Các hạn chế, khó khăn đối với việc hợp
pháp hóa quyền an tử như hạn chế về văn hóa,
kinh tế và các yếu tố cấu trúc thượng tầng đều
có khả năng cải thiện và khắc phục. Chẳng hạn,
về văn hóa, dù quan niệm coi trọng sự sống của
con người là hết sức tốt đẹp nhưng không vì thế
mà không chấp nhận an tử, bởi chấp nhận an tử
không có nghĩa là không tôn trọng sự sống nữa.
Đây là biện pháp được thực hiện theo những điều
kiện nhất định và với những mục đích nhân đạo.
Do vậy, có thể truyền thống người Việt và người
phương Đông vẫn coi trọng sự sống, tuyệt đối
hóa quyền được sống, nhưng vẫn có thể chấp
nhận quyền an tử nếu người dân hiểu rõ bản chất
của nó. Các nhà quản lý thực hiện các biện pháp
như tuyên truyền, phổ biến kiến thức để an tử
dần đi sâu vào đời sống nhân dân, thay đổi nhận
thức của họ. Về kỹ năng lập pháp, chúng ta có
thể nâng cao năng lực bằng cách mời chuyên gia,
học hỏi kinh nghiệm lập pháp của những nước đã
đi trước trong vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử.
- Quyền an tử là một vấn đề còn khá sớm
để công nhận nhưng không có nghĩa là nhu cầu
hợp pháp hóa quyền an tử không có. Vì giống
như ở các quốc gia trên thế giới, nhu cầu và
những đòi hỏi về quyền được chết êm ả ở nước ta
là có thật, và xét từ góc độ của những bệnh nhân
mắc bệnh nan y thì việc đáp ứng nhu cầu đó cũng
chính là bảo đảm quyền sống theo đúng ý nghĩa
của con người.
- Mặt khác, với việc Hiến pháp 2013
ra đời, trực tiếp ghi nhận quyền sống của con
người,22 thì việc nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi
các quy định liên quan đến quyền này trong hệ
thống pháp luật là một yêu cầu cấp thiết, trong
đó bao gồm cả vấn đề an tử.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 905 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Euthanasia and the matter of legalization of the right to die in Viet Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2020, 14(2), 49-57
Euthanasia and the matter of legalization 
of the right to die in Vietnam
Tran Thi Hien Luong*
Faculty of Political Theory - Law and State Management, Quy Nhon University, Vietnam
Received: 19/02/2020; Accepted: 23/03/2020 
ABSTRACT
The right to die is a legal term referring to the right of a person who has a terminal illness, incurable 
pathology, prolonged suffering or who is facing a lingering death, to end his life with the support of authorized 
organizations. At present, the right to die is still in dispute in many countries, including Vietnam. There are many 
arguments about whether people should have the right to die intentionally to end their own perceived pain and 
suffering. The article contributes to clarifying the nature of euthanasia and presents the author's opinion about the 
legalization of the right to die in Vietnam.
Keywords: Euthanasia, the right to die, legalization of the right to die, Vietnam.
*Corresponding author. 
Email: tranthihienluong@qnu.edu.vn
50
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2020, 14(2), 49-57
An tử và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam
Trần Thị Hiền Lương*
Khoa Lý luận chính trị - Luật và Quản lý Nhà nước, Trường Đại học Quy Nhơn, Việt Nam
Ngày nhận bài: 19/02/2020; Ngày nhận đăng: 23/03/2020
TÓM TẮT
Quyền an tử là một thuật ngữ pháp lý đề cập đến quyền của một người được quyết định kết thúc cuộc sống 
của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền, khi người này mắc bệnh nan y, rơi vào trạng thái bệnh lý không 
có khả năng chữa trị, đau đớn cùng cực hoặc đang đối mặt với một cái chết kéo dài. Hiện nay, quyền an tử vẫn 
còn là vấn đề gây ra khá nhiều tranh cãi ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Có nhiều tranh luận về việc con 
người nên có quyền kết thúc cuộc sống của mình một cách có chủ ý, nhằm được chết êm ả, chấm dứt những sự 
đau đớn. Bài viết góp phần làm rõ bản chất của an tử và trình bày quan điểm của tác giả về vấn đề hợp pháp hóa 
quyền an tử ở Việt Nam. 
Từ khóa: An tử, quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử, Việt Nam.
*Tác giả liên hệ chính. 
Email: tranthihienluong@qnu.edu.vn
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xuất phát từ các vấn đề bệnh tật, nhiều người 
không còn cảm giác muốn tận hưởng cuộc sống. 
Khi ấy, quyền được chết (hay còn gọi là quyền 
an tử) có thể trở thành sự giải thoát nhẹ nhàng đối 
với những người bệnh không có khả năng chữa 
trị, đau đớn kéo dài cùng cực, lựa chọn kết thúc 
cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của bác sĩ theo 
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những vấn đề 
xoay quanh câu chuyện quyền an tử vẫn còn gây 
ra khá nhiều tranh cãi, xuất phát từ tính chất phức 
tạp trong việc xác định ý chí của người bệnh và ý 
định của người trợ giúp, cũng như các vấn đề liên 
quan đến văn hóa, tôn giáo, chính trị.
2. NỘI DUNG
2.1. Quyền an tử theo luật nhân quyền quốc tế 
và pháp luật ở một số quốc gia
2.1.1. Nhận thức về an tử và quyền an tử
Thuật ngữ an tử hay cái chết êm ả (euthanasia) 
có nguồn gốc từ khái niệm euthanatos trong tiếng 
Hy Lạp (trong đó: “eu” là “tốt” và “thanatos” là 
“chết”),1 xuất hiện rất sớm trong lịch sử, khoảng 
thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Hiện nay, chưa 
có một định nghĩa chính thức cho khái niệm này, 
song ở góc độ tổng quát nhất, có thể coi đây là 
hành vi (hành động hay không hành động) trợ 
giúp một người mắc bệnh nan y không có khả 
năng chữa trị được giải thoát khỏi tình trạng sống 
trong đau đớn kéo dài và vô vọng, nghĩa là chủ ý 
chấm dứt cuộc sống của một người mà thường là 
những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa 
theo cách ít hoặc không đau đớn vì những lợi ích 
của người đó).2-3 Ở góc độ y khoa, có hai cách 
thức thực hiện an tử: Một là an tử chủ động (Bác 
sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh 
nhân, chẳng hạn như tiêm thuốc), hai là an tử 
thụ động (Không tiếp tục điều trị, bác sĩ ngưng 
mọi biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân 
theo yêu cầu của bệnh nhân, chẳng hạn như rút 
ống thở). 
Trên thực tế nhiều người thường hay nhầm 
lẫn thuật ngữ an tử với trợ tử, dẫn đến việc họ 
51
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2020, 14(2), 49-57
sử dụng hai thuật ngữ này song song và thay thế 
lẫn nhau. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này có 
sự khác biệt. Cụ thể, dưới sự cho phép của pháp 
luật, sự đồng ý của bệnh nhân cũng như gia đình 
người bệnh, bác sĩ sẽ thực hiện việc kết thúc sự 
sống của người bệnh bằng các biện pháp không 
gây đau đớn. Với an tử, bác sĩ sẽ là người thực 
hiện “hành vi cuối cùng”, thường là với một mũi 
tiêm. Còn đối với trợ tử, bác sĩ sẽ hỗ trợ để bệnh 
nhân tự kết thúc cuộc sống bằng việc kê một liều 
thuốc gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân, 
tuy nhiên, bệnh nhân mới là người đóng vai trò 
chính yếu khi họ là người quyết định có sử dụng 
thuốc để kết thúc cuộc sống hay không.
Đi kèm với an tử là vấn đề “quyền an tử” 
(hay quyền được chết - right to die). Trên lý 
thuyết, quyền của cá nhân về một lĩnh vực nào 
đó chỉ được công nhận và bảo vệ khi nó được 
pháp luật quy định một cách chính thức (hợp 
pháp hóa). Quyền an tử là một quyền thực tế 
nhưng hiện tại chỉ có một số nước hợp pháp hóa 
quyền này. Ở một số nước, theo quan điểm của 
các nhà lập pháp và của các nhà khoa học, quyền 
an tử được hiểu thuộc phạm trù quyền nhân thân. 
Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về quyền an 
tử. Tuy nhiên, nếu dựa vào nội dung quyền an 
tử được đa số quan điểm đồng tình và theo các 
đạo luật về an tử của các nước đã thông qua, có 
thể hiểu quyền an tử là một quyền nhân thân của 
người đã thành niên đang phải chịu sự đau đớn 
về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể 
chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh lý 
không thể cứu chữa,4 được quyết định kết thúc 
cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có 
thẩm quyền và tuân theo các quy định chặt chẽ 
của pháp luật. Hiện nay, quyền an tử vẫn còn là 
vấn đề gây ra khá nhiều tranh cãi ở các quốc gia, 
có nhiều ý kiến ủng hộ và cũng có những quan 
điểm phản đối về quyết định chủ động lựa chọn 
cái chết. Quan điểm ủng hộ quyền an tử cho rằng 
quyền được chết cũng giống như các quyền cơ 
bản khác của con người như quyền được sống, 
quyền tự do, quyền chính trị pháp lý Quyền 
này được xem như một sự lựa chọn thể hiện 
quyền tự quyết định cuộc sống của một người. 
Hơn nữa, chỉ có bệnh nhân mới thực sự biết bản 
thân mình cảm thấy như thế nào, nỗi đau về 
thể xác và tinh thần có thể khiến cuộc sống chỉ 
còn là sự chịu đựng, do đó việc sớm kết thúc sẽ 
khiến họ đỡ dằn vặt hơn về cả thể xác lẫn tâm lý. 
Không chỉ người bệnh mà những người thân của 
họ cũng phải trải qua những cảm xúc bi lụy, buồn 
bã, bởi việc chứng kiến người thân đau đớn cũng 
sẽ khiến những người xung quanh dằn vặt. Tuy 
nhiên, dù cái chết có chủ đích được tạo ra nhằm 
giảm nhẹ sự chịu đựng cho người bệnh, nhưng 
xung quanh câu chuyện này vẫn còn khá nhiều 
tranh luận về các mặt pháp lý, y tế và đạo đức.
2.1.2. Mối quan hệ giữa quyền an tử và pháp luật 
nhân quyền quốc tế 
Luật nhân quyền quốc tế chưa đề cập cụ thể đến 
vấn đề an tử. Song ở cấp châu lục, Nghị viện của 
Hội đồng châu Âu, trong một khuyến nghị đưa ra 
vào năm 1999, đã nêu rằng, các quốc gia thành 
viên cần: “Bảo đảm rằng, trừ khi người bệnh tự 
lựa chọn, tất cả những người bệnh nan y hoặc 
sắp chết đều phải được hưởng các biện pháp 
chăm sóc để làm giảm sự đau đớn, kể cả khi các 
biện pháp đó có thể gây ra tác dụng phụ là làm 
giảm thời gian sống của họ”.5 Ở đây, khuyến 
nghị này hàm ý rằng, việc hỗ trợ ngưng các thiết 
bị điều trị duy trì sự sống của bệnh nhân theo ý 
nguyện của người đó sẽ không bị coi là vi phạm 
quyền sống. Mặc dù vậy, nếu việc này được thực 
hiện với những bệnh nhân không có khả năng thể 
hiện ý chí của mình (ví dụ, sống thực vật) thì sẽ 
bị coi là vi phạm quyền sống.6
Vì quyền an tử chưa được đề cập trong các 
văn bản pháp luật nhân quyền quốc tế, do vậy, đề 
cập đến mối quan hệ giữa quyền an tử và pháp 
luật nhân quyền quốc tế là đề cập tới việc “liệu 
quyền an tử có đi ngược lại với các quyền đã 
được pháp luật nhân quyền quốc tế thừa nhận 
hay không?”
Trong pháp luật nhân quyền quốc tế, tác 
giả cho rằng quyền sống là quyền có mối quan 
hệ gần gũi nhất với quyền an tử. Quyền sống 
không chỉ được quy định trong Tuyên ngôn quốc 
tế nhân quyền (The Universal Declaration of 
52
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2020, 14(2), 49-57
Human Rights, viết tắt UDHR), Công ước quốc 
tế về các quyền dân sự, chính trị (International 
Covenant on Civil and Political Rights, viết tắt 
ICCPR), Công ước về quyền trẻ em 1989 (The 
United Nations Convention on the Rights of the 
Child, viết tắt UNCRC) mà còn được cụ thể 
hóa trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc 
gia với vai trò là “quyền tối cao” của con người. 
Khoản 1 Điều 6 ICCPR quy định: “Mọi người 
đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này 
phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị 
tước mạng sống một cách tùy tiện”. Câu hỏi đặt ra 
là, quyền được sống là quyền cố hữu, nhưng thế 
nào là quyền cố hữu, nó mang tính chất tùy nghi 
hay bắt buộc? Bởi nếu xem quyền được sống là 
bắt buộc, tức chỉ có duy nhất một cách thực hiện 
là phải hưởng thụ quyền mà không được từ bỏ, 
chủ thể của quyền sẽ không có lựa chọn nào khác 
ngoài việc hưởng thụ quyền. Như vậy, ở trường 
hợp này quyền an tử sẽ đi ngược lại với quyền 
sống. Nếu được coi là mang tính tùy nghi, chủ 
thể của quyền sống sẽ có quyền lựa chọn hưởng 
thụ hoặc từ bỏ (tức không hưởng thụ quyền được 
sống). Trong trường hợp này, quyền an tử không 
mâu thuẫn mà song hành với quyền sống.
Quyền con người thứ hai cần được xem 
xét trong mối quan hệ với quyền an tử là quyền 
không bị tra tấn và đối xử nhân đạo. Điều 7 
ICCPR quy định: “Không ai có thể bị tra tấn, đối 
xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo 
hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có 
thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa 
học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người 
đó”. Theo luật nhân quyền quốc tế, một trong 
những yếu tố để xác định tra tấn và những hành 
vi đối xử tồi tệ khác đó là “những đau đớn hoặc 
đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần 
gây ra cho một người”.7 Ngoài ra, về dấu hiệu 
khách quan, hành vi tra tấn, đối xử hay trừng 
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục “không 
chỉ là những hành động gây ra đau đớn về thể 
xác, tinh thần với nạn nhân nhằm mục đích để 
trừng phạt, mà còn nhằm mục đích để giáo dục, 
rèn luyện một đối tượng nào đó, tức là Điều 7 
ICCPR còn có tác dụng bảo vệ trẻ em, học sinh 
và các bệnh nhân trong môi trường giáo dục 
và y tế”.8,9 Vì lẽ đó nên có ý kiến cho rằng việc 
kéo dài sự sống cho những người bệnh không có 
khả năng cứu chữa trong nhiều trường hợp là tra 
tấn và tàn ác, đối xử vô nhân đạo với họ.10 Tuy 
nhiên, theo tác giả, sự liên quan giữa quyền an 
tử và quyền không bị tra tấn và đối xử nhân đạo 
không thực sự cần thiết khi kết luận rằng “kéo 
dài sự sống cho những người bệnh không có khả 
năng cứu chữa là sự tra tấn đối với họ”, bởi vì 
đề cập tới việc “quyền an tử có đi ngược lại với 
các quyền đã được pháp luật nhân quyền quốc tế 
thừa nhận hay không?” thì với quyền không bị 
tra tấn và đối xử nhân đạo, chỉ cần xem xét rằng 
quyền an tử có vi phạm quyền này hay không. 
Theo tác giả thì quyền an tử và quyền nói trên 
không có sự mâu thuẫn. Lý do thứ nhất, nếu xét 
ở góc độ một người bệnh rơi vào trạng thái y tế 
không lối thoát (bị bệnh nan y vô phương cứu 
chữa và đang bị dày vò trong các cơn đau, khổ 
sở, ), để giải phóng nỗi đau cùng cực của bệnh 
nhân thì an tử là một cái chết nhân đạo. Hay nói 
cách khác, việc thực hiện quyền an tử để chấm 
dứt sự sống của mình và cũng là để giải phóng 
nỗi đau cùng cực do bệnh tật, bằng những biện 
pháp y khoa thì đây có thể được xem là một cách 
đối xử nhân đạo hơn với bệnh nhân đó. Họ không 
chối bỏ quyền được sống mà vì họ không còn đủ 
điều kiện đảm bảo sự sống. Thứ hai, các phương 
pháp thực hiện an tử ngày nay là kết quả của một 
quá trình nghiên cứu lâu dài và theo quy định 
chặt chẽ của pháp luật, không tồn tại dưới dạng 
thí nghiệm y học. Thứ ba, điều kiện quan trọng 
để thực hiện an tử là phải xuất phát từ tính chủ 
ý của người bệnh, tức luôn có sự tự nguyện của 
người này, nên hoàn toàn không có tính cưỡng 
ép. Từ những phân tích trên cho thấy, quyền an 
tử về cơ bản không đi ngược lại với quyền không 
bị tra tấn và đối xử nhân đạo.
Quyền thứ ba là quyền riêng tư được quy 
định tại Điều 17 ICCPR: “Không ai bị can thiệp 
một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời 
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị 
xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín” 
và “Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo 
53
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2020, 14(2), 49-57
vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm 
như vậy”. Theo người viết thì có bốn yếu tố để 
xác định an tử, đó là: đối tượng là những người 
không còn khả năng cứu chữa, cách thức thực 
hiện ít hoặc không gây đau đớn, thực hiện vì lợi 
ích của người được an tử và tính chủ ý của người 
bệnh; trong đó tính chủ ý của người bệnh mong 
muốn được giải thoát khỏi cuộc sống bệnh tật 
bằng một cái chết êm ái là yếu tố quan trọng 
nhất, yếu tố này cũng thể hiện được sự tự do ý chí 
của mỗi người, và sự tự do này biểu hiện danh dự 
của họ. Cho nên, quyền riêng tư một mặt khẳng 
định quyền quyết định chấm dứt cuộc sống của 
chính người bệnh, đồng thời đặt ra nghĩa vụ tôn 
trọng quyết định này của các chủ thể khác, trong 
đó bao gồm cả Nhà nước. Bất kỳ hình thức cấm 
đoán nào cũng có thể được coi là sự can thiệp 
hoặc xâm phạm.
Từ mối quan hệ giữa quyền an tử với ba 
quyền trên có thể thấy rằng, tuy chưa được đề 
cập trong các văn bản về quyền con người trên 
phạm vi quốc tế nhưng quyền an tử không đi 
ngược lại với luật nhân quyền quốc tế và có một 
vị trí thích hợp trong hệ thống nhân quyền.
2.1.3. Pháp luật về quyền an tử ở một số quốc gia 
Hiện nay, số lượng các quốc gia đã hợp pháp hóa 
an tử và trợ tử còn rất ít. Tính đến nay, mới chỉ có 
05 quốc gia và vùng lãnh thổ hợp pháp hóa an tử 
gồm: Hà Lan, Bỉ, Albania, Quebec (Canada) và 
Luxembourg; một số quốc gia khác như: Thụy 
Sĩ, Đức, Colombia, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy 
Điển, Vương quốc Anh, Mỹ (ở các bang Oregon, 
Washington, Montana, và Vermont, Colorado và 
California)11  hợp pháp hóa hành vi hỗ trợ an 
tử với những bệnh nhân nan y, kèm theo những 
điều kiện khác nhau. Trong đó, Hà Lan là quốc 
gia đầu tiên công nhận hành vi tự tử dưới sự trợ 
giúp của bác sĩ, sau đó gần 10 năm (năm 2002) 
mới hợp pháp hóa thành Luật An tử.
Có thể thấy số lượng các quốc gia và vùng 
lãnh thổ đã hợp pháp hóa và chưa hợp pháp hóa 
chính thức nhưng có cách nhìn nhận khoan dung 
đối với quyền an tử không nhiều, rất ít các quốc 
gia trên thế giới công nhận quyền này, và tập 
trung hầu hết tại khu vực Bắc Mỹ, châu Âu, châu 
Úc. Ở những nước trên, theo thống kê, số lượng 
các trường hợp đã thực hiện an tử trong những 
năm gần đây tăng lên khá nhiều.12-15 Trong năm 
2017, hơn 13 000 bệnh nhân đã chết thông qua 
một trong hai phương pháp an tử hoặc trợ tử ở các 
quốc gia hợp pháp hóa các hình thức trên. Trong 
10 năm (từ 2007 đến 2017), ở Hà Lan, tỷ lệ người 
chết được thực hiện bởi an tử hoặc trợ tử tăng từ 
1,7% lên 4,5%, ở Bỉ tăng từ 0,5% lên 2,1%.16
Những số liệu trên cho thấy nhu cầu hưởng 
thụ quyền an tử ở các quốc gia đã hợp pháp hóa 
an tử ngày càng tăng. Tuy vậy, sự ủng hộ quyền 
an tử tại châu Á, châu Phi, Nam Mỹ và khu vực 
Trung Đông diễn ra không mạnh mẽ.10 Điều này 
cho thấy hai khía cạnh, một là, con người có nhu 
cầu hưởng thụ quyền an tử mặc dù con số này 
không nhiều; hai là, có khá nhiều mối lo ngại từ 
an tử, phần lớn là do sự không rõ ràng và chặt 
chẽ của pháp luật có thể dẫn đến những hệ quả 
không được dự đoán trước. Một trong những điều 
kiện quan trọng để có thể hợp pháp hóa quyền 
an tử đó là hệ thống pháp luật của nước đó phải 
nghiêm minh, chặt chẽ và đồng bộ. Vì nếu xây 
dựng pháp luật về an tử không toàn diện thì đây 
là điều hết sức nguy hiểm, dễ dẫn đến việc luật bị 
lạm dụng vào mục đích xấu gây nguy hiểm cho 
xã hội. Khi đó, quyền được chết với bản chất là 
quyền nhân thân nhưng sẽ bị biến tướng trở thành 
công cụ để ép buộc một người tìm đến “cái chết 
tự nguyện” để phục vụ lợi ích riêng cho người 
khác. Và việc lợi dụng kẽ hở của pháp luật không 
chỉ dừng lại ở những bệnh nhân bị bệnh nan y 
mà đối tượng còn lan rộng sang nhóm người yếu 
thế khác như người già neo đơn, ốm yếu, người 
bị khuyết tật, thiểu năng trí tuệ Chẳng hạn, 
vì muốn hạn chế chi phí y tế, né tránh nghĩa vụ 
chăm sóc người thân (cha mẹ già khó săn sóc, 
vợ hoặc chồng bị bệnh nan y nhưng vẫn có thể 
chữa trị được,) hoặc mục đích tranh giành tài 
sản, ai đó (con cháu, vợ chồng, cha mẹ) có thể 
cưỡng ép, uy hiếp người thân hoặc sử dụng một 
hành vi gây nhầm lẫn khác (ví dụ lừa dối, giả tạo 
bằng cách thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh án) 
để đề nghị người bệnh ký vào giấy đề nghị an tử 
54
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2020, 14(2), 49-57
hay trợ tử, từ đó giải phóng nghĩa vụ chăm sóc 
người thân trong gia đình hoặc chiếm đoạt tài 
sản. Một số trường hợp sẽ lợi dụng quyền được 
chết và những sơ hở của pháp luật để tiến hành 
giết người có chủ ý mà không sợ bị trừng phạt (ví 
dụ: dùng vũ lực hoặc tình trạng không tỉnh táo 
của bệnh nhân để ép họ ký vào giấy đề nghị an 
tử). Ngoài ra, một số người bệnh sẽ tự chọn cái 
chết thông qua an tử (dù bệnh có thể chữa khỏi) 
để trốn tránh những khoản nợ hoặc lợi dụng kẽ 
hở luật pháp để gian lận bảo hiểm. Ở một góc độ 
khác, một bác sĩ bất tài hoặc vì một sai lầm trong 
chẩn đoán bệnh, bác sĩ này có thể xóa đi dấu vết 
sai lầm về y khoa của chính bản thân mình bằng 
việc lợi dụng thực hiện an tử đối với người bệnh.
2.2. Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam 
2.2.1. Quan điểm của Việt Nam về quyền an tử
Ở Việt Nam, quyền an tử không phải là vấn đề 
quá mới mẻ, vì nó đã được đề cập từ hơn 15 
năm nay. Năm 2004, trong quá trình dự thảo 
sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 1995, Quốc hội đã 
có một buổi thảo luận về những ý kiến đề xuất 
mới trong luật, trong đó có quyền an tử17 (lúc 
này tồn tại dưới tên quyền được chết). Tuy nhiên 
đa số đại biểu cho rằng, đây là một vấn đề nhạy 
cảm, không phù hợp với đạo lý người Á Đông 
hiện nay và không đồng ý với việc hợp pháp hóa 
quyền an tử. Năm 2013, trong quá trình dự thảo 
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), 
quyền an tử cũng được đề cập đến nhưng được 
cho là vấn đề mới, còn nhiều ý kiến tranh luận 
khác nhau không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước 
trên thế giới, nên cần được tiếp tục nghiên cứu.18 
Như vậy, các nhà lập pháp Việt Nam đã 
quan tâm đến vấn đề quyền an tử, tuy nhiên quan 
điểm chung hiện nay ở Việt Nam là: việc hợp 
pháp hóa quyền an tử là vấn đề quá sớm, cần thời 
gian lâu dài để thực hiện. 
2.2.2. Nhu cầu thực tiễn về quyền an tử ở Việt Nam
Tuy chưa có nghiên cứu nào đưa ra số liệu chính 
thức về số lượng bệnh nhân có nhu cầu hưởng 
thụ quyền an tử trên phạm vi toàn quốc, nhưng 
những phản ánh về các trường hợp muốn hưởng 
thụ quyền trên các phương tiện thông tin đại 
chúng từ phía bác sĩ và bệnh nhân đã xuất hiện 
nhiều hơn so với trước kia.19-21 Điều đó cho thấy 
nhu cầu hưởng thụ quyền an tử là có nhưng chưa 
phổ biến, chưa nhận được sự chú ý quan tâm từ 
cộng đồng. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ 
nhận việc con người trong xã hội có nhu cầu 
được an tử mà pháp luật chưa có hành lang pháp 
lý để điều chỉnh đã gây nên nhiều khó khăn cho 
người bệnh cũng như bác sĩ.
Hiện nay, vấn đề quyền an tử lại được bàn 
luận từ nhiều góc độ (luật học, y học, văn hóa,) 
và từ nhiều phía (bác sĩ, bệnh nhân, luật sư,). 
Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu và toàn 
diện về chủ đề này ở Việt Nam vẫn còn ít.
2.2.3. Triển vọng hợp pháp hóa quyền an tử ở 
Việt Nam và một số kiến nghị 
Mặc dù đã từng được nhìn nhận và đưa ra bàn 
luận ở các dự thảo của một số văn bản pháp luật, 
nhưng việc xem xét, tranh luận về quyền an tử 
vẫn diễn ra một cách đơn lẻ, phạm vi nhỏ hẹp. 
Với cách tiếp cận khoa học và thận trọng, tác giả 
đưa ra một số ý kiến sau đây về vấn đề hợp pháp 
hóa quyền an tử ở Việt Nam.
Thứ nhất, thời điểm hiện nay chưa thực 
sự phù hợp để hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt 
Nam, hay nói cách khác còn khá sớm để công 
nhận quyền an tử. Lý giải cho quan điểm trên 
xuất phát từ hai khía cạnh, do tính chất của quyền 
an tử và do đặc trưng của Việt Nam, cụ thể:
- Về kinh tế, Việt Nam là một nước đang 
phát triển, các điều kiện về cơ sở vật chất, kéo 
theo chất lượng chăm sóc, khả năng khám chữa 
bệnh của các cơ sở y tế còn thấp. Hoàn cảnh này 
dễ dẫn đến hệ quả quyền an tử sẽ bị lạm dụng, 
làm sai lệch bản chất và mục đích nhân đạo của 
quyền. Một số người có liên quan sẽ vì mục đích 
xấu, lợi ích kinh tế mà lợi dụng việc này để ép 
buộc an tử, hoặc tiến hành an tử cho những đối 
tượng yếu thế như người già, trẻ khuyết tật
- Về văn hóa, phong tục, tập quán và 
truyền thống Á Đông đã chi phối đến việc tiếp 
cận những vấn đề mới, nhạy cảm có liên quan 
đến tín ngưỡng, văn hóa; một trong số đó là 
55
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2020, 14(2), 49-57
chúng ta luôn coi trọng sự sống con người, quan 
niệm này đã ăn sâu vào gốc rễ tâm hồn mỗi 
người. Ở Việt Nam, nhiều gia đình người bệnh 
vẫn giữ quan niệm “còn nước còn tát” hay “có 
bệnh vái tứ phương” dù đã có kết luận về tình 
trạng y tế không lối thoát và người bệnh đang 
phải sống trong hoàn cảnh đau đớn kéo dài. Do 
đó, vấn đề quyền an tử rất khó để được đông đảo 
người dân chấp nhận.
- Về xã hội, số lượng bệnh nhân có nguyện 
vọng hưởng thụ quyền an tử tại Việt Nam chưa 
nhiều, bởi vấn đề an tử còn mới mẻ ở nước ta, 
nếu chưa từng được nghe đến, biết đến thì sẽ khó 
phát sinh nhu cầu thụ hưởng.
- Về các yếu tố cấu trúc thượng tầng, hệ 
thống pháp luật Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn 
chế, lỏng lẻo, không đồng bộ. Đây là một hạn chế 
rất lớn khi xem xét đến việc hợp pháp hóa quyền 
an tử, bởi đây là vấn đề mang tính nhạy cảm, nếu 
việc quy định không chặt chẽ, rõ ràng sẽ dẫn đến 
dễ bị lạm dụng và để lại hậu quả nặng nề.
Thứ hai, mặc dù điều kiện hiện nay chưa 
cho phép, nhưng theo tác giả, việc triển khai lộ 
trình hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam nên 
được xem xét một cách nghiêm túc, xác định 
được sự cần thiết của vấn đề này và đưa vào thực 
hiện, bởi một số lý do:
- Các hạn chế, khó khăn đối với việc hợp 
pháp hóa quyền an tử như hạn chế về văn hóa, 
kinh tế và các yếu tố cấu trúc thượng tầng đều 
có khả năng cải thiện và khắc phục. Chẳng hạn, 
về văn hóa, dù quan niệm coi trọng sự sống của 
con người là hết sức tốt đẹp nhưng không vì thế 
mà không chấp nhận an tử, bởi chấp nhận an tử 
không có nghĩa là không tôn trọng sự sống nữa. 
Đây là biện pháp được thực hiện theo những điều 
kiện nhất định và với những mục đích nhân đạo. 
Do vậy, có thể truyền thống người Việt và người 
phương Đông vẫn coi trọng sự sống, tuyệt đối 
hóa quyền được sống, nhưng vẫn có thể chấp 
nhận quyền an tử nếu người dân hiểu rõ bản chất 
của nó. Các nhà quản lý thực hiện các biện pháp 
như tuyên truyền, phổ biến kiến thức để an tử 
dần đi sâu vào đời sống nhân dân, thay đổi nhận 
thức của họ. Về kỹ năng lập pháp, chúng ta có 
thể nâng cao năng lực bằng cách mời chuyên gia, 
học hỏi kinh nghiệm lập pháp của những nước đã 
đi trước trong vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử.
- Quyền an tử là một vấn đề còn khá sớm 
để công nhận nhưng không có nghĩa là nhu cầu 
hợp pháp hóa quyền an tử không có. Vì giống 
như ở các quốc gia trên thế giới, nhu cầu và 
những đòi hỏi về quyền được chết êm ả ở nước ta 
là có thật, và xét từ góc độ của những bệnh nhân 
mắc bệnh nan y thì việc đáp ứng nhu cầu đó cũng 
chính là bảo đảm quyền sống theo đúng ý nghĩa 
của con người. 
- Mặt khác, với việc Hiến pháp 2013 
ra đời, trực tiếp ghi nhận quyền sống của con 
người,22 thì việc nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi 
các quy định liên quan đến quyền này trong hệ 
thống pháp luật là một yêu cầu cấp thiết, trong 
đó bao gồm cả vấn đề an tử. 
Thứ ba, một số ít quốc gia và vùng lãnh thổ 
trên thế giới đã hợp pháp hóa quyền an tử, tại các 
quốc gia này, cuộc đấu tranh chính trị - xã hội và 
cả lập pháp phải diễn ra trong một thời gian dài 
thì an tử mới được công nhận là hợp pháp. Điều 
đó cho chúng ta thấy rằng, chấp nhận quyền an 
tử như một quyền nhân thân không phải là vấn đề 
đơn giản. Do đó, triển vọng để an tử được nhiều 
quốc gia công nhận là quyền nhân thân là một 
chặng đường còn khá dài ở phía trước. Nên trong 
tương lai, an tử có thể sẽ được bàn luận nhiều và 
gây tranh cãi ở Việt Nam. Người viết cho rằng, 
dù tương lai còn xa, nhưng để chuẩn bị cho việc 
công nhận quyền an tử tại Việt Nam, thì đất nước 
cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu và sự 
thảo luận rộng rãi, đòi hỏi thêm nhiều công sức 
lao động lập pháp để cụ thể hóa, với những quy 
định đồng bộ, chặt chẽ để loại trừ khả năng lạm 
dụng dẫn tới vi phạm quyền sống của con người. 
Cụ thể, các cơ quan quản lý, cơ quan lập pháp 
và các tổ chức có liên quan cần thực hiện một số 
biện pháp sau:
- Thăm dò ý kiến dư luận và xã hội: Kết 
quả này không chỉ phản ánh chính xác nhu cầu 
và quan điểm của người dân mà còn góp phần 
56
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2020, 14(2), 49-57
phổ biến kiến thức pháp luật mới cho người dân 
trên quy mô rộng với đa dạng thành phần.
- Tuyên truyền, giáo dục về quyền an tử. 
Muốn được đông đảo người dân thừa nhận các 
quy định pháp luật về quyền được chết, chúng 
ta nên bắt đầu bằng cách làm cho mọi người tiếp 
cận những kiến thức về quyền được chết nhiều 
hơn, phổ biến sâu rộng hơn.23
- Tổ chức các buổi tiếp xúc, trao đổi ý 
kiến với những người có mong muốn hưởng thụ 
quyền và gia đình của họ.
- Thống kê số lượng người có nguyện 
vọng hưởng thụ quyền an tử.
- Dự đoán, phân tích những khó khăn 
trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp 
luật về quyền an tử dưới hai góc độ: xã hội và 
pháp luật.
- Nâng cao kỹ thuật và năng lực lập pháp, 
học hỏi kinh nghiệm các quốc gia đã hợp pháp 
an tử hoặc đang trong quá trình hợp pháp hóa.
- Có thể nghiên cứu để bước đầu chỉ thừa 
nhận quyền trợ giúp an tử với những bệnh nhân 
đã trưởng thành mắc những bệnh nan y không 
có hy vọng chữa trị và đang chịu nhiều đau đớn 
về thể chất và tinh thần, đã thể hiện mong muốn 
chấm dứt cuộc sống một cách rõ ràng, chân thực 
và kiên định, sau đó mới hợp pháp hóa quyền 
an tử.
3. KẾT LUẬN 
Hiện nay, quyền an tử là một vấn đề chưa được 
bàn luận nhiều ở Việt Nam, nhận thức của người 
dân về vấn đề này chưa phổ biến và đầy đủ; hơn 
nữa, với những đặc điểm riêng về truyền thống, 
văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ lập pháp, 
thì khả năng công nhận quyền an tử khó xảy ra. 
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không có 
khả năng hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam. 
Với những lập luận ở trên, tác giả cho rằng vấn 
đề hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam nên 
được xem xét nghiêm túc, nghiên cứu chuyên sâu 
để đảm bảo không nằm ngoài dòng chảy chung 
của các quốc gia trên thế giới nhưng vẫn phải 
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Hồng Quang. Bước đầu tìm hiểu vấn đề 
quyền được chết trong bối cảnh hiện nay, trong 
cuốn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các 
quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012.
2. Euthanasia Definitions, <
com /definitions.html>, truy cập ngày 12/02/2019.
3. Gerald Dworkin, R. G. Frey và Sissela Bok. 
Euthanasia and Physician - Assisted Suicide: For 
and Against, Cambridge University Press, 1998.
4. Trương Hồng Quang. Bàn về Quyền được chết 
và vấn đề xây dựng Luật An tử ở Việt Nam, Nhà 
nước và Pháp luật, 2009, (6), 56.
5. Recommendation 1418 (1999): Protection 
of the human rights and dignity of the 
terminally ill and dying, <https://assembly.
coe.int/nw/xml/XRef/Xref-XML2HTML-EN.
asp?fileid=16722&lang=en>, truy cập ngày 
2/12/2019.
6. Douwe Korff. A guide to the implementation of 
Article 2 of the European Convention on Human 
Rights (Human Rights Handbook No.8), 1st 
edition, Council of Europe, Belgium, 2006.
7. Điều 1 Công ước Chống tra tấn (CAT, năm 1984), 
Điều 1 Tuyên bố về Bảo vệ mọi người khỏi bị 
tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn 
ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác (năm 1975), 
< https://vanbanphapluat.co/cong-uoc-chong-
tra-tan-va-cac-hinh-thuc-trung-phat-doi-xu-tan-
ac-vo-nhan-dao-ha-thap-nhan-pham-1984>, và 
<https://luatminhkhue.vn/tuyen-bo-ve-bao-ve-
moi-nguoi-khoi-bi-tra-tan-va-hinh-thuc-doi-xu-
hay-trung-phat-tan-ac--vo-nhan-dao-hay-ha-
nhuc-khac--1975.aspx>, truy cập ngày 4/8/2019.
8. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Bình luận 
chung số 20: Cấm tra tấn, đối xử hoặc trừng 
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục (Điều 
7 ICCPR) của Hội đồng quyền con người Liên 
hợp quốc (UNHRC), trong cuốn: Quyền con 
người - tập hợp những bình luận chung/ Khuyến 
nghị chung của Ủy ban công ước Liên hợp quốc, 
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010.
9. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh 
Tùng. Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền 
57
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2020, 14(2), 49-57
con người, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 
Nxb Chính trị quốc gia, 2009.
10. Nguyễn Mai Chi. Quyền an tử, những vấn đề lý 
luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, 
Đại học quốc gia Hà Nội, 2014.
11. Vũ Công Giao. Quyền an tử theo luật nhân 
quyền quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và 
gợi mở cho Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, 
2016, 4(308).
12. Netherlands Deaths By Euthanasia (2006 
through 2013), < 
netherlandschart.html>, truy cập ngày 17/5/2019.
13. Belgium’s grisly descent down euthanasia’s 
slippery slope, <
com/2013/11/belgiums-grisly-descent-down.
html>, truy cập ngày 17/5/2019.
14. Latest Report on Oregon Death with Dignity 
Act Shows Law Continues to Work As 
Intended < https://www.deathwithdignity.org/
news/2020/03/2019-report-on-oregon-death-
with-dignity-act/>, truy cập ngày 11/3/2020.
15. Washington State Department of Health 
2013 Death with Dignity Act Report 
(Executive Summary), <
wa.gov/portals/1/Documents/Pubs/422-109-
DeathWithDignityAct2013.pdf> , truy cập 
17/5/2019.
16. Gian Domenico Borasio, Ralf J Jox, Claudia 
Gamondi. Regulation of assisted suicide limits 
the number of assisted deaths, The Lancet, 2019, 
393(10175), 982-983.
17. Việt Anh. Quyền được chết, chuyển giới tính có 
đưa vào luật, <
su/quyen-duoc-chet-chuyen-gioi-tinh-co-dua-
vao-luat-2015685.html>, truy cập 17/5/2019.
18. Công Khanh. Chưa quy định “quyền được chết” 
vào Hiến pháp, <
hoi/chua-quy-dinh-quyen-duoc-chet-vao-hien-
phap-652226.tpo>, truy cập 17/5/2019.
19. Dự thảo luật “Cái chết êm ái”: Nhân văn hay trái 
truyền thống đạo đức?, <https://anninhthudo.
vn/van-de-va-du-luan/du-thao-luat-cai-chet-
em-ai-nhan-van-hay-trai-truyen-thong-dao-
duc/521183.antd>, truy cập ngày 2/12/2019.
20. Diệu Linh. Áp dụng “cái chết êm ái” cho 
bệnh nhân: Liệu có gây "bão"?, <https://www.
doisongphapluat.com/doi-song/suc-khoe/ap-
dung-cai-chet-em-ai-cho-benh-nhan-1ieu-co-
gay-bao-a5398.html>, truy cập ngày 2/12/2019.
21. Đỗ Thơm - Hoàng Anh. Khắc khoải sống và 
lối thoát “quyền được chết”, <https://www.
nguoiduatin.vn/khac-khoai-song-va-loi-thoat-
quyen-duoc-chet-a70396.html>, truy cập ngày 
2/12/2019.
22. Điều 19 Hiến pháp 2013, < https://moj.gov.
vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_
detail.aspx?itemid=28814>, truy cập ngày 
20/12/2019.
23. Trương Hồng Quang. Một số vấn đề về Quyền 
được chết đối với quá trình xây dựng Luật An 
tử ở Việt Nam hiện nay, Đề tài đạt giải Cuộc 
thi sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2007, 
35-37.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
euthanasia_and_the_matter_of_legalization_of_the_right_to_di.pdf