tâm, nên đối tượng mà NCT thường xuyên tiếp
xúc chủ yếu là những người bạn cùng sống trong trung
tâm, cán bộ quản lí, cán bộ phục vụ của trung tâm còn
những người thân trong gia đình, họ hàng, bạn bè, sinh
viên tình nguyện thì thỉnh thoảng mới gặp. Bên cạnh
đó, khi bước vào giai đoạn tuổi già, sức khỏe ngày một
suy giảm: mắt mờ hơn, tai nghe kém hơn, một số cụ
không đủ sức khỏe, không còn minh mẫn, tỉnh táo nên
chính họ đã chủ động giảm bớt các hoạt động giao tiếp.
Qua phỏng vấn, ông Nguyễn Văn L. (87 tuổi, Trung
tâm Chăm sóc NCT Nhân Ái, sống ở trung tâm 7 năm)
cho biết: “Trước đây ở nhà còn có con cháu, hàng xóm,
láng giềng, bạn bè để trò chuyện chứ ở đây quanh đi
quẩn lại cũng chỉ có vài ba người thân thiết, nói mãi thì
cũng hết chuyện, nhiều khi cũng chẳng biết nói chuyện
gì. Thỉnh thoảng con cháu, người thân vào thăm thì cũng
chỉ là vài lời hỏi thăm tình hình sức khỏe, ăn uống, sinh
hoạt ra sao chứ cũng chẳng có nhiều thời gian. Ở đây tôi
chỉ hay trò chuyện với mấy người cùng phòng, thỉnh
thoảng tôi kể cho mọi người nghe về những chuyện hồi
còn đi công tác hay những đặc trưng của các vùng miền
mà tôi đã đi qua nhưng không phải lúc nào mình nói
mọi người cũng thích nghe và đáp lại câu chuyện phải
lúc nào họ vui, khỏe, có lúc tôi muốn nói chuyện thì họ
bảo, thôi thôi ông đừng nói nữa để chúng tôi nghỉ ngơi
thành ra cũng rất buồn”; hay bà Lê Thị H. (87 tuổi,
TTDL Diên Hồng, sống ở trung tâm 3 năm) cũng cho
biết: “Tai tôi giờ không nghe rõ, nói bé là không thấy,
phải nói thật to, mà đa số các cụ thì yếu nói to làm sao
được. Nhiều khi nói chuyện với mọi người tôi cứ hay phải
hỏi đi hỏi lại, lắm lúc họ cũng chẳng muốn trả lời Vì
thế, tôi rất ít khi trò chuyện với mọi người”. Trong các
nhóm đối tượng thì NCT sống trong các TTDL giao tiếp
nhiều nhất với nhóm những người trong TTDL, đó là
những người bạn cùng sống trong trung tâm, cán bộ quản
lí, cán bộ phục vụ của trung tâm (ĐTB = 2,00 và ĐLC =
0,75), tuy nhiên, cũng chỉ ở mức trung bình. Điều này
cũng là dễ hiểu, bởi đối tượng giao tiếp phụ thuộc rất
nhiều vào môi trường sống và hoạt động. Hàng ngày,
người NCT sống trong các TTDL hầu như chỉ giao tiếp
với những người bạn cùng phòng, bạn cùng dãy, cùng
tầng nhà, nhân viên phục vụ, còn với các cán bộ quản lí
thì NCT ít có cơ hội tiếp xúc, trò chuyện hơn nên mức độ
giao tiếp cũng thấp hơn. Đối với người NCT nói chung
và NCT sống trong các TTDL thì giao tiếp với những
người bạn cùng sống trong TTDL là “chiếc cầu nối” giúp
họ xích lại gần nhau; chia sẻ, bày tỏ những tâm tư,
nguyện vọng; động viên, an ủi lẫn nhau vượt qua những
khó khăn, buồn tủi trong cuộc sống, nhất là những lúc bị
ốm đau, bệnh tật.
Giao tiếp của NCT với nhóm những người làm công
tác xã hội ở vị trí thứ 2 với ĐTB =1,84 và ĐLC = 0,70.
Đó là các chuyên gia tâm lí, nhân viên công tác xã hội,
sinh viên kiến tập, thực tập, các tình nguyện viên. Tuy
nhiên, những đối tượng này không phải lúc nào cũng có
mặt ở trung tâm, hầu như họ chỉ đến các trung tâm khi có
công việc, học tập Trong nhóm này, sinh viên kiến tập,
thực tập, tình nguyện là đối tượng mà NCT sống trong
các TTDL giao tiếp nhiều nhất trong những năm gần đây.
Khi xuống trung tâm thì một trong những hoạt động
không thể thiếu đối với sinh viên là giao tiếp với NCT,
tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của NCT, trợ giúp NCT
trong khả năng của mình
Kết quả nghiên cứu cho thấy, NCT sống trong các
TTDL ít tham gia vào các tổ chức, các nhóm xã hội dành
cho NCT (ĐTB = 1,18 và ĐLC = 0,37). Điều này có thể
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 434 (Kì 2 - 7/2018), tr 59-63
61
do: ở các TTDL mà chúng tôi khảo sát gần như không có
các nhóm, hội dành cho NCT. Đối với người NCT, giao
tiếp xã hội thông qua sinh hoạt trong các tổ chức XH có
vai trò quan trọng, giúp NCT nắm bắt các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, được phát biểu ý kiến
và bày tỏ những băn khoăn, khúc mắc trong cuộc sống.
Tuy nhiên, hiện nay ở các TTDL mới chỉ tổ chức các
buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, chứ chưa có các tổ
chức, nhóm, hội để NCT tham gia một cách thường
xuyên. Ngay như Hội NCT là một tổ chức xã hội rất gần
gũi, cần thiết với NCT nhưng trong các TTDL cũng
không có, nhiều NCT muốn tham gia vào hội nhưng ở
trung tâm lại không có. Ông Bạch Quang Ng. (78 tuổi,
trung tâm Bảo trợ Xã hội 3, sống ở Trung tâm 5 năm)
cho biết: “Trước đây, khi còn ở nhà, tôi tham gia vào
nhiều Hội, nhóm, câu lạc bộ dành cho NCT đặc biệt là
Hội NCT; Câu lạc bộ bóng chuyền hơi; Câu lạc bộ thơ
Tôi cảm thấy rất vui và sức khỏe tốt hơn. Vào đây, không
có Hội NCT, cũng không có câu lạc bộ để tham gia nên
rất buồn, suốt ngày chỉ xem ti vi, thỉnh thoảng tôi vẫn
tham gia sinh hoạt câu lạc bộ thơ của phường nhưng mỗi
lần phải đi xa nên cũng ngại”.
Xếp vị trí thứ 3 là nhóm người thân trong gia đình
(ĐTB = 1,61 và ĐLC = 0,49) và nhóm bạn bè xếp thứ 4
(ĐTB =1,50 và ĐLC = 0,57).
Kết quả nghiên cứu này cũng có nhiều điểm tương
đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Dũng [1; tr
78]; đó là: NCT sống trong các TTDL giao tiếp nhiều
nhất với những người bạn cùng sống trong trung tâm, với
nhân viên phục vụ của trung tâm, họ ít giao tiếp với người
thân của gia đình và những người bạn cũ.
2.2.2. So sánh thực trạng đối tượng giao tiếp của người
cao tuổi trước khi vào sống trong trung tâm dưỡng lão
và hiện nay
NCT vào sống trong các TTDL là sự thay đổi rất lớn
vềmôi trường sống, cách thức sinh hoạt, điều đó khiến
cho đối tượng giao tiếp của họ cũng có nhiều thay đổi so
với trước đây (xem bảng 2).
Bảng 2 cho thấy, đối tượng giao tiếp của NCT trước
khi vào sống trong TTDL và hiện nay có sự khác biệt
đáng kể. Cụ thể: đối tượng giao tiếp của NCT trước đây
ởmức cao với ĐTB = 2,53 và ĐLC = 0,43, còn hiện nay
thì ở mức trung bình (ĐTB = 1,63 và ĐLC = 0,40). Như
vậy, đối tượng giao tiếp hiện nay của NCT sống trong
các TTDL ít đa dạng và bị thu hẹp hơn so với trước đây.
Trước khi vào sống trong TTDL thì NCT giao tiếp
nhiều nhất với nhóm người thân trong gia đình (ĐTB =
3,67 và ĐLC = 0,53), xếp thứ 1 và ởmức cao.Hiện nay,
NCT giao tiếp nhiều nhất với nhóm những người sống
trong TTDL, còn giao tiếp với những người thân trong
gia đình ít hơn (ĐTB = 1,61). Như vậy, trước đây NCT
giao tiếp với những người thân trong gia đình ởmức cao
còn hiện nay ở mức trung bình. Thực trạng này có lẽ do
sự thay đổi môi trường sống, sinh hoạt, NCT sống trong
các TTDL không sống cùng gia đình, người thân nên
giao tiếp không thường xuyên, liên tục, mặc dù gia đình,
người thân có gọi điện, vào thăm nhưng mức độ không
thể thường xuyên, liên tục như khi còn ở gia đình, một số
khác thì không còn gia đình hoặc không liên lạc với gia
đình, người thân nên mức độ giao tiếp với nhóm này
cũng giảm đi đáng kể.
Trước khi vào sống trong TTDL, ngoài giao tiếp với
nhóm những người thân trong gia đình thì NCT còn tích
cực tham gia vào các tổ chức, các nhóm xã hội dành cho
NCT (ĐTB = 2,43 và ĐLC = 0,65) ở mức độ cao. Tuy
nhiên, hiện nay hầu như NCT không tham gia vào các tổ
chức này.
Bảng 2. Đối tượng giao tiếp của NCT trước khi sống trong các TTDL và hiện nay
STT Đối tượng giao tiếp
Mức độ thực hiện
Trước khi vào trung tâm Hiện nay
ĐTB ĐLC Thứbậc ĐTB ĐLC
Thứ
bậc
1 Nhóm người thân trong gia đình 3,67 0,53 1 1,61 0,49 3
2 Nhóm bạn bè 2,38 0,59 3 1,50 0,57 4
3 Nhóm những người làm công tác xã hội 1,64 0,73 4 1,84 0,70 2
4 Nhóm những người trong TTDL 0,00 0,00 0 2,00 0,75 1
5 Các tổ chức, nhóm xã hội dành cho NCT 2,43 0,65 2 1,18 0,37 5
ĐTB chung 2,53 0,43 1,63 0,40
Ghi chú:Mức thấp: 1 ≤ ĐTB < 1,23; Mức trung bình: 1,23 ≤ ĐTB < 2,03; Mức cao: 2,03 ≤ ĐTB < 5,00
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 434 (Kì 2 - 7/2018), tr 59-63
62
2.2.3. So sánh thực trạng đối tượng giao tiếp của người
cao tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão theo giới
tính (xem biểu đồ 1)
Biểu đồ 1 cho thấy, đối tượng giao tiếp của NCT sống
trong các TTDL có sự khác nhau giữa nam và nữ, cụ thể:
những NCT là nữ giới thì giao tiếp với nhóm những
người sống trong các TTDL nhiều hơn nam giới (ĐTB
lần lượt là 2,09 và 1,90); còn những NCT là nam giới thì
giao tiếp với nhóm những người thân trong gia đình,
nhóm bạn bè, nhóm những người làm công tác xã hội,
tham gia vào các tổ chức, nhóm xã hội, câu lạc bộ dành
cho NCT nhiều hơn nữ giới.
2.2.4. So sánh thực trạng đối tượng giao tiếp của người
cao tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão tư nhân và
Nhà nước (xem biểu đồ 2)
Biểu đồ 2 cho thấy, đối tượng giao tiếp của NCT sống
trong các TTDL có sự khác nhau giữa trung tâm tư nhân
và trung tâm của nhà nước, cụ thể: NCT sống trong các
TTDL tư nhân giao tiếp với các nhóm đối tượng nhiều
hơn NCT sống trong các TTDL của nhà nước. thực tiễn
cho thấy: đa số NCT sống trong các trung tâm tư nhân
thường có con cháu, người thân đến thăm còn ở các trung
tâm của nhà nước thì ít hơn, bởi phần đông những NCT
sống trong các TTDL của nhà nước không có con cái,
con cái đã mất, hoặc từ lâu không liên lạc với gia đình;
Biểu đồ 1. Đối tượng giao tiếp của NCT sống trong các TTDL
1,65 1,55 1,85
1,90
1,21
1,58 1,47
1,83
2,09
1,16
0
0,5
1
1,5
2
2,5
Nhóm người thân
trong gia đình
Nhóm bạn bè Nhóm những người
làm công tác xã hội
Nhóm những người
trong TTDL
Các tổ chức, nhóm xã
hội dành cho NCT
Đối tượng giao tiếp của NCT sống trong
các TTDL theo giới tính
Nam Nữ
Biểu đồ 2. Đối tượng giao tiếp của NCT sống trong các TTDL tư nhân và nhà nước
1,7 1,6
2,07
2,45
1,271,53 1,41 1,62 1,58
1,1
0
0,5
1
1,5
2
2,5
3
Nhóm người thân
trong gia đình
Nhóm bạn bè Nhóm những người
làm công tác xã hội
Nhóm những người
trong TTDL
Các tổ chức, nhóm xã
hội dành cho NCT
Đối tượng giao tiếp của NCT sống trong
các TTDL tư nhân và nhà nước
Tư nhân Nhà nước
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 434 (Kì 2 - 7/2018), tr 59-63
63
ngoài ra tỉ lệ cán bộ, nhân viên phục vụ/ NCT ở các trung
tâm tư nhân cũng nhiều hơn các trung tâm của nhà nước,
nên họ có thời gian để giao tiếp với NCT.
Qua phỏng vấn bà Lê Mai L. (82 tuổi, trung tâm chăm
sóc NCT Nhân Ái (TTDL tư nhân) sống ở trung tâm 10
năm) cho biết: “Các cô, chú điều dưỡng ở đây quan tâm
lắm thỉnh thoảng những lúc rảnh rỗi lại hỏi “Bà có chuyện
gì hồi xưa hay hay kể cho con nghe” hay “Hôm nay sức
khỏe bà thế nào? Chân bà còn đau không?” những lúc như
vậy tôi vui lắm, vì có người quan tâm, hỏi han và trò
chuyện”, nhưng ở trung tâm của nhà nước thì lại có sự
khác biệt: “Ở đây chẳng mấy khi cán bộ, nhân viên phục
vụ có thời gian nói chuyện với chúng tôi, vì họ rất bận, có
việc gì cần mới nói, không thì thôi chứ cũng chẳng bao giờ
hỏi thăm” (Bà Hoàng Thị Th., 77 tuổi, trung tâm Bảo
trợ Xã hội 3, sống ở trung tâm 8 năm).
3. Kết luận
Từ kết quả khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy: đối
tượng giao tiếp của NCT sống trong các TTDL chủ yếu là
nhóm những người sống trong TTDL và với những người
làm công tác xã hội; hầu hết các TTDL được khảo sát đều
chưa có các tổ chức, nhóm xã hội, câu lạc bộ dành cho
NCT nên tỉ lệ NCT tham gia vào các nhóm này rất ít.
Đối tượng giao tiếp của NCT hiện nay bị thu hẹp hơn
so với trước khi vào sống trong TTDL và có sự khác nhau
giữa nam và nữ; đối tượng giao tiếp của NCT sống trong
các TTDL tư nhân đa dạng, phong phú hơn đối tượng giao
tiếp của NCT sống trong các trung tâm của Nhà nước.
Tài liệu tham khảo
[1] Vũ Dũng (2016). Đặc điểm tâm lí của người cao
tuổi sống trong các trung tâm dưỡng lão. NXB
Hồng Đức.
[2] Bùi Thị Vân Anh (2013). Đối tượng giao tiếp của
người nghỉ hưu ở Hà Nội. Tạp chí Tâm lí học, số 5,
tr 63-73.
[3] Vũ Thúy Ngọc (2018). Ảnh hưởng của mối quan hệ
gia đình, họ hàng đến giao tiếp của người cao tuổi
sống trong các trung tâm dưỡng lão. Tạp chí Giáo
dục, số 422, tr 12-14.
[4] Đặng Vũ Cảnh Linh (2009). Người cao tuổi và các
mô hình chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam. NXB
Dân trí.
[5] Alan Walker - Catherine Hagan Hennessy (2004).
Growing older - Quality of life in old age. Open
University Press.
[6] Nguyễn Quốc Anh (2007). Người cao tuổi Việt
Nam. NXB Hồng Đức
[7] Robert Feldman (2004). Tâm lí học căn bản. NXB
Văn hóa - Thông tin.
NHỮNG YẾU TỐẢNH HƯỞNG...
(Tiếp theo trang 53)
Với sự xem xét hài hòa các yếu tố cơ bản, cùng với
nghiên cứu đặc thù về phong cách học của HS và các điều
kiện khác, việc thiết kế HĐTN sẽ giúp ích trong quá trình
đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện
nay. Chúng tôi cho rằng các nội dung trên sẽ rất có ích cho
GV trong tiến trình thực hiện đổi mới giáo dục đáp ứng
yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể.
[2] David A. Kolb (2015). Experiential Learning:
experience as the source of learning and
development. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall.
[3] Scott D. Wurdinger (2005). Using Experiential
Learning in the Classroom. Published by Rowman
and Littlefield Education, America.
[4] Vu Quoc Chung - Pham Thi Dieu Thuy (2018).
Developing Emotional Intelligence of Primary
Students in Teaching Mathematics through
Experiential Activities in Vietnam. American
Journal of Educational Research, Vol. 6, No. 5, pp.
578-585.
[5] Tưởng Duy Hải (2017). Tổ chức hoạt động trải
nghiệm sáng tạo trong dạy học toán trung học cơ sở.
NXB Giáo dục.
[6] Nguyen Huu Tuyen (2018). Designing experiential
activity themes in teaching maths to lower
secondary students congruent with the new general
education curriculum in Vietnam. American Journal
of Educational Research, Vol. 6, No. 5, pp. 396-402.
[7] Nguyễn Thị Liên - Nguyễn Thị Hằng - Tưởng Duy
Hải - Đào Thị Ngọc Minh (2016). Tổ chức hoạt
động trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường phổ
thông. NXB Giáo dục Việt Nam.
[8] Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014). Phương
pháp. Lí luận dạy học hiện đại - Cơ sở đổi mới mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. NXB Đại
học Sư phạm.
[9] A. N. Lêônchev (1972). Hoạt động - Ý thức - Nhân
cách. NXB Giáo dục.
[10]John Dewey (2012). Kinh nghiệm và Giáo dục
(Bản dịch của Phạm Anh Tuấn). NXB Trẻ.
[11]Cao Thị Hà (2006).Dạy học một số chủ đề hình học
không gian (lớp 11) theo quan điểm kiến tạo. Luận
án tiến sĩ Giáo dục học, Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_tuong_giao_tiep_cua_nguoi_cao_tuoi_song_trong_cac_trung.pdf