A huge surface deformation is present firstly the existence of the weak soil layers existing in the region, the second
is construction plans which are not reasonable and, the third is exploitation of underground water more and more over.
But the consequences are all due to the first cause. The weak soil layers in Hadong region are formed mainly by marine
transgression in early and middle Holocene stages. It was muddy sediments of coastal bays or lakes with high organic
compounds and in flow state. The soil layers with high deformation caused land surface subsidence when loading. It is
special dangerous due to nonconformity between spatial distribution of weak soil layer and the loading forms. This paper35
presents the results calculated by the finite element method (FEM) to predict ground deformation in HaDong region with
the different surface loads and underground water exploitation.
The exploitation of groundwater in the large and small scale in this region is now a topical issue. Groundwater level
falls down for Hanoi city by monitoring network wells. At the same time, many parts of the city show land subsidence by
topography repeat measurements. Main cause of falling down groundwater level is the groundwater exploitation without
planning by private households businesses. Exploitation amount of groundwater is more than water supplied caused
groundwater levels decline and lead to ground subsidence in weakness areas of soil layers.There is necessary of ground
deformation and groundwater level monitoring for ground subsidence and deformation forecasting to urban planning
and territorial security constructing for Hanoi city.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dự báo biến dạng mặt đất khu vực Hà Đông do đô thị hóa và khai thác nước ngầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
35(1), 29-35 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2013
DỰ BÁO BIẾN DẠNG MẶT ĐẤT KHU VỰC HÀ ĐÔNG
DO ĐÔ THỊ HÓA VÀ KHAI THÁC NƯỚC NGẦM
TRẦN VĂN TƯ, HÀ NGỌC ANH,
ĐÀO MINH ĐỨC, NGUYỄN MẠNH TÙNG
Email: tranvantu92@yahoo.com.vn
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 15 - 6 - 2012
1. Mở đầu
Khu vực quận Hà Đông, trước khi sát nhập Hà
Tây vào Hà Nội là thành phố Hà Đông với sự mở
rộng theo quy hoạch đô thị Hà Đông. Khu vực này,
về mặt địa lý, là sự chuyển tiếp giữa đồng bằng và
vùng bán sơn địa phía tây bắc Hà Nội. Đây cũng là
ranh giới quá trình biển tiến thời kỳ đầu và giữa
Holocene. Bằng chứng là sự có mặt trong mặt cắt
địa chất hệ tầng đất yếu lbmQ21-2hh hoặc abQ21-hh.
Một vài lỗ khoan còn bắt gặp lớp sét của trầm tích
thuần biển của hệ tầng Hải Hưng. Đô thị Hà Đông
gồm cả một phần lưu vực hai sông Đáy và Nhuệ
chảy qua theo hướng bắc nam gần biên phía đông
và tây khu vực. Về địa hình, vùng phía nam và
đông nam của lưu vực sông Đáy và sông Nhuệ có
độ cao địa hình 4-5m, thậm chí 3-4m. Trong khi
đó, vùng phía bắc có địa hình cao 6-8m. Trong một
phạm vi hẹp của đồng bằng, có sự chênh lệch lớn
địa hình là do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do
hoạt động sụt lún gây ra bởi hoạt động tân kiến tạo;
thứ hai do sự bổ cấp không đều phù sa của sông
Hồng và sông Đáy thời kỳ chưa có đê; Thứ ba, do
quá trình cố kết lớp đất yếu; Thứ tư là sự tác động
của hoạt động kinh tế nhất là xây dựng làng xóm,
đô thị và khai thác nước ngầm. Hiện nay, khai thác
nước tập trung cung cấp cho Hà Đông thuộc hai
nhà máy: Nhà máy tại trung tâm Hà Đông gồm 8
giếng với công suất 16000 m3/ng.đ và nhà máy
nước tại Ba La gồm 8 giếng với công suất 20000
m3/ng.đ. Công suất này ngày càng gia tăng là mối
lo ngại làm mất cân bằng nguồn nước và gây biến
dạng mặt đất [3].
Ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, hiện
tượng lún mặt đất do khai thác nước ngầm tại Hà
Nội đã được lưu ý bởi nhiều nhà khoa học như Lê
Huy Hoàng, Nguyễn Đức Tâm, Trần Văn Hoàng,
Nguyễn Huy Phương, Đoàn Thế Tường,[1, 2, 4,
5]. Hà Nội là một trong các vùng tồn tại các trầm
tích ven biển, các trầm tích hồ đầm lầy kéo dài từ
Pleistocene trở lại đây, đặc biệt vào thời kỳ đầu và
giữa Holocene. Nước dưới đất được trữ và bổ cấp
bởi các tầng chứa nước có thành phần thạch học từ
cát đến cuội sỏi. Các tầng nước này hầu hết là nước
có áp và mực nước có áp dâng cao qua các tầng đất
yếu. Sự hạ thấp nước ngầm đã tạo ra hiệu ứng thứ
cấp gây biến dạng các lớp đất dính yếu và gây biến
dạng chung khu vực. Hà Đông và các vùng lân cận
của Hà Tây cũ cũng nằm trong mắt xích này nên
khi khai thác nước ngầm quá mức mà không được
bổ cấp kịp thời sẽ không tránh khỏi bị biến dạng
mặt đất.
Kết quả quan trắc tại các trạm đo lún mặt đất tại
Hà Nội cho thấy, những trạm có tồn tại lớp đất yếu,
tốc độ lún bề mặt đất tương đối lớn như Thành
Công là 41,42 mm/năm, Ngô Sỹ Liên 31,52
mm/năm, Pháp Vân 22,16 mm/năm, Những trạm
không tồn tại lớp đất yếu có tốc độ lún bề mặt nhỏ
như Ngọc Hà là 1,80 mm/năm, Mai Dịch 2,65
mm/năm, Đông Anh 1,41 mm/năm. Những trạm có
vị trí gần sông Hồng có độ lún bề mặt đất nhỏ hơn
vì mực nước ngầm được nước sông bù phụ một
phần như Lương Yên 18,83 mm/năm, Gia Lâm
10,33 mm/năm.
Sử dụng phương pháp trong cơ học đất để tính
toán biến dạng mặt đất do khai thác nước ngầm
hay công trình xây dựng chỉ thu được số liệu cho
từng điểm riêng biệt, [2]. Phương pháp phần tử
hữu hạn (PPPTHH) được áp dụng cho phép tính
30
toán bài toán lớn với sự tích hợp nhiều dạng tải
trọng. Tại đô thị Hà Đông chúng tôi đã giải cho bài
toán hai chiều, một chiều dọc theo mặt cắt địa chất
công trình từ Chúc Sơn đến ranh giới Hà Nội cũ
(khoảng 11 km), chiều sâu đến tầng đá cứng, được
coi là không biến dạng. Như vậy lần đầu tiên ở
Việt Nam, bài toán địa cơ học trong khu vực lớn
được mô hình hóa và tính toán bằng phương pháp
toán học. Kết quả bài toán này cho phép thấy rõ
biến dạng của mặt đất do hoạt động kinh tế, cụ thể
là hệ thống công trình xây dựng và khai thác
nước ngầm (hình 1).
Hình 1. Mặt cắt địa chất công trình đô thị Hà Đông từ Trúc Sơn về ranh giới Hà Nội cũ
2. Điều kiện địa chất công trình và biến động
nước ngầm khu vực
Ta có thể thấy sơ lược điều kiện địa chất công
trình khu vực qua mặt cắt dọc đi từ Chúc Sơn đến
biên giới Hà Nội cũ. Mô tả theo địa tầng, từ trẻ đến
cổ, trong đó chỉ tiêu vật lý cơ học được cho phục
vụ cho bài toán lập lên sau này.
Lớp 1, hệ tầng Thái Bình bao gồm hai phụ lớp:
- Phụ hệ tầng Thái Bình trên - lớp 1a (aQ23 tb2).
Các thành tạo aluvi ngoài đê dạng bãi bồi, hàng
năm được bổ sung lượng phù sa các sông. Thành
phần cũng rất đa dạng từ sét pha - cát pha - cát
mịn. Trạng thái của đất dính chủ yếu từ dẻo cứng
đến dẻo tùy thuộc độ sâu phân bố. Ngoài ra, còn
gặp ở đồng bằng trong đê các thành tạo hồ, đầm
lầy, vết tích của các lòng sông cổ. Chúng là các hồ
móng ngựa (sông chết) sau bị đầm lầy hoá, phân
bố rải rác với diện tích hạn chế. Lớp 1a chủ yếu sét
pha-cát pha hệ tầng Thái Bình trên trạng thái dẻo -
dẻo cứng: W(%) = 28,8; γw = 1,91 (T/m3); e0 =
0,831; E = 451,6 (T/m2); ν = 0,3.
- Phụ hệ tầng Thái Bình dưới - lớp 1b (aQ23
tb1). Trầm tích hệ tầng dưới có nguồn gốc aluvi
phân bố rộng rãi ở bề mặt đồng bằng trong đê.
Thành phần rất đa dạng, gồm các tập với thành
phần thạch học khác nhau từ sét, sét pha, cát pha.
Tuy nhiên chủ yếu vẫn là tập sét - sét pha trạng thái
từ dẻo cứng đến dẻo mềm. Trầm tích của phụ hệ
tầng Thái Bình dưới phủ lên các trầm tích cổ hơn,
từ các trầm tích hệ tầng Hải Hưng, có nơi phủ trực
tiếp lên hệ tầng Vĩnh Phúc. Chiều dày biến đổi từ 5
đến 25m. Dọc theo hai bờ của con sông khu vực
nghiên cứu, trầm tích này bị phủ bởi trầm tích của
phụ hệ tầng Thái Bình trên. Lớp 1b chủ yếu sét -
sét pha hệ tầng Thái Bình dưới trạng thái dẻo - dẻo
mềm: W(%) = 28,9; γw = 1,89 (T/m3); e0 = 0,853; E
= 457,1 (T/m2); ν = 0,3.
Lớp 2, trầm tích hệ tầng Hải Hưng bao gồm hai
phụ lớp:
- Phụ hệ tầng Hải Hưng trên - lớp 2a (abQ21-2
hh3). Các thành tạo trầm tích phụ hệ tầng này có
nguồn gốc sông, đầm lầy sau biển tiến, được dặc
trưng bởi sét, bột sét, có ít cát, sét cát mềm nhão có
thực vật, màu nâu đen, xám đen, chiều dày 0,5 -
18m. Lớp 2a chủ yếu sét hệ tầng Hải Hưng trên
trạng thái dẻo mềm đến dẻo chảy: W(%) = 35,9; γw
= 1,77 (T/m3); e0 = 1,075; E = 295,3 (T/m3); ν = 0,3.
- Phụ hệ tầng Hải Hưng dưới - lớp 2b (lbmQ21-2
hh1). Các thành tạo trầm tích phụ hệ tầng Hải Hưng
dưới có nguồn gốc hồ - đầm lầy ven biển. Phụ hệ
tầng được đặc trưng bởi các tàn tích thực vật lẫn
sét cát hoặc sét bột, sét cát có chứa tàn tích thực vật
màu xám đen thường gọi là than bùn. Đất thành tạo
31
chủ yếu là bùn sét xám tro, xám đen có lẫn nhiều
thực vật. Đây là loại đất gây bất lợi cho công trình.
Bề dày của phụ hệ tầng dưới này dao động từ 2 đến
6 m. Lớp 2b chủ yếu là bùn sét và bùn sét pha hệ
tầng Hải Hưng dưới trạng thái dẻo chảy đến chảy:
W(%) = 73; γw = 1,47 (T/m3); e0 = 2,096; E = 156,9
(T/m3); ν = 0,3.
Lớp 3, trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc (aQ13 vp),
trầm tích này bị phủ bởi các thành tạo trầm tích có
tuổi Holocene. Nhìn chung, các thành tạo trầm tích
có nguồn gốc aluvi hệ tầng Vĩnh Phúc gồm 2 phần:
- Phần dưới gồm: Sạn sỏi, cuội nhỏ, thạch anh,
silic, trong đó cát sạn sỏi chiếm ưu thế với kích
thước hạt trung bình.
- Phần trên gồm: Sét bột lẫn cát, cát sét màu
xám, xám trắng nhiễm sắt có màu loang lổ.
Về mặt địa chất công trình, không phân chia
các lớp chi tiết mà tập trung lại thành lớp có thành
phần từ sét, sét pha và lớp bao gồm cát có lẫn cuội
sỏi. Đất dính có trạng thái dẻo cứng đến cứng, đất
rời ở trạng thái chặt. Chỉ tiêu vật lý cơ học hệ tầng
Vĩnh Phúc không phân chia với E = 20000 Kpa
Lớp 4, hệ tầng Hà Nội, ở đồng bằng sông Hồng
được xếp vào tuổi Pleistocene giữa - trên. Trầm
tích hệ tầng Hà Nội phủ bất chỉnh hợp lên hệ tầng
Lệ Chi và bị hệ tầng Vĩnh Phúc phủ bất chỉnh hợp
lên trên. Chiều dày của hệ tầng thay đổi từ 5 đến
30m. Thành phần thạch học của cuội là thạch anh,
đá silic, đá cát kết thậm chí có cả cuội của đá phun
trào. Màu sắc của cuội không đồng nhất, nhiều
màu, phụ thuộc vào thành phần thạch học của cuội.
Về mặt tướng được xếp vào tướng aluvi - proluvi
hoặc aluvi miền núi có nghĩa là nguồn gốc trầm
tích hệ tầng Hà Nội là sông và sông - lũ hoặc sông
miền núi.
Lớp 5, hệ tầng Lệ Chi (aQ1lc) gồm cuội, chủ
yếu có thành phần thạch anh, silic, đá hoa, sỏi lẫn
cát bột sét thuộc tướng lòng sông vùng chuyển
tiếp. Chúng có màu xám nâu, xám xanh, trắng đục,
xám lục. Cuội có kích thước trung bình 3 - 5cm, độ
mài tròn tốt đến rất tốt, độ cầu từ trung bình đến tốt
song độ chọn lọc từ trung bình đến kém. Trên tập
cuội sỏi này là cát hạt nhỏ, màu xám vàng, độ chọn
lọc và mài tròn tốt, thành phần thạch học chủ yếu
là cát thạch anh, ngoài ra là các mảnh đá silic, rất ít
felspar và khoáng vật nặng.
Lớp 6, hệ tầng Vĩnh Bảo; đất đá trầm tích
Neogen hệ tầng Vĩnh Bảo gồm: cuội, sỏi, sạn kết
màu xám sáng phớt xanh, mềm bở hoặc rắn chắc,
bột kết, cát kết màu xám xanh, xám trắng khá rắn
chắc, gắn kết tốt xen kẽ với các lớp cát bột sét gắn
kết yếu, màu xám vàng độ chọn lọc từ trung bình
đến kém. Do chưa có tài liêụ lỗ khoan chưa hết đất
đá Neogen nên quan hệ dưới chưa rõ; quan hệ trên
bị các trầm tích Đệ Tứ, chính xác là các thành tạo
Pleistocene dưới hoặc Pleistocene giữa-muộn phủ.
Lớp 7, đất đá hệ tầng Viên Nam (T1vn ), chủ
yếu là đá phun trào là basalt porphyr, plagiobasalt
andezito - basalt màu xám xanh, xám đen, xám lục
và tuf của chúng.
Động thái nước ngầm khu vực chịu ảnh hưởng
chủ yếu do thời tiết và sự khai thác nước sinh hoạt,
bởi khai thác nước tại nhà máy Hạ Đình quá lớn
nên dao động mực nước ngầm với sự khai thác
nước của hai nhà máy Hà Đông và Ba La chỉ là
phụ. Hình 2 chỉ ra động thái mực nước ngầm trong
tầng Pleistocene tại Hà Đông và Ba La (Q69a -
vùng Ba La và Q68b - vùng nội thị Hà Đông).
Hình 1. Sự sụt giảm mực nước ngầm theo thời gian tại
Hà Đông
Đồ thị thể hiện sụt giảm mực nước ngầm trên
mặt cắt địa chất công trình ở hình 1. Sự sụt giảm
mực nước ngầm gia tăng về phía đông nơi có nhà
máy nước Hạ Đình đang khai thác với lưu lượng
rất lớn. Trên đồ thị hình 3 là đường mặt đất với độ
sâu mực nước ngầm tương ứng được tính toán dự
báo đến năm 2020.
32
Hình 2. Sụt giảm nước ngầm theo dự báo đến 2020
3. Lập bài toán, các điều kiện biên và môi trường
Bài toán được thiết lập với các điều kiện biên
và môi trường như ở mặt cắt địa chất công trình
hình 1. Các điều kiện về lực sẽ được bổ sung theo
thực tế đô thị hóa và mức độ sụt giảm mực nước
ngầm. Chúng ta có hai bài toán: Xây dựng hệ
thống công trình trên mặt đất (trường hợp 1) và sự
sụt giảm mực nước ngầm cho đến năm 2020
(trường hợp 2).
Cả hai bài toán được giải với các điều kiện biên
như sau:
- Tầng Hà Nội và Lệ Chi tiếp xúc với đất đá hệ
tầng Neogen hoặc hệ tầng Viên Nam, được coi là
gối tựa cứng có chuyển vị bằng không cả hai chiều.
- Phần biên bên phải của bài toán được mở rộng
ra vô cùng theo mô hình giải của bài toán. Tại các
biên này gối tựa cứng chỉ cản trở chuyển vị theo
phương ngang, còn phương đứng tự do theo biến
dạng của các lớp đất.
Điều kiện chịu lực, với lực tác dụng trên bề mặt
là các công trình xây dựng dân dụng. Các công
trình có thể là cụm công trình với các nhà cao tầng
liền kề được ngăn cách bằng các phố nhánh. Vì các
công trình lớn đều làm cọc nhồi xuống tận tầng
cuội sỏi nên ta chỉ tính cho các công trình xây
dưng dân cư cỡ 5 tầng trở xuống. Mật độ toàn đô
thị xây dựng theo thiết kế quy hoạch là 0,14. Tuy
nhiên tại các phố, mật độ xây dựng xấp xỉ 1. Mực
nước sông Đáy được lấy với độ sâu là 5,55m, sông
Nhuệ mực nước với độ sâu 3,25m.
Nhà 5 tầng được xây dựng hiện nay theo tính
toán trọng lượng lên tới 175,9 tấn trên diện tích
50m2. Như vậy, nếu theo móng bè thì trọng lượng
đơn vị là 3,518 T/m2 bằng 35,18 Kpa.
Bài toán chịu tác động của lực trọng lực phụ
thêm do mực nước ngầm suy giảm. Vì trọng lượng
bản thân của đất đẩy nổi là γbh-1, nên khi mực nước
ngầm rút xuống, phần trên mực nước ngầm trọng
lượng bản thân là γbh, nên trọng lượng bản thân phụ
thêm sẽ là 1.
Hình 4 cho sơ đồ hai bài toán cơ bản với các
điều kiện biên, điều kiện lực và điều kiện môi
trường như phân tích bên trên. Bài toán được phân
chia thành các phần tử hữu hạn chủ yếu hình chữ
nhật. Các phần tử liên kết được chia theo tam giác
để dễ phù hợp. Số phần tử hữu hạn khoảng 39.000,
kích thước nhỏ nhất tại các vùng tập trung ứng suất
nhỏ hơn 1m.
4. Kết quả bài toán
Bài toán được giải bằng PPPTHH với bài toán
đàn hồi hai chiều. Kết quả phân tích chủ yếu là
chuyển vị trên mặt đất được coi là biến dạng bề
mặt do tác động của tải trọng.
Trường hợp xây dựng các công trình nhà thấp
tầng, ta xét hai phương án: PA1 với nhà khoảng 2-
3 tầng tương ứng với tải trọng phân bố đều khoảng
17,59 Kpa (PA1), PA2 với nhà 5 tầng tương ứng
với tải trong phân bố đều là 35,18 Kpa (PA2). Trên
đồ thị hình 5 chúng ta thấy phân bố biến dạng mặt
đất trong hai trường hợp. Kết quả cho thấy độ lún
mặt đất lớn nhất là 0,30-0,35 m. Đây là độ lún lớn
hơn cho phép rất nhiều với công trình xây dựng
dân dụng. Song phải thấy rằng đây là độ lún của cả
hệ thống công trình chứ không phải độ lún của một
công trình.
33
Hình 4. Mô hình các bài toán tính toán biến dạng mặt đất tại đô thị Hà Đông
← Hình 5. Biến dạng mặt đất
do xây dựng công trình
→ Hình 6. Biến dạng mặt đất
do sụt giảm mực nước ngầm
34
Độ lún mặt đất tập trung chủ yếu tại nơi xây
dựng công trình và tắt rất nhanh khi ra khỏi phạm
vi xây dựng. Kết quả này cũng phù hợp với công
trình đặt trên nền đất có mô đun biến dạng nhỏ.
Trong trường hợp biến dạng mặt đất do sụt
giảm nước ngầm, kết quả tính toán cho trên hình 6.
Ta thấy rằng độ lún mặt đất lớn nhất đến 1,2 m.
Đây là trị số đáng báo động. Tuy nhiên sự biến
dạng kéo dài theo thời gian, có thể lên đến nhiều
năm tùy thuộc tốc độ cố kết tầng bùn. Từ kết quả
bài toán cho thấy rằng:
- Biến dạng bề mặt đất xảy ra khắp bề mặt khu
vực, với những nơi có sự sụt giảm lớn về nước
ngầm thì độ lún mặt đất cũng lớn.
- Những nơi có lớp đất bùn dày thì mức độ sụt
lún mặt đất lớn (Khu vực nội đô Hà Đông). Ngược
lại, những nơi vắng mặt lớp đất bùn, thay vào đó là
lớp đất có chỉ tiêu vật lý cơ học tốt thì mức độ sụt
lún mặt đất nhỏ (khu vực cách Chúc Sơn 4-7km,
trong phạm vi hoạt động của sông Đáy). Khu vực
cách Chúc Sơn 2-4km tồn tại thấu kính bùn do vậy
sụt lún mặt đất khu vực này vẫn khá cao mặc dù
chiều sâu của thấu kính bùn lớn.
5. Một vài nhận xét thay kết luận
Kết quả tính toán cho bài toán với tải trọng là
cụm công trình, độ lún mặt đất lớn hơn cho phép
với từng công trình đơn lẻ. Độ lún cho phép này
của cụm công trình chưa có quy định trong
quy phạm.
Biến dạng mặt đất do sụt giảm nước ngầm rất
lớn so với việc xây dựng công trình trên mặt đất.
Tuy nhiên một mặt do tốc độ lún nước ngầm nhỏ
(theo báo cáo ở Hà Đông tốc độ hàng năm khoảng
0,3-0,5 m/năm) mà quá trình cố kết lớp đất yếu kéo
dài có thể trên hai mươi năm. Do hoạt động nhân
sinh trong quá trình đô thị hóa, sự thay đổi độ cao
mặt đất chịu tác động của nhiều yếu tố. Sự sụt lún
mặt đất do khai thác nước ngầm với tốc độ nhỏ có
thể khó nhận thấy.
Đây là bài toán lớn mang tính khu vực được tác
giả áp dụng đầu tiên ở Việt Nam. Với kết quả bài
toán có thể mở rộng cho biến dạng mặt đất do khai
thác khoáng sản rắn như khai thác than (Đặc biệt
than nâu dưới đồng bằng Bắc Bộ). Bài toán biến
dạng mặt đất do hoạt động kiến tạo hiện đại cũng
có thể được nghiên cứu với phương pháp này.
Kết quả bài toán có thể được tham khảo cho các
nhà quản lý và thiết kế quy hoạch lựa chọn hệ số
xây dựng quy hoạch sao cho phù hợp.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Nguyễn Văn Hưng, Trần Văn Hoàng,
Nguyễn Hữu Bảng, 2001: Dự báo độ lún mặt đất từ
số liệu quan trắc của các trạm đo biến dạng lún bề
mặt do thay đổi mực nước ngầm. Tạp chí Các
Khoa học về Trái Đất , T.23, 2, tr.154-156.
[2] Nguyễn Huy Phương và nnk 2005: Nghiên
cứu áp dụng phương pháp phân tích ngược để nâng
cao độ chính xác dự báo sụt lún mặt đất do khai
thác nước ngầm ở Hà Nội”, Tạp chí Địa kỹ thuật,
ISSN-0868-279X, 3, 45-50.
[3] Trần Văn Tư và nnk, 2009: Đánh giá sự
biến dạng bề mặt đất và công trình do hoạt động tự
nhiên và kinh tế khu vực đô thị Hà Đông và lân
cận, tỉnh Hà Tây. Báo cáo tổng kết đề tài cấp
Thành phố Hà Nội.
[4] Đoàn Thế Tường, 1999: Dự báo khả năng
lún bề mặt đất do hạ thấp mực nước ngầm. Báo cáo
tổng kết đề tài RD 9505, Hà Nội.
[5] Liên hiệp khảo sát địa chất - xử lý nền
móng công trình, 2005: Báo cáo kết quả quan trắc
lún các mốc chuẩn M1, M2, M3, M4 ở các trạm đo
lún Ngọc Hà, Pháp Vân, Thành Công, Lương Yên,
Đông Anh, Gia Lâm từ 1994-2004, Hà Nội.
SUMMARY
Forecasting land surface deformation in Ha Dong region due to urbanization and exploitation of groundwater
A huge surface deformation is present firstly the existence of the weak soil layers existing in the region, the second
is construction plans which are not reasonable and, the third is exploitation of underground water more and more over.
But the consequences are all due to the first cause. The weak soil layers in Hadong region are formed mainly by marine
transgression in early and middle Holocene stages. It was muddy sediments of coastal bays or lakes with high organic
compounds and in flow state. The soil layers with high deformation caused land surface subsidence when loading. It is
special dangerous due to nonconformity between spatial distribution of weak soil layer and the loading forms. This paper
35
presents the results calculated by the finite element method (FEM) to predict ground deformation in HaDong region with
the different surface loads and underground water exploitation.
The exploitation of groundwater in the large and small scale in this region is now a topical issue. Groundwater level
falls down for Hanoi city by monitoring network wells. At the same time, many parts of the city show land subsidence by
topography repeat measurements. Main cause of falling down groundwater level is the groundwater exploitation without
planning by private households businesses. Exploitation amount of groundwater is more than water supplied caused
groundwater levels decline and lead to ground subsidence in weakness areas of soil layers.There is necessary of ground
deformation and groundwater level monitoring for ground subsidence and deformation forecasting to urban planning
and territorial security constructing for Hanoi city.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3035_10224_1_pb_7108_2107945.pdf