Đồng bộ hóa luật tư hiện nay trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường: Sự cần thiết và định hướng
Định hướng đồng bộ hóa luật tư
Việc đồng bộ hóa luật tư cần phải chú
ý tới các định hướng như:
Thứ nhất, làm rõ toàn bộ nền tảng lý
luận của luật tư và xây dựng mô hình lý luận
thích hợp với bối cảnh xây dựng kinh tế thị
trường và công cuộc theo đuổi Cách mạng
công nghiệp 4.0 cụ thể ở Việt Nam. Việc
pháp điển hóa luật tư ở Việt Nam không
thể không xuất phát từ lý luận và mài giũa
cho phù hợp với thực tiễn bởi truyền thống
Civil Law và truyền thống Sovietique Law
đã ăn sâu trong tư duy pháp lý của người
Việt mà các truyền thống này thường chắt
lọc ra từ trong lý thuyết các quy tắc pháp
lý. Sự bất đồng bộ của luật tư cho thấy cần
nghiên cứu sâu thêm vào các vấn đề pháp
lý sau để bảo đảm tiến hành đồng bộ hóa
luật tư: (1) Mô hình lý luận của luật tư và
các nguyên tắc xuyên suốt của luật tư; (2)
tác động xã hội của đồng bộ hóa luật tư;
(3) phân loại trong lĩnh vực luật tư; (4) nền
tảng của luật tư; (5) mối liên hệ giữa các
thành tố của luật tư; (6) định hướng và giải
pháp cụ thể đồng bộ hóa luật tư; (7) kinh
nghiệm nước ngoài về đồng bộ hóa luật tư;
(8) pháp điển hóa luật tư; (9) mối quan hệ
giữa các loại nguồn của luật tư; và (10) áp
dụng luật tư.
Thứ hai, làm rõ những tồn tại về tính
bất đồng bộ của luật tư hiện hành ở Việt
Nam. Đây là công việc hết sức cần thiết.
Nếu các khiếm khuyết và các bất cập không
được làm rõ thì khó có thể có những cải cách
thích hợp. Bản thân các công việc này đòi
hỏi phải được soi rọi từ lý thuyết kết hợp với
tổng kết thực tiễn.
Thứ ba, học tập kinh nghiệm nước
ngoài một cách tinh tế và cấy ghép pháp
luật nước ngoài vào Việt Nam một cách phù
hợp với môi trường của Việt Nam. Vấn đề
pháp điển hóa luật thương mại ở Việt Nam
cho thấy chúng ta chưa học tập kinh nghiệm
nước ngoài về mô hình và những giải pháp
cơ bản mà chỉ học những quan điểm và kỹ
thuật nhỏ lẻ. Điều đáng nói nhất là các đạo
luật pháp điển hóa các chế định khác nhau
của luật thương mại lại học tập kinh nghiệm
của các nước khác nhau nên khó có thể có
tính đồng bộ
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đồng bộ hóa luật tư hiện nay trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường: Sự cần thiết và định hướng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỒNG BỘ HÓA LUẬT TƯ HIỆN NAY TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: SỰ CẦN THIẾT VÀ ĐỊNH HƯỚNG1
1
1. Sự cần thiết đồng bộ hóa luật tư
Nền kinh tế thị trường chỉ có thể phát
triển trong một môi trường pháp lý lành
mạnh và thích hợp. Đây là điều không ai có
thể phủ nhận. Để có môi trường pháp lý lành
mạnh và thích hợp cho việc xây dựng kinh
tế thị trường, đồng bộ hóa luật tư đóng vai
trò quan trọng.
1 Bài viết này là một trong nhiều kết quả nghiên cứu thuộc đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội “Đồng bộ hóa luật
tư trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” do TS. Nguyễn Mạnh Thắng làm Chủ nhiệm.
Nguyễn Mạnh Thắng*
* TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt:
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, hàng loạt các đạo luật
trong lĩnh vực luật tư được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, các luật này
không dựa trên một mô hình thống nhất và mất tính đồng bộ nghiêm
trọng. Việc nghiên cứu vấn đề đồng bộ hóa luật tư trong bối cảnh xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là rất cấp bách. Bài
viết đề cập đến sự cần thiết phải đồng bộ hoá luật tư, chỉ ra một số nội
dung cụ thể chưa thống nhất giữa một số luật tư hiện hành, đồng thời
đề xuất định hướng đồng bố hóa luật tư để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế thị trường ở VN hiện nay.
Abstract:
Since the Constitution of 2013 was approved, a series of private
laws have been developed, amended. However, these laws are not
in line with consistent modality and lacks of serious synchronism.
Synchronization of the private laws in the context of orientation
toward the market economy in Vietnam is required. This article
provides discussions of and addresses the need to synchronize
the private laws, pointing out a number of specific provisions
not consistent among particular private laws and also suggested
directions of the promulgation of private laws to meet the needs of
market development in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Hiến pháp năm 2013; đồng bộ
hóa luật tư; môi trường pháp lý
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/03/2018
Biên tập : 26/03/2018
Duyệt bài : 30/03/2018
Article Infomation:
Keywords: The Constitution of 2013;
synchronization of the private laws;
legal environment
Article History:
Received : 20 Mar. 2018
Edited : 26 Mar. 2018
Approved : 30 Mar. 2018
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 7(359) T4/2018
Pháp luật Việt Nam hiện đang trong
tình trạng bất đồng bộ tương đối lớn và phức
tạp, làm ảnh hưởng không như mong muốn
tới môi trường pháp lý kinh doanh và gây
khó khăn cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
Trong sự bất đồng bộ lớn của luật tư, trước
hết phải kể tới sự thiếu cân nhắc kỹ lưỡng
và tinh tế khi thiết lập một số quy định trong
khu vực luật tư mà gây khó khăn cho cả khu
vực luật công. Có thể đưa ra một ví dụ điển
hình sau:
Vừa qua, trong đợt xây dựng và hoàn
thiện pháp luật để thi hành Hiến pháp năm
2013, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có
quy định về pháp nhân thương mại như sau:
“1. Pháp nhân thương mại là pháp
nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận
và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
2. Pháp nhân thương mại bao gồm
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
3. Việc thành lập, hoạt động và chấm
dứt pháp nhân thương mại được thực hiện
theo quy định của Bộ luật này, Luật Doanh
nghiệp và quy định khác của pháp luật có
liên quan” (Điều 75).
Các quy định này bất đồng bộ với
các quy định còn lại về công ty (pháp nhân
thương mại) bởi chúng không xem công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
là pháp nhân thương mại, nhưng lại xem
doanh nghiệp tư nhân là một pháp nhân
thương mại, trong khi Luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên là một pháp nhân
và quy định doanh nghiệp tư nhân không
có tư cách pháp nhân2. Các quy định này lại
còn ấn định một mô hình các văn bản luật
mà không cân nhắc tới sự hoàn thiện mô
hình pháp luật. Tại đó Luật Doanh nghiệp
2 Xem thêm Ngô Huy Cương, Trách nhiệm hình sự pháp nhân: Nhìn từ tổng thể luật hình sự, luật hành chính, luật dân
sự và luật thương mại (tr. 9 - 18), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18 (322), Kỳ 2 - tháng 9/2016, tr. 16 – 17.
được ấn định, ít nhất có mấy mô hình sau
mà chúng ta có thể lựa chọn để pháp điển
hóa luật thương mại: Thứ nhất, xây dựng
một Bộ luật Thương mại tổng quát mà
trong đó có chế định thương nhân bao gồm
cả thương nhân thể nhân (doanh nghiệp tư
nhân) và thương nhân pháp nhân (công ty);
thứ hai, xây dựng một BLDS áp dụng cho
cả các quan hệ dân sự và các quan hệ thương
mại (giống như BLDS Bắc Kỳ năm 1931
của Việt Nam và của một số nước khác trên
thế giới như Thái Lan, Hà Lan...); và thứ
ba, xây dựng một đạo luật riêng cho công
ty và một đạo luật riêng cho doanh nghiệp
tư nhân (giống như Luật Công ty năm
1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990 của Việt Nam). Điều đáng nói nhất
ở đây là sự mâu thuẫn giữa các quy định
vừa nêu trên của BLDS năm 2015 với các
quy định còn lại của luật thương mại gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc áp dụng
các quy định về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình
sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm
2017). Việc mâu thuẫn giữa các quy định
về pháp nhân thương mại gây khó khăn cho
việc xác định chủ thể của tội phạm, đồng
thời gây khó khăn cho luật hình sự thực
hiện chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội
liên quan tới pháp nhân thương mại hoặc
bị tác động xấu bởi pháp nhân thương mại.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu
lực, hàng loạt các đạo luật trong lĩnh vực
luật tư được sửa đổi, bổ sung không dựa
trên một mô hình thống nhất, do đó mất tính
đồng bộ nghiêm trọng. Có thể dẫn chứng,
luật thương mại là ngành luật quan trọng
trong hệ thống pháp luật của bất kỳ nền kinh
tế thị trường nào, nhưng ở Việt Nam hiện
nay, nó lại là nơi tập trung sự thiếu đồng bộ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 7(359) T4/2018
nghiêm trọng nhất. Luật thương mại được
hiểu là ngành luật tư điều chỉnh mối quan hệ
giữa các thương nhân với nhau hay hành vi
thương mại. Ba đại chế định của luật thương
mại là “thương nhân”, “hành vi thương mại”
và “phá sản” được điển pháp điển hóa riêng
biệt ở Việt Nam hiện nay thành ba đạo luật
là: (1) Luật Thương mại năm 2005; (2) Luật
Doanh nghiệp năm 2014; và (3) Luật Phá
sản năm 2014. Nhưng ba đạo luật này có
mâu thuẫn với nhau về những quan điểm
lớn liên quan tới thương nhân. Luật Thương
mại năm 2005 quy định tại Điều 7 rằng
“Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật. Trường
hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân
vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của mình theo quy định của Luật này và quy
định khác của pháp luật”. Điều luật này cho
thấy, Luật Thương mại năm 2005 có khái
niệm và giải pháp cho thương nhân thực tế
để bảo vệ cho người thứ ba ngay tình bằng
cách không loại các thương nhân này ra khỏi
vòng pháp luật. Trong khi đó Luật Doanh
nghiệp năm 2014 nghiêm cấm “hoạt động
kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà
không đăng ký” (Điều 17, khoản 3); và Luật
Phá sản năm 2014 quy định: “Luật này áp
dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã (sau đây gọi chung là
hợp tác xã) được thành lập và hoạt động
theo quy định của pháp luật” (Điều 2). Hai
điều luật này đã không sử dụng thuật ngữ
“thương nhân” mà dùng thuật ngữ “doanh
nghiệp” trong khi mọi người cho rằng, xét
từ góc độ ngành luật thương mại thì Luật
Doanh nghiệp năm 2014 được coi là một bộ
luật về thương nhân, và phá sản là quy chế
đặc biệt áp dụng cho thương nhân. Thực tế,
Luật Thương mại năm 2005 cố gắng quy
định một quy chế chung về thương nhân (kế
thừa Luật Thương mại năm 1997, nhưng
kém hơn) theo lý thuyết về luật thương mại.
Trong khi đó Luật Doanh nghiệp năm 2014
và Luật Phá sản năm 2014 không quan tâm
gì tới nền tảng, cũng như lý thuyết của luật
thương mại, loại bỏ hộ kinh doanh ra khỏi
phạm vi điều chỉnh, mặc dù hộ kinh doanh
là một loại hình kinh doanh khá phổ biến ở
Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây, đồng
thời loại bỏ thương nhân thực tế ra khỏi
phạm vi điều chỉnh - ngụ ý bỏ mặc người
thứ ba ngay tình có thể bị thiệt hại bởi việc
đã quan hệ với thương nhân này nhưng hoàn
toàn không biết người này không phải là
thương nhân hợp pháp, có nghĩa là những
người thứ ba ngay tình không thể tham gia
lấy nợ trên tài sản của thương nhân thực tế
theo các quy định của Luật Phá sản năm
2014. Đó là chưa kể các đạo luật này không
đồng bộ với BLDS năm 2015 khi Bộ luật
này định nghĩa về pháp nhân thương mại tại
Điều 75. Các đạo luật bất đồng bộ này khó
có thể giúp cho Bộ luật Hình sự năm 2015
(được sửa đổi, bổ sung năm 2017) làm tốt
chức năng phòng, chống tội phạm liên quan
tới pháp nhân thương mại. Quan niệm về
thương nhân thực tế của Luật Thương mại
năm 2005 dù chưa đầy đủ nhưng cũng có
thể cho thấy ở nó dễ tìm kiếm giải pháp hơn
cho việc giải quyết vấn đề của Cách mạng
công nghiệp 4.0, cụ thể là kinh tế chia sẻ, có
nghĩa là xem những người lái taxi Uber hay
Grab là những thương nhân thực tế khi họ
gây thiệt hại cho hành khách.
Môi trường pháp lý của chúng ta hiện
nay được xây dựng trên căn bản truyền
thống Sovietique Law có lẽ không còn phù
hợp với nền kinh tế thị trường bởi bản thân
truyền thống pháp luật này xây dựng trên
nền tảng công hữu hóa tư liệu sản xuất và
kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân. Vì vậy
trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã và
đang rất nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cũng như cải cách tư pháp,
cải cách hành chính nhằm đáp ứng cho kinh
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 7(359) T4/2018
tế thị trường, hội nhập quốc tế và Cách mạng
công nghiệp 4.0. Tuy nhiên các đạo luật (kể
cả mới được ban hành) chứa đựng nhiều bất
cập, có nhiều kẽ hở, mâu thuẫn, chồng chéo
không tạo ra một môi trường pháp lý cần
thiết và thích hợp cho kinh tế thị trường. Các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư, người tiêu
dùng... có thể vướng phải những rủi ro pháp
lý không đáng có, không tháo gỡ được sức
sản xuất, gây khó khăn cho hội nhập quốc tế
và hướng tới Cách mạng công nghiệp 4.0...
Trong sự bất đồng bộ lớn này, khu vực luật
tư có nhiều khiếm khuyết và bất cập nhất,
mặc dù là lĩnh vực pháp luật gần gũi nhất
với hoạt động kinh doanh, thương mại và
đầu tư. Các nguyên nhân chủ yếu của thực
trạng này có thể bao gồm:
Thứ nhất, pháp luật của Việt Nam hiện
đang được cải cách từ hệ thống pháp luật
xây dựng theo truyền thống Sovietique Law
(là một truyền thống pháp luật của nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung). Do đó, nhiều
vấn đề pháp lý chưa được suy xét đến cùng
để làm rõ sự phù hợp hay bất phù hợp với
kinh tế thị trường. Đặc biệt, việc nghiên
cứu lý luận về pháp luật chưa được đi trước
một bước để bảo đảm xây dựng tốt pháp
luật. Các chuyên gia so sánh pháp luật trên
thế giới khẳng định, các quy phạm pháp
luật của truyền thống Civil Law và truyền
thống Sovietique Law trước hết được chắt
lọc ra từ trong lý thuyết, rồi mới mài giũa
cho phù hợp với thực tiễn3. Có thể thấy bản
thân nguyên tắc tự do kinh doanh mà Việt
Nam quy định thành nguyên tắc Hiến định
(Điều 33 Hiến pháp năm 2013) cũng chưa
bao giờ được nghiên cứu đến cùng về mặt
lý luận hay chưa bao giờ được nghiên cứu
3 René David & John E. C. Brierley, Major Legal Systems in the World Today, The Free Press, Second Edition, 1978, pp.
86 - 87.
4 Ngô Huy Cương, Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: bình luận những vấn đề pháp lý chủ yếu, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, Số 13 (269)/ Kỳ 1 - tháng 07/2014, tr. 28.
để lựa chọn quan điểm của ai làm tiền đề
xây dựng các quy định pháp luật liên quan.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm
của khái niệm quyền tự do kinh doanh. Có
quan điểm: “Nói đơn giản, quyền tự do kinh
doanh (freedom of enterprise) bao gồm:
quyền tự do trở thành thương nhân; quyền
tự do tạo lập doanh nghiệp; quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh; quyền tự do
lựa chọn quy mô kinh doanh; quyền tự do
quản trị và vận hành doanh nghiệp; quyền
tự do thuê mướn và sử dụng lao động; và
quyền tự do lựa chọn nơi và phương thức
cung cấp sản phẩm và dịch vụ của thương
nhân. Gắn liền với các quyền tự do này là
quyền chống lại các hành vi cấm đoán hoặc
gây cản trở những quyền tự do nói trên”4.
Trong khi đó, BLDS năm 2005 lại quan
niệm quyền tự do kinh doanh bao gồm cả
quyền tự do hợp đồng (Điều 50). Điều 33
Hiến pháp năm 2013 viết: “Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm” dường như
ngụ ý rằng, quyền tự do kinh doanh là quyền
con người liên quan tới việc lựa chọn ngành
nghề kinh doanh. Việc thiếu dẫn dắt bởi lý
luận là một trong những nguyên nhân hàng
đầu dẫn tới tính mất đồng bộ của pháp luật
nói chung và của luật tư nói riêng.
Thứ hai, chúng ta chưa có kinh nghiệm
về các vấn đề pháp lý của kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ ba, chúng ta chưa xây dựng được
mô hình của hệ thống pháp luật tương thích
với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ tư, chúng ta tiếp thu kinh nghiệm
nước ngoài còn thiếu tinh tế, thiếu sàng lọc
và thiếu cân nhắc kỹ lưỡng.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 7(359) T4/2018
Thứ năm, chúng ta có tâm lý nôn nóng
xây dựng hệ thống văn bản pháp luật đầy
đủ trong một thời gian ngắn trong khi thiếu
nghiên cứu một cách đúng mức và thiếu suy
xét kỹ lưỡng.
Thứ sáu, chúng ta thiếu chủ thuyết,
thiếu lý luận nền tảng về cải cách pháp luật
và cải cách tư pháp...
Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề đồng
bộ hóa luật tư trong bối cảnh xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là
rất cấp bách. Lĩnh vực luật tư thiếu đồng bộ
khiến môi trường pháp lý kinh doanh bất ổn;
doanh nghiệp, nhà đầu tư, cũng như người
tiêu dùng luôn gặp phải những rủi ro pháp
lý mà thiếu sự kiểm soát có hiệu quả; việc
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước kém;
quản lý nhà nước không nhất quán. Như vậy
các thiếu sót này có thể làm chậm lại quá
trình xây dựng nền kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
Thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp
lý và xây dựng pháp luật từ thời kỳ đổi mới
cho đến nay cho thấy, có những công trình
nghiên cứu khá toàn diện về xây dựng pháp
luật và cũng đã chú ý tới tính đồng bộ. Chẳng
hạn Dự án “Tăng cường năng lực pháp luật
tại Việt Nam” - VIE/94/003 được ký kết
giữa Bộ Tư pháp thay mặt Chính phủ Việt
Nam và UNDP ngày 15/04/1994 có ba mục
tiêu chủ yếu là: (1) Hỗ trợ xây dựng khung
pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN; (2) Tăng cường khả năng của Bộ
Tư pháp trong việc điều phối quá trình soạn
thảo các văn bản quy phạm pháp luật; (3)
Hỗ trợ Văn phòng Quốc hội và Văn phòng
Chính phủ trong việc phối hợp soạn thảo và
thẩm định các dự án luật và các văn bản quy
phạm pháp luật khác. Dự án này đã đề cập
tới các mảng khác nhau của pháp luật kinh
tế mà có thể được hiểu là môi trường pháp lý
cho hoạt động kinh tế ở Việt Nam trong thời
kỳ đầu xây dựng kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Các mảng pháp luật được nêu
tên tại Dự án này bao gồm: pháp luật về dân
sự; pháp luật về thương mại; pháp luật về
doanh nghiệp; pháp luật về đầu tư; pháp luật
về giải quyết tranh chấp kinh tế; pháp luật về
tài chính công; pháp luật về ngân hàng; pháp
luật về bảo vệ môi trường; pháp luật về đất
đai; pháp luật về cạnh tranh; điều ước quốc
tế và khung pháp luật kinh tế. Những điểm
thành công chủ yếu của Dự án này là: thứ
nhất, bao quát được những lĩnh vực pháp
luật liên quan chủ yếu tới hoạt động kinh tế
của một nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN; thứ hai, nêu bật được
sự cần thiết pháp điển hóa các lĩnh vực pháp
luật nói trên; thứ ba, nêu rõ được những nét
chủ yếu về thực trạng điều chỉnh của những
quy tắc pháp luật có liên quan; thứ tư, nêu
được một số định hướng chủ yếu của việc
xây dựng pháp luật dân sự trong nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN, cùng một số nguyên tắc
cơ bản; thứ năm, làm rõ được một số khái
niệm chủ yếu của pháp luật về thương mại,
tài chính, ngân hàng, môi trường; thứ sáu,
kiến nghị xây dựng một số đạo luật và xác
định phạm vi điều chỉnh của chúng; và thứ
bảy, đánh giá thực trạng tham gia các điều
ước quốc tế liên quan và kiến nghị liên quan
tới việc xây dựng luật về điều ước quốc tế
của Việt Nam. Tuy nhiên, các kết quả nghiên
cứu của Dự án này còn hết sức sơ sài, thể
hiện việc chưa thực sự hiểu biết sâu về
pháp luật của kinh tế thị trường với khuynh
hướng toàn cầu hóa và theo đuổi Cách mạng
công nghiệp 4.0. Các nghiên cứu của Dự
án này thể hiện sự pha trộn thiếu cân nhắc
giữa truyền thống Sovietique Law và truyền
thống pháp luật Civil Law. Việc phân biệt
giữa luật công và luật tư chưa được đề cập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 7(359) T4/2018
tới. Đặc biệt, Dự án chưa xây dựng được cơ
sở lý luận của hệ thống pháp luật nói chung
và luật tư nói riêng trong một nền kinh tế thị
trường. Vì vậy, logic hệ thống chưa được
làm rõ. Các mảng pháp luật được giới thiệu
rời rạc không cho thấy chúng là các thành
tố khác nhau của một hệ thống thống nhất.
Về mặt pháp điển hóa, Dự án bỏ qua các
học thuyết về pháp điển hóa luật dân sự và
luật thuơng mại và chấp nhận thực tế lệch
lạc trong việc xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật lúc bấy giờ mà không có
phê phán xác đáng. Hệ quả là Dự án không
nêu được vai trò nền tảng của bộ pháp điển
hóa luật dân sự đối với hệ thống luật tư. Và
tất nhiên các đạo luật được xây dựng theo
kiến nghị của Dự án là các đạo luật rời rạc,
tạm bợ và thiếu logic hệ thống. Các khiếm
khuyết này còn hiển hiện trong cả các đạo
luật mới xây dựng sau Hiến pháp 2013. Một
số các nghiên cứu khác có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn nhất định nhưng không phải là
các nghiên cứu có tính bao quát hệ thống.
Các nghiên cứu ở trên cho thấy, đồng
bộ hóa luật tư là một nhu cầu cấp bách trong
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng các
đòi hỏi của kinh tế thị trường và Cách mạng
công nghiệp 4.0.
2. Định hướng đồng bộ hóa luật tư
Việc đồng bộ hóa luật tư cần phải chú
ý tới các định hướng như:
Thứ nhất, làm rõ toàn bộ nền tảng lý
luận của luật tư và xây dựng mô hình lý luận
thích hợp với bối cảnh xây dựng kinh tế thị
trường và công cuộc theo đuổi Cách mạng
công nghiệp 4.0 cụ thể ở Việt Nam. Việc
pháp điển hóa luật tư ở Việt Nam không
thể không xuất phát từ lý luận và mài giũa
cho phù hợp với thực tiễn bởi truyền thống
Civil Law và truyền thống Sovietique Law
đã ăn sâu trong tư duy pháp lý của người
Việt mà các truyền thống này thường chắt
lọc ra từ trong lý thuyết các quy tắc pháp
lý. Sự bất đồng bộ của luật tư cho thấy cần
nghiên cứu sâu thêm vào các vấn đề pháp
lý sau để bảo đảm tiến hành đồng bộ hóa
luật tư: (1) Mô hình lý luận của luật tư và
các nguyên tắc xuyên suốt của luật tư; (2)
tác động xã hội của đồng bộ hóa luật tư;
(3) phân loại trong lĩnh vực luật tư; (4) nền
tảng của luật tư; (5) mối liên hệ giữa các
thành tố của luật tư; (6) định hướng và giải
pháp cụ thể đồng bộ hóa luật tư; (7) kinh
nghiệm nước ngoài về đồng bộ hóa luật tư;
(8) pháp điển hóa luật tư; (9) mối quan hệ
giữa các loại nguồn của luật tư; và (10) áp
dụng luật tư...
Thứ hai, làm rõ những tồn tại về tính
bất đồng bộ của luật tư hiện hành ở Việt
Nam. Đây là công việc hết sức cần thiết.
Nếu các khiếm khuyết và các bất cập không
được làm rõ thì khó có thể có những cải cách
thích hợp. Bản thân các công việc này đòi
hỏi phải được soi rọi từ lý thuyết kết hợp với
tổng kết thực tiễn.
Thứ ba, học tập kinh nghiệm nước
ngoài một cách tinh tế và cấy ghép pháp
luật nước ngoài vào Việt Nam một cách phù
hợp với môi trường của Việt Nam. Vấn đề
pháp điển hóa luật thương mại ở Việt Nam
cho thấy chúng ta chưa học tập kinh nghiệm
nước ngoài về mô hình và những giải pháp
cơ bản mà chỉ học những quan điểm và kỹ
thuật nhỏ lẻ. Điều đáng nói nhất là các đạo
luật pháp điển hóa các chế định khác nhau
của luật thương mại lại học tập kinh nghiệm
của các nước khác nhau nên khó có thể có
tính đồng bộ.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 7(359) T4/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dong_bo_hoa_luat_tu_hien_nay_trong_boi_canh_xay_dung_nen_kin.pdf