Các xét nghiệm chẩn đoán dung hợp gen
EML4-ALK
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể
phát hiện dung hợp gen EML4-ALK, tuy nhiên
hiện nay có 3 phương pháp được áp dụng dựa
trên giá trị và phạm vi ứng dụng của nó, đó là:
Lai tại chỗ gắn huỳnh quang (Fluorescence In
Situ Hybridization- FISH), PCR sao chép ngược
(Reverse transcriptase-PCR, RT-PCR) và Hóa mô
miễn dịch (Immunohistochemistry, IHC, HMMD)
[4].
Mỗi phương pháp nêu trên đều có những ưu
khuyết điểm riêng của mình, và trong chiến lược
kiếm tìm một phương pháp tối ưu cho việc phát
hiện dung hợp gen EML4-ALK, nhiều nghiên cứu
so sánh vai trò của FISH, RT-PCR và HMMD đã
được thực hiện. Với giá thành rẻ, dễ dàng thực
hiện và việc sử dụng các kháng thể có độ nhậy
và độ đặc hiệu cao, HMMD đã được khuyến cáo
như là phương pháp ban đầu cho việc phát hiện
dung hợp gen EML4-ALK. RT- PCR với độ nhậy
rất cao có thể được sử dụng như một biện pháp
sàng lọc, và việc kết hợp PCR với giải trình tự
gen sẽ giúp các nhà khoa học xác định chính xác
các biến thể của dung hợp gen EML4-ALK. Cuối
cùng, cho đến thời điểm hiện tại, FISH vẫn được
xem là phương pháp tiêu chuẩn và là phương pháp
duy nhất được FDA chứng nhận cho việc phát
hiện dung hợp gen EML4-ALK trên bệnh nhân
UTPKTBN [4], [8], [16].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dung hợp gen Eml4-Alk: Hướng tiếp cận mới trong điều trị nhắm trúng đích với ung thư phổi không tế bào nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
11Số 77 (Tháng 6/2014) Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
DUNG HỢP GEN EML4-ALK: HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI TRONG ĐIỀU
TRỊ NHẮM TRÚNG ĐÍCH VỚI UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
Ngô Quý Châu*, Chu Thị Hạnh*, Lê Hoàn*, Trần Vân Khánh**
TÓM TẮT
Ung thư phổi (UTP) là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Điều trị UTP còn gặp rất
nhiều khó khăn do bệnh thường được phát hiện ở giai đoạn muộn, không còn khả năng phẫu thuật. Điều
trị hóa chất toàn thân có thể mang lại nhiều tác dụng không mong muốn và làm giảm chất lượng cuộc
sống cho bệnh nhân. Nhắm trúng đích là phương pháp điều trị mới hướng đến cơ chế phân tử của UTP,
bước đầu mang lại hiệu quả ngoạn mục với các thuốc ức chế thụ thể tăng trưởng biểu mô (Epidermal
Growth Factor Receptor, EGFR). Dung hợp gen EML4-ALK (Echinoderm Microtubule associated
protein Like 4- Anaplastic Lymphoma Kinase) được chứng minh vai trò trong cơ chế bệnh sinh của
UTP, mở ra hướng tiếp cận mới trong phương pháp điều trị nhắm trúng đích cho UTP không tế bào nhỏ.
Từ khóa: Dung hợp gen EML4-ALK, điều trị nhắm trúng đích, ung thư phổi
SUMMARY
EML4-ALK FUSION GENE: NEW APPROACH FOR TARGETED THERAPY OF NSCLC
Lung cancer is the most common cancer in the world. Unfortunately, a majority of patients have
advanced unresectable disease at diagnosis. Systemic chemotherapy can lead to many side effects as well
as reduces quality of life. Targeted therapy is a new type of treatment that targets cancer’s specific genes.
Epidermal growth factor receptor (EGFR) tyrosine kinase inhibitors (TKIs) are promising therapies for
patients with advanced NSCLC. The EML4-ALK fusion gene represents one of the newest molecular
targets for targeted therapy of NSCLC.
Keywords: EML4-ALK fusion gene, targeted therapy, lung cancer.
* Trung tâm Hô hấp-Bệnh viện Bạch Mai
** Trung tâm Gen Protein-Đại học Y Hà Nội
I. Tổng quan
ung thư phổi là loại ung thư thường gặp nhất
và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư.
Theo số liệu thống kê tình hình ung thư trên toàn thế
giới được công bố năm 2011, ước tính thế giới có
khoảng 1,66 triệu ca UTP mới mắc và khoảng 1,37
triệu ca tử vong [1].
Các nghiên cứu ở cấp độ phân tử cho thấy, sự
phát sinh, phát triển UTP diễn ra qua nhiều giai
đoạn dưới tác động của các yếu tố nguy cơ, sự
mẫn cảm gen và quá trình tích lũy đột biến xảy ra
12 Số 77 (Tháng 6/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
trên các gen gây ung thư (oncogene) và gen áp chế
ung thư (tumor suppressor gene). Các cơ chế điều
hòa gen vốn hoạt động nhịp nhàng và chặt chẽ khi
bị rối loạn sẽ dẫn tới sự tăng cường hay ức chế bất
thường các gen chức năng [2], [3], [4].
Bằng việc giải trình tự toàn bộ hệ gen của một
dòng tế bào UTP, người ta đã phần nào giải thích
được các con đường tín hiệu phân tử nội bào liên
quan đến sự kích hoạt các oncogene và bất hoạt
các suppressor gene. Sự kích hoạt các oncogene
thông qua các con đường tín hiệu từ thụ thể yếu
tố tăng trưởng biểu mô (EGFR) và một số thụ thể
Tyrosine kinase khác như MET, Her-2, c-KIT,
IGF-1R và gần đây là dung hợp EML4-ALK. Tiếp
đó các tín hiệu này sẽ hoạt hóa một loạt các con
đường RAS/RAF/MEK/MAPK,PI3K/AKT và
JAK/STAT dẫn đến tế bào không ngừng tăng sinh,
biệt hóa, xâm lấn, di căn và kháng lại chết tế bào
(apoptosis). Bên cạnh đó, một số đột biến của các
gen áp chế ung thư cũng được phát hiện như đột
biến TP53, RB1, CDKN2A, FHIT, RASSF1A, và
PTEN, trong đó phổ biến nhất là đột biến TP53,
những đột biến này làm mất đi khả năng kiểm soát
sự nhân lên của các tế bào, hậu quả là các tế bào
không ngừng phân chia, phát triển thành ung [2],
[3].
II. Dung hợp gen eml4-alk và ung thư phổi
2.1. Cấu trúc của dung hợp gen EML4-ALK
Ghi nhận về bất thường của gen ALK trong
UTP được mô tả lần đầu tiên năm 2007 khi Soda
và cộng sự phát hiện dung hợp gen EML4-ALK ở
một BN ung thư biểu mô tuyến, nam giới, 62 tuổi
tại Nhật Bản. Dung hợp gen EML4-ALK phát
sinh do xuất hiện một đảo đoạn trên cánh ngắn
của NST số 2- inv(2)(p21;p23) [5], [6] (Hình 1.1).
Dung hợp EML4-ALK
Hình 1.1: Dung hợp gen EML4-ALK do đảo
đoạn trên NST 2
(Theo Soda và cộng sự [5])
Kể từ khi được mô tả lần đầu tiên, đã có nhiều
biến thể khác nhau của dung hợp gen EML4-ALK
được phát hiện. Các biến thể này mang phần exon
20 của gen ALK mã hóa Tyrosine kinases kết hợp
với các exon khác của gen tổng hợp EML4 (bao
gồm các exon 2, 6, 13, 14, 15, 18 và 20) (Hình
1.2). Cho đến nay, đã có 13 biến thể của dung hợp
gen EML4-ALK được công bố, trong đó ghi nhận
2 biến thể phổ biến nhất là Biến thể 1 (E13-A20)
và Biến thể 3 (E6a/b-A20) [7], [8]. Theo các
nghiên cứu, dung hợp gen EML4-ALK xuất hiện
trong khoảng 7% UTP không tế bào nhỏ [2], [3].
Hình 1.2: Các biến thể của dung hợp gen
EML4-ALK đã được công bố
(Theo Horn và cộng sự [16])
13Số 77 (Tháng 6/2014) Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
2.2. Vai trò của EML4-ALK trong ung thư phổi
Nghiên cứu về cơ chế phân tử của EML4-ALK
trong bệnh sinh UTP, các nhà khoa học đã đưa ra
giả thuyết rằng phân tử này kích hoạt con đường
RAS/MEK/ErK và PI3K/AKT, từ đó thúc đẩy quá
trình tăng sinh tế bào và chống lại Apoptosis. Điều
này càng khẳng định rõ hơn khi trong mô hình
nghiên cứu kháng ALK-TKI (Tyrosine Kinase
Inhibitors), cả hai con đường RAS/MEK/ErK và
PI3K/AKT vẫn được kích hoạt dù có sự hiện diện
của TKI. Vai trò tác động của EML4-ALK lên con
đường JAK/STAT3 và PLCγ chưa được làm sáng
tỏ [9], [10].
Hình 1.3: Cấu trúc phân tử và các con đường tín hiệu phân tử của ALK
(Theo Palmer và cộng sự [9])
2.3. Đặc điểm lâm sàng của ung thư phổi mang
dung hợp gen EML4-ALK
Nghiên cứu về các dấu hiệu lâm sàng ở những
bệnh nhân UTP mang dung hợp gen EML4-ALK,
người ta ghi nhận một số đặc tính. Nổi bật nhất
trong số những đặc tính được mô tả là độ tuổi
khởi phát. Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng
bệnh nhân UTP mang dung hợp gen EML4-ALK
có tuổi trung bình thấp hơn nhiều so với nhóm
không tìm thấy dung hợp gen này. Shaw và cộng
sự (2009) đã phát hiện được 19 trường hợp mang
dung hợp gen EML4-ALK trong tổng số 141 bệnh
nhân UTPKTBN, trong đó trường hợp trẻ nhất
mang dung hợp gen này mới 29 tuổi, tuổi trung
bình của nhóm mang dung hợp gen EML4-ALK
là 52 so với của nhóm không mang dung hợp gen
là 64 tuổi [11].
Một đặc tính khác ở những bệnh nhân UTP
mang dung hợp gen EML4-ALK được ghi nhận,
đó là những bệnh nhân này thường không có tiền
14 Số 77 (Tháng 6/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
sử hút thuốc lá. Trong nghiên cứu của Shaw và
cộng sự (2009), đã có 19 bệnh nhân được phát
hiện mang dung hợp gen EML4-ALK trong đó
14 bệnh nhân không hút thuốc lá và 5 bệnh nhân
hút thuốc lá dưới 5 điếu/ngày [11]. Như vậy, cũng
giống như các đột biến của EGFR (Epidermal
growth factor receptor), các dung hợp gen EML4-
ALK phổ biến hơn ở những bệnh nhân UTP không
hút thuốc lá, trong khi các đột biến gen KRAS lại
phổ biến hơn ở những bệnh nhân UTP hút thuốc
lá [2], [3].
Khi xem xét sự khác biệt về giới tính ở những
bệnh nhân UTP mang dung hợp gen EML4-ALK,
người ta không nhận thấy một sự khác biệt nào
có ý nghĩa. Một phân tích cộng gộp từ kết quả
của 11 nghiên cứu trước đó đã được Li và các
cộng sự thông báo (2013): từ 1777 bệnh nhân BN
UTPKTBN gồm 1005 nam và 772 nữ, người ta
đã xác định được 38 bệnh nhân nam mang dung
hợp gen EML4-ALK và cũng với số lượng tương
tự bệnh nhân nữ mang dung hợp gen này, kết quả
cho thấy không có sự khác biệt về giới tính với
OR=0,64; Z=1,80, p>0,05 [12]. Các nghiên cứu
cũng không ghi nhận sự khác biệt về chủng tộc
ở những bệnh nhân mang dung hợp gen EML4-
ALK. Koivunen và cộng sự (2008) cũng đã phân
tích sự khác biệt này trên bệnh nhân UTPKTBN
mang dung hợp gen EML4-ALK từ 2 nguồn dữ
liệu ở Mỹ và Hàn Quốc, tuy nhiên đã không có sự
khác biệt nào được phát hiện [13]. Như vậy, khác
với những đột biến của EGFR, các bệnh nhân
UTP mang dung hợp gen EML4-ALK không có
sự khác biệt về giới tính và chủng tộc.
Về phương diện mô học, các nghiên cứu chỉ
ra rằng dường như ung thư biểu mô tuyến phổ
biến hơn các dạng tổn thương khác ở các bệnh
nhân mang dung hợp gen EML4-ALK. Koivunen
và cộng sự (2008) công bố phát hiện 8 trường hợp
mang dung hợp gen EML4-ALK thì cả 8 trường
hợp này đều mang đặc điểm mô học của ung thư
biểu mô tuyến [13]. Bên cạnh đó, những trường
hợp ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu
mô tuyến-vảy cũng được ghi nhận. Một nghiên
cứu cộng gộp đã được Li và các cộng sự (2013)
thực hiện dựa trên 9 nghiên cứu trước đó với tổng
cộng 1413 bệnh nhân gồm 988 trường hợp ung
thư biểu mô tuyến và 425 trường hợp không ung
thư biểu mô tuyến, kết quả đã cho thấy ung thư
biểu mô tuyến phổ biến hơn trong các đối tượng
mang dung hợp gen EML4-ALK có ý nghĩa thống
kê [12]. Khi phân tích kỹ hơn về dưới nhóm của
ung thư biểu mô tuyến, các tác giả ghi nhận một
tỷ lệ cao hơn đối với các ung thư biểu mô tuyến
nhú và ung thư biểu mô tuyến chế nhầy. Đặc biệt,
người ta đã ghi nhận những trường hợp ung thư
biểu mô tuyến tế bào nhẫn, loại mô học này phổ
biến hơn ở ung thư biểu mô tuyến dạ dày mà hiếm
khi thấy ở phổi [14].
Dung hợp gen EML4-ALK được xác định
là biến đổi di truyền độc lập với các đột biến
phổ biến đã được ghi nhận trước đó như EGFR,
KRAS. Trên thực tế, một số trường hợp mang
đồng thời nhiều biến đổi di truyền đã được ghi
nhận: Koivunen và cộng sự (2008) thông báo 1
trường hợp ung thư biểu mô tuyến mang đồng
thời dung hợp gen EML4-ALK và đột biến EGFR
[13]. Martelli và cộng sự (2009) lại phát hiện 1
bệnh nhân 54 tuổi, ung thư biểu mô tuyến, mang
đồng thời dung hợp gen EML4-ALK và một đột
biến của gen KRAS [15]. Tuy nhiên, hầu hết các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có sự liên quan
nào giữa biến đổi mang dung hợp gen EML4-
ALK với các đột biến của gen EGFR và KRAS ở
bệnh nhân UTPKTBN. Điều này có một ý nghĩa
rất lớn trong thực hành lâm sàng, nó sẽ giúp các
nhà lâm sàng phân tầng các đối tượng UTPKTBN
trong việc phát hiện các biến đổi di truyền, từ đó
lựa chọn các phương pháp điều trị phù hợp.
15Số 77 (Tháng 6/2014) Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
III. Các xét nghiệm chẩn đoán dung hợp gen
EML4-ALK
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể
phát hiện dung hợp gen EML4-ALK, tuy nhiên
hiện nay có 3 phương pháp được áp dụng dựa
trên giá trị và phạm vi ứng dụng của nó, đó là:
Lai tại chỗ gắn huỳnh quang (Fluorescence In
Situ Hybridization- FISH), PCR sao chép ngược
(Reverse transcriptase-PCR, RT-PCR) và Hóa mô
miễn dịch (Immunohistochemistry, IHC, HMMD)
[4].
Mỗi phương pháp nêu trên đều có những ưu
khuyết điểm riêng của mình, và trong chiến lược
kiếm tìm một phương pháp tối ưu cho việc phát
hiện dung hợp gen EML4-ALK, nhiều nghiên cứu
so sánh vai trò của FISH, RT-PCR và HMMD đã
được thực hiện. Với giá thành rẻ, dễ dàng thực
hiện và việc sử dụng các kháng thể có độ nhậy
và độ đặc hiệu cao, HMMD đã được khuyến cáo
như là phương pháp ban đầu cho việc phát hiện
dung hợp gen EML4-ALK. RT- PCR với độ nhậy
rất cao có thể được sử dụng như một biện pháp
sàng lọc, và việc kết hợp PCR với giải trình tự
gen sẽ giúp các nhà khoa học xác định chính xác
các biến thể của dung hợp gen EML4-ALK. Cuối
cùng, cho đến thời điểm hiện tại, FISH vẫn được
xem là phương pháp tiêu chuẩn và là phương pháp
duy nhất được FDA chứng nhận cho việc phát
hiện dung hợp gen EML4-ALK trên bệnh nhân
UTPKTBN [4], [8], [16].
IV. Điều trị ung thư phổi mang dung hợp gen
EML4-ALK
Trải qua nhiều thử nghiệm lâm sàng, tháng
8 năm 2011, FDA đã chính thức phê duyệt
Crizotinib-một chất ức chế ALK, được chỉ định
điều trị cho BN UTPKTBN mang dung hợp gen
EML4-ALK [17], [18].
Một nghiên cứu đăng trên tạp chí New
England Journal of Medicine, thực hiện trên 82
bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ mang
dung hợp gen EML4-ALK được điều trị bằng
Crizotinib trong khoảng thời gian trung bình là
6,4 tháng. Kết quả có 47/82 (57%) bệnh nhân đáp
ứng với điều trị (46 bệnh nhân đáp ứng một phần,
1 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn), 27/82 (33%)
bệnh nhân được đánh giá ổn định sau điều trị [18].
V. Kết luận
Xác định dung hợp gen EML4-ALK trong UTP
không tế bào nhỏ là một hướng tiếp cận mới trong
phương pháp điều trị nhắm trúng đích. Việc FDA
chính thức phê duyệt Crizotinib-một chất ức chế
ALK, được chỉ định điều trị cho bệnh nhân UTP
không tế bào nhỏ mang dung hợp gen EML4-
ALK đã tạo thêm cơ hội điều trị cho căn bệnh
hiểm nghèo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Cancer Society (2011), “Global
Cancer Facts & Figures 2nd Edition”.
2. Brambilla E, Gazdar A (2009),
“Pathogenesis of lung cancer signalling pathways:
roadmap for therapies”, Eur Respir J, 33 (6), pp.
1485-97.
3. Pass HI (2010), “Principles and practice
of lung cancer”, 4th, Lippincott Williams &
Wilkins, Philadelphia, USA.
4. Stahel RA (2012), “Lung Cancer Therapy
“, Annual 7, Informa Healthcare, UK
5. Soda M, Choi YL, Enomoto M, et
16 Số 77 (Tháng 6/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
al.(2007), “Identification of the transforming
EML4-ALK fusion gene in non-small-cell lung
cancer”, Nature, 448 (7153), pp. 561-6.
6. Rikova K, Guo A, Zeng Q, et al. (2007),
“Global survey of phosphotyrosine signaling
identifies oncogenic kinases in lung cancer”, Cell,
131 (6), pp. 1190-203.
7. Horn L, Pao W (2009), “EML4-ALK:
honing in on a new target in non-small-cell lung
cancer”, J Clin Oncol, 27 (26), pp. 4232-5.
8. Sasaki T, Rodig SJ, Chirieac LR, et al.
(2010), “The biology and treatment of EML4-
ALK non-small cell lung cancer”, Eur J Cancer,
46 (10), pp. 1773-80.
9. Palmer RH, Vernersson E, Grabbe C,
et al.(2009), “Anaplastic lymphoma kinase:
signalling in development and disease”, Biochem
J, 420 (3), pp. 345-61.
10. Shaw AT, Solomon B (2011), “Targeting
anaplastic lymphoma kinase in lung cancer”, Clin
Cancer Res, 17 (8), pp. 2081-6.
11. Shaw AT, Yeap BY, Mino-Kenudson M,
et al. (2009), “Clinical features and outcome of
patients with non-small-cell lung cancer who
harbor EML4-ALK”, J Clin Oncol, 27 (26), pp.
4247-53.
12. Li Y, Yang T, Wei S, et al.(2013), “Clinical
significance of EML4-ALK fusion gene and
association with EGFR and KRAS gene mutations
in 208 Chinese patients with non-small cell lung
cancer”, PLoS One, 8 (1), pp. e52093.
13. Koivunen JP, Mermel C, Zejnullahu K, et
al.(2008), “EML4-ALK fusion gene and efficacy
of an ALK kinase inhibitor in lung cancer”, Clin
Cancer Res, 14 (13), pp. 4275-83.
14. Ohba T, Sugio K, Kometani T, et al.(2011),
“Signet ring cell adenocarcinoma of the lung with
an EML4-ALK fusion gene mimicking mucinous
(colloid) adenocarcinoma: a case report”, Lung
Cancer, 73 (3), pp. 375-8.
15. Martelli MP, Sozzi G, Hernandez L,
et al.(2009), “EML4-ALK rearrangement in
non-small cell lung cancer and non-tumor lung
tissues”, Am J Pathol, 174 (2), pp. 661-70.
16. Thunnissen E, Bubendorf L, Dietel
M, et al.(2012), “EML4-ALK testing in non-
small cell carcinomas of the lung: a review with
recommendations”, Virchows Arch, 461 (3), pp.
245-57.
17. Scagliotti G, Stahel RA, Rosell R, et
al.(2012), “ALK translocation and crizotinib in
non-small cell lung cancer: an evolving paradigm
in oncology drug development”, Eur J Cancer, 48
(7), pp. 961-73.
18. Toffart AC, Sakhri L, and Moro-Sibilot
D (2013), “Crizotinib: une thérapeutique ciblant
le réarrangement EML4-ALK chez les patients
porteurs d’un cancer bronchique non à petites
cellules métastatique”, Revue de Pneumologie
clinique, 69 (2), pp. 111-16.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dung_hop_gen_eml4_alk_huong_tiep_can_moi_trong_dieu_tri_nham.pdf