Với độ nhạy cao nên PET/CT có thể có giá trị trong
việc đánh giá giai đoạn sớm sau từ 1-3 chu kỳ điều trị
hóa chất. Trong y văn, các nghiên cứu cũng cho rằng,
PET/CT đánh giá sớm đáp ứng sau 3 chu kỳ hóa chất có
giái trị cao trong tiên lượng và quyết định phác đồ điều
trị tiếp theo [3]. Ngay sau 3 chu kỳ hóa chất, nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy có tới 22/38 (57,8%) bệnh nhân
có hình ảnh PET âm tính tương đương với dấu hiệu
đáp ứng hoàn toàn về mặt chuyển hóa. 16/38 (42,2%)
bệnh nhân vẫn còn hình ảnh tổn thương u lympho ác
tính ngoài hạch, trong đó 13/38 bệnh nhân có đáp ứng
một phần với điều trị và 2/38 bệnh nhân xuất hiện thêm
tổn thương mới. Như vậy, tổng số BN có dấu hiệu đáp
ứng với điều trị hóa chất lên tới hơn một nửa nhưng
cũng có 3 bệnh nhân có dấu hiệu tiến triển. Điều này có
ý nghĩa dự báo rất quan trọng tới tiên lượng bệnh sau
khi kết thúc 6 chu kỳ hóa chất. Sau 6 chu kỳ hóa chất,
tất cả những bệnh nhân có hình ảnh PET âm tính sau 3
chu kỳ đều đáp ứng hoàn toàn với điều trị. Bên cạnh đó
những bệnh nhân đáp ứng kém hoặc không đáp ứng
sau 3 chu kỳ thường có bệnh tiến triển và không đáp ứng
với điều trị hóa chất sau 6 chu kỳ. Nghiên cứu Pregno và
cộng sự trên 263 bệnh nhân cũng cho kết quả tương tự
với 60% số bệnh có kết quả PET âm tính sau 3 chu kỳ
hóa chất [7]. Do dựa vào tiêu chuẩn đánh giá về chuyển
hóa đường tại tổn thương, PET đã chỉ ra một số bệnh
nhân đáp ứng sớm và nhiều hơn so với hình ảnh CT,
đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn. Với
công nghệ hiện nay, ngưỡng kích thước tối thiểu của tổn
thương phát hiện được trên PET là 4 mm, tương đương
khối lượng 0,1-0,5g hay số lượng 108 - 109 tế bào. Vì
vậy, sau khi kết thúc điều trị, hình ảnh PET âm tính cho
tiên lượng tốt (số lượng tế bào ác tính chỉ còn từ 107 trở
xuống), ngược lại, PET dương tính dự báo khả năng tổ
chức ung thư còn tồn dư là rất cao. Bên cạnh đó, thời
điểm chụp PET cũng rất quan trọng vì nó phản ánh số
lượng tế bào ung thư bị diệt, từ đó, tiên lượng được khả
năng đáp ứng điều trị ở những thời điểm tiếp theo. Đồng
thời, những thay đổi về chuyển hóa FDG thường nhanh
hơn thay đổi về mặt kích thước tổn thương sau điều trị.
Hạn chế của nghiên cứu này là không thể đối
chiếu tất cả các tổn thương trên PET/CT với mô bệnh
học. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng việc sinh thiết
tất cả các tổn thương là điều không thể. Do đó, kết quả
PET/CT có thể được dùng để theo dõi và tham chiếu
với CT. Đồng thời, số lượng bệnh nhân vẫn còn hạn
chế so với các nghiên cứu khác, chưa chỉ ra được thời
gian sống thêm không bệnh thời gian sống thêm toàn
bộ và mối liên quan giữa thời gian sống thêm và hình
ảnh PET/CT ở thời điểm 3 chu kỳ hóa chất.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu ¹⁸FDG-PET/CT trong đánh giá giai đoạn và đáp ứng điều trị u lympho ác tính không hodgkin ngoài hạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201658
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
*Khoa Y học hạt nhân,
Bệnh viện TƯQĐ 108
Background: the aim of our study to investigate the role
of 18F-FDG PET/CT for extranodal lymphoma non Hodgkin in
staging and treatment response’s assessment.
Methods: In our center, a total of 38 consecutive B-cell non-
Hodgkin extranodal lymphoma patients were newly diagnosed
between December 2013 to January 2016. All these patients
were undergone 18F-FDG PET/CT scan before treatment, after
3- cycle and 6-cycle chemotherapy. The assessment criteria were
followed by modified Ann Aborr for staging and Lugano 2015 for
treatment response.
Results: there were 13.2% of patients in stage IE, 7.9% in
stage II3, 21.1% in stage IIIE and 47.9% ín stage IV. According to
PET/CT staging, 56.2% of patients were upstaging in comparision
to CT and 26.3% of patients have been changed in treatment’s
stratergies. Kappa statistics revealed that CT and PET/CT
showed fair agreement for the detection of extranodal lymphoma.
After 6-cycle chemotherapy, 26/38 patients had no evidence of
residuals or relapse and 7/38 patients showed partial response
and 5/38 patients was in advanced diseases on PET/CT imaging.
The positive and negative PET/CT after 3 cylces chemotherapy
may predicted the treatment’s response after 6 cylces (p=0.4).
Conclusions: 18F-FDG PET/CT has higher value than CT
for staging and important role in assessment of treatment’s
response of extranodal lymphoma non Hodgkin patients.
Key words: non - Hodgkin lymphoma, Positron Emission
Tomography/Computed Tomography, treatment response
assessment.
18FDG-PET/CT TRONG ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN
VÀ ĐÁP ỨNG ĐIỀU TRỊ U LYMPHO ÁC TÍNH
KHÔNG HODGKIN NGOÀI HẠCH
18Flourodeoxyglucose Positron Emission
Tomography/Computer Tomography (18F-FDG PET/CT)
for extranodal non Hodgkin lymphoma in staging and
treatment response assessment
Mai Hồng Sơn*, Lê Ngọc Hà*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của tổ chức ung thư toàn cầu u
lympho ác tính đứng hàng thứ 12 trên thế giới và hàng
thứ 9 tại Việt Nam. Ở Mỹ, u lympho ác tính chỉ chiếm
khoảng 5% trong tất cả các loại ung thư nhưng đã tiêu
tốn hơn 4 tỷ đô la hàng năm cho công tác chẩn đoán và
điều trị bệnh [9]. Sự phát triển của các tổ chức lympho
trong hạch và ngoài hạch có vai trò rất quan trọng.
Theo một số nghiên cứu gần đây, tỷ lệ u lympho ngoài
hạch có chiều hướng gia tăng. Đối với u lympho ác tính
không Hodgkin tỷ lệ u lympho phát triển ở ngoài hạch
lên tới 30%. Sự xuất hiện của u lympho ác tính ở các
cơ quan ngoài hạch là dấu mốc quan trọng để đánh
giá giai đoạn, định hướng điều trị và tiên lượng bệnh.
Nếu u lympho ác tính phát triển thứ phát ở các cơ quan
ngoài hạch, bệnh được xếp vào giai đoạn tiến triển (III
hoặc IV) theo phân loại Ann Aborr cải tiến. Theo nghiên
cứu lớn với gần 100.000 bệnh nhân của Galss và cộng
sự, u lympho ác tính không Hodgkin ở ngoài hạch giai
đoạn III, IV có khả năng tái phát cao với tỷ lệ là 55,8%, u
lympho ác tính không Hodgkin ngoài hạch nguyên phát
giai đoạn I, II có khả năng tái phát thậm chí còn cao hơn
với tỷ lệ là 65-74%. Do đó, đánh giá giai đoạn chính xác
có vai trò quyết định đến điều trị và tiên lượng của bệnh
nhân u lympho ác tính.
Hiện nay, đánh giá giai đoạn bệnh trước điều trị
cũng như đánh giá đáp ứng điều trị bằng chẩn đoán
hình ảnh được các bác sĩ ung thư sử dụng rất phổ biến.
Chụp CT có tiêm thuốc cản quang đã bộc lộ những hạn
chế do chỉ phát hiện được tổn thương hạch hoặc các
cơ quan khi có sự thay đổi về mặt kích thước hay cấu
trúc. Tuy nhiên đối với u lympho ác tính CT chỉ phát
hiện được từ 60-90%. Vai trò MRI khuếch tán vẫn còn
đang được nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, 18FDG-
PET/CT đã được nhiều hội chuyên ngành của Mỹ và
Châu Âu khuyến cáo sử dụng thường quy trong đánh
giá giai đoạn và đáp ứng điều trị trong u lympho ác tính
không Hodgkin hạch và ngoài hạch [5]. Tại Việt Nam,
theo chúng tôi được biết vẫn chưa có nhiều nghiên
cứu đề cập đến vấn đề này. Vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu với hai mục tiêu: so sánh khả năng đánh giá
giai đoạn ban đầu của 18FDG-PET/CT với CT có tiêm
thuốc cản quang và mô tả kết quả đáp ứng điều trị sớm
sau 3 chu kỳ, 6 chu kỳ hóa chất trên hình ảnh PET/CT.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tổng số 60 bệnh nhân (BN) được xác định chẩn
đoán lymphoma Hodgkin tế bào B lớn lan tỏa được
chụp PET/CT tại Bệnh Viện Trung Ương Quân Đội 108
từ tháng 12/2013 đến tháng 1/2016, trong đó 38 bệnh
nhân được chẩn đoán u lympho ác tính không Hodgkin
ngoài hạch đã được lựa chọn vào nghiên cứu. Tất cả
BN được làm các xét nghiêm chẩn đoán hình ảnh thông
thường như CT, siêu âm, X quang ngực, xét nghiệm
huyết thanh... Bệnh nhân được chụp 18F- FDG PET/CT
toàn thân tại các thời điểm trước điều trị, sau điều trị 3
chu kỳ và 6 chu kỳ hóa chất. Phân loại giai đoạn NHL B
trước điều trị được tiến hành theo tiêu chuẩn Ann Aborr
sửa đổi [2] . Đáp ứng điều trị về mặt chuyển hóa được
đánh giá dựa trên hình ảnh 18F-FDG PET/CT theo tiêu
chuẩn của Lugano năm 2015. Đáp ứng điều trị về mặt
giải phẫu, cấu trúc trên CT theo tiêu chuẩn RECIST 1.1
[4].
Quy trình kỹ thuật chụp PET/CT theo hướng dẫn
của Hội Y học hạt nhân Châu Âu năm 2010 [1]. Dược
chất phóng xạ 18F-FDG được sản xuất tại Trung tâm
Cyclotron, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Chụp
PET/CT bằng máy PET/CT Discovery LightSpeed của
hãng GE tại Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108.
Quy trình kỹ thuật chụp 18F-FDG PET/CT. BN nhịn
ăn 6 giờ, uống nước lọc và được kiểm tra glucose máu
trước tiêm 18F-FDG không được vượt quá 11,1 mmol/l.
Tiêm tĩnh mạch 18F-FDG với liều 0,14 - 0,2 mCi/kg.
Tất cả các BN đều được sử dụng thuốc cản quang
Omipaque đường uống. BN nằm trong phòng chờ nghỉ
ngơi, sau 60 phút chụp CT định hướng và chụp CT liều
thấp với các thông số chụp thống nhất: 130 kV, 80-120
mAs, 2,5 mm/lát cắt, pitch 1,6. Tư thế BN nằm ngửa,
hai tay giơ cao ngang đầu. Trường chụp từ nền sọ đến
giữa đùi. Chụp PET toàn thân với tốc độ 2,5 phút một
giường. Hình ảnh CT được tái tạo theo filtered back
projection. Hình ảnh PET được tái tạo 3D và hiệu chỉnh
sự suy giảm bằng CT, sau đó tích hợp với hình ảnh CT.
Hình ảnh PET/CT được trình bày và phân tích trên phần
mềm chuyên dụng Volumetrix của PET-CT trên trạm xử
lý Xeleris 2.15 bao gồm hình ảnh CT, PET và hình ảnh
ghép giữa PET và CT trên các bình diện ngang (axial),
đứng dọc (sagittal) và đứng ngang (coronal) cũng như
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201660
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
hình ảnh 3D động MIP (maximum-intensity-projection).
Kết quả 18F-FDG PET/CT được phân tích và nhất trí bởi
hai bác sỹ y học hạt nhân.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Các
biến định lượng được biểu diễn dưới dạng số trung
bình ± độ lệch chuẩn. Sử dụng Student t-test so sánh
các giá trị trung bình, sử dụng Chi-square test so sánh
các tỷ lệ. Sử dụng hệ số kappa để tính toán sự phù
hợp giữa CT và PET/CT trong chẩn đoán tổn thương
ngoài hạch cũng như sự phù hợp giữa PET/CT sau 3
và 6 chu kỳ hóa chất. Khác biệt chỉ có ý nghĩa thống
kê khi p <0,05.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Một số đặc điểm chung của bệnh nhân trong nghiên cứu
Số lượng (n,%)
Giới Nam 16 (42,1)
Nữ 22 (57,9)
Tổng 38 (100)
Chẩn đoán Tế bào B lớn 32 (84)
Tế bào T 6 (16)
Giai đoạn IE 5 (13,2)
IIE 3 (7,9)
IIIE 8(21,1)
IV 22 (57,9)
Tổng số bệnh nhân trong nghiên cứu là 38, trong đó 57,9% là nam giới. U lympho ác tính không Hodgkin ngoài
hạch trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là ở nhóm tế bào B lớn lan tỏa với tỷ lệ 84%. Sau khi chụp PET/CT
chẩn đoán giai đoạn có tới 79% bệnh nhân ở giai đoạn tiến triển (giai đoạn III, IV).
Bảng 2. Giá trị của FDG-PET/CT so với chẩn đoán hình ảnh thông thường
Thay đổi giai đoạn so với chẩn đoán
bằng CT
Tăng giai đoạn 20/38(52,6%)
Giảm giai đoạn 0
Thay đổi chiến thuật so với chẩn
đoán bằng CT
Thay đổi (hóa trị + xạ trị) 10/38 (26,3%)
Không thay đổi (hóa trị) 28/38 (73,7%)
So với chẩn đoán hình ảnh truyền thống là CT, PET/CT đã làm thay đổi giai đoạn (tăng giai đoạn) ở hơn ½ số
bệnh nhân (52,6%) trong nghiên cứu. Trong đó một nửa số bệnh nhân tăng giai đoạn sau chụp PET/CT được thay
đổi chiến thuật điều trị (hóa trị và xạ trị).
Bảng 3. Đặc điểm vị trí của tổn thương ngoài hạch trên xạ hình PET/CT toàn thân
Vị trí ngoài hạch PET/CT Số lượng CT Số lượng
Xương, tủy xương 14 8
Lách 9 6
Hốc mắt 3 3
Dạ dày 3 3
Đại tràng 2 1
Gan 2 1
Thượng thận 2 1
Não 2 0
Da 1 0
kappa 0,45
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
PET/CT phát hiện được tổn thương ngoài hạch ở nhiều cơ quan khác nhau, nhiều nhất là ở xương và tủy
xương. CT phát hiện được ít hơn so với PET/CT đặc biệt là các tổn thương ở tủy xương, xương, não, da. PET/CT
và CT có sự phù hợp trong chẩn đoán u lympho ác tính ngoài hạch ở mức trung bình kappa=0,45.
Biểu đồ 1. Đánh giá đáp ứng điều trị sớm sau 3 chu kỳ hóa chất, sau 6 chu kỳ hóa chất bằng CT và PET/CT
Sau 3 chu kỳ hóa chất có 22 bệnh nhân không còn tổn thương u lympho ác tính trên PET/CT (tương đương
kết quả PET/CT âm tính). Sau 6 chu kỳ hóa chất toàn bộ số bệnh nhân này đáp ứng hoàn toàn với điều trị và thêm
4 bệnh nhân khác có đáp ứng một phần sau 3 chu kỳ, nâng tổng số bệnh nhân đáp ứng lên thành 26 bệnh nhân.
Trong số 5 bệnh nhân tiến triển sau 6 chu kỳ có 3 bệnh nhân không đáp ứng sau 3 chu kỳ và 2 bệnh nhân đáp ứng
một phần sau 3 chu kỳ. Kết quả PET/CT sau 3 chu kỳ hóa chất có mối liên hệ với kết quả PET/CT sau 6 chu kỳ hóa
chất có xu hướng có ý nghĩa thống kê với p = 0,4.
Bệnh nhân nam 53 tuổi, được chẩn đoán u lympho không Hodgkin tế bào B ở thùy trán phải. Sau đó bệnh nhân
được chụp FDG PET/CT toàn thân để đánh giá giai đoạn trước điều trị và được xếp vào giai đoạn IV. Hình A. Tổn
thương u lympho không Hodgkin tăng chuyển hóa FDG ở não thùy trán phải. Hình B. Tổn thương tăng chuyển hóa
FDG tại nhiều vị trí ở hạch, dạ dày và xương.
A
B
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201662
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bệnh nhân nam 46 tuổi, được chẩn đoán u lympho ác tính ở hốc mắt phải. Sau đó bệnh nhân được chụp FDG-
PET/CT để đánh giá giai đoạn. Trên hình ảnh PET/CT toàn thân, ngoài tổn thương ở hốc mắt phải, PET còn phát
hiện được tổn thương tăng chuyển hóa FDG bất thường, khu trú ở xương ức. Trong khi đó, trên CT không phát hiện
thấy sự bất thường về mặt cấu trúc.
IV. BÀN LUẬN
Bệnh hạch ác tính có thể có tổn thương ở hệ thống
hạch bạch huyết và bất kỳ cơ quan nào ngoài hạch.
PET/CT là xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh chuyển hóa,
chức năng và chụp cắt lớp toàn thân nên thường có giá
trị cao trong việc chẩn đoán giai đoạn trước điều trị trong
nhiều bệnh lý ác tính. Nhiều nghiên cứu trước đây đã
chứng minh FDG PET/CT có độ nhạy, độ đặc hiệu cao
hơn CT chẩn đoán trong đánh giá giai đoạn u lympho ác
tính [8]. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cũng cho rằng CT
không tiêm thuốc cản quang cũng có thể được ứng dụng
để đánh giá giai đoạn và theo dõi bệnh nhân u lympho ác
tính. Trong nghiên cứu này chúng tôi, sử dụng CT không
tiêm thuốc cản quang trong PET để so sánh và đối
chứng với kết quả PET/CT. Nghiên cứu của Shaefer và
cộng sự cho thấy FDG - PET/CT có độ nhạy độ đặc hiệu
lần lượt là 100% và 90% trong phát hiện u lympho ác tính
không Hodgkin ngoài hạch cao hơn so với CT cản quang
(88% và 50%) [8]. Không so sánh độ nhạy, độ đặc hiệu
giữa FDG - PET và CT nhưng nghiên cứu của chúng tôi
đã chỉ ra PET/CT phát hiện thêm tổn thương so với CT
đơn thuần và làm tăng giai đoạn ở 52,6% bệnh nhân so
với CT đơn thuần. Do đó, có tới 26,3% bệnh nhân được
thay đổi chiến thuật điều trị sau chụp PET/CT đánh giá
giai đoạn. Nghiên cứu của Omur và cộng sự cũng cho
thấy PET/CT phát hiện nhiều tổn thương ngoài hạch hơn
so với CT có tiêm thuốc cản quang. Cụ thể là 70% số tổn
thương ngoài hạch được phát hiện thêm so với CT cản
quang sau khi chụp PET/CT, 30% bệnh nhân được thay
đổi giai đoạn nhờ chụp PET/CT [6]. Như vậy, PET/CT có
vai trò rất quan trọng và được áp dụng thường quy để
đánh giá giai đoạn trước điều trị, đặc biệt ở đối tượng
bệnh nhân u lympho ác tính không Hodgkin ngoài hạch.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có một trường hợp u
não, trên MRI nghi ngờ là u tế bào sao. Tuy nhiên, sau
khi sinh thiết tổn thương ở não, hóa mô miễn dịch cho
kết quả là u lympho ác tính không Hodgkin tế bào B lớn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/2016 63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
lan tỏa. PET/CT đã được chỉ định để đánh giá giai đoạn,
nhiều tổn thương ngoài hạch bên cạnh tổn thương ở
thùy thái dương bên trái đã được phát hiện. Bệnh nhân
được chẩn đoán u lympho ác tính không Hodgkin ngoài
hạch giai đoạn II (hình 1). Một trường hợp khác, bệnh
nhân được chẩn đoán u lympho ác tính ở hốc mắt phải.
Bệnh nhân được chụp PET/CT đánh giá giai đoạn trước
điều trị, trên hình ảnh PET tổn thương tăng chuyển hóa
FDG khu trú ở xương ức được phát hiện trong khi đó
trên CT chưa hề có tổn thương về mặt cấu trúc. PET/
CT có ưu điểm là phương pháp kết hợp giữa hình ảnh
chuyển hóa và hình ảnh cấu trúc, đồng thời khảo sát
được các cơ quan toàn thân nên có độ nhạy cao hơn
các phương pháp chẩn đoán về mặt hình thể như CT
và thậm chí cả MRI khuếch tán. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, PET/CT phát hiện được tổn thương ở những
vị trí mà CT không phát hiện được hoặc có thể dễ bị bỏ
qua. Trong số này, các tổn thương ở da và não chỉ được
phát hiện khi chụp PET/CT. Các tổn thương khác như ở
gan, đường tiêu hóa và xương cũng có thể được phát
hiện trên CT. Tuy nhiên một số trường hợp mà u lympho
ác tính chưa có sự biến đổi về mặt cấu trúc thì phải đến
khi chụp FDG-PET/CT tổn thương đó mới được phát
hiện. Đặc biệt những tổn thương ở tủy xương thì PET/
CT có ưu thế hơn hẳn so với CT đơn thuần. Các nghiên
cứu trước đây thường cho thấy, u lympho ác tính không
Hodgkin thường gặp ở các cơ quan ngoài hạch như: mô
mềm, lách và tủy xương. Trong nghiên cứu này, sự phù
hợp kết quả chẩn đoán giữa hai phương pháp CT và
PET/CT chỉ ở mức trung bình. Nghiên cứu với số lượng
bệnh nhân lớn, Omur và cộng sự cho thấy CT cản quang
và PET/CT có độ phù hợp ở mức cao trong chẩn đoán
giai đoạn u lympho ác tính ngoài hạch [6].
Với độ nhạy cao nên PET/CT có thể có giá trị trong
việc đánh giá giai đoạn sớm sau từ 1-3 chu kỳ điều trị
hóa chất. Trong y văn, các nghiên cứu cũng cho rằng,
PET/CT đánh giá sớm đáp ứng sau 3 chu kỳ hóa chất có
giái trị cao trong tiên lượng và quyết định phác đồ điều
trị tiếp theo [3]. Ngay sau 3 chu kỳ hóa chất, nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy có tới 22/38 (57,8%) bệnh nhân
có hình ảnh PET âm tính tương đương với dấu hiệu
đáp ứng hoàn toàn về mặt chuyển hóa. 16/38 (42,2%)
bệnh nhân vẫn còn hình ảnh tổn thương u lympho ác
tính ngoài hạch, trong đó 13/38 bệnh nhân có đáp ứng
một phần với điều trị và 2/38 bệnh nhân xuất hiện thêm
tổn thương mới. Như vậy, tổng số BN có dấu hiệu đáp
ứng với điều trị hóa chất lên tới hơn một nửa nhưng
cũng có 3 bệnh nhân có dấu hiệu tiến triển. Điều này có
ý nghĩa dự báo rất quan trọng tới tiên lượng bệnh sau
khi kết thúc 6 chu kỳ hóa chất. Sau 6 chu kỳ hóa chất,
tất cả những bệnh nhân có hình ảnh PET âm tính sau 3
chu kỳ đều đáp ứng hoàn toàn với điều trị. Bên cạnh đó
những bệnh nhân đáp ứng kém hoặc không đáp ứng
sau 3 chu kỳ thường có bệnh tiến triển và không đáp ứng
với điều trị hóa chất sau 6 chu kỳ. Nghiên cứu Pregno và
cộng sự trên 263 bệnh nhân cũng cho kết quả tương tự
với 60% số bệnh có kết quả PET âm tính sau 3 chu kỳ
hóa chất [7]. Do dựa vào tiêu chuẩn đánh giá về chuyển
hóa đường tại tổn thương, PET đã chỉ ra một số bệnh
nhân đáp ứng sớm và nhiều hơn so với hình ảnh CT,
đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn. Với
công nghệ hiện nay, ngưỡng kích thước tối thiểu của tổn
thương phát hiện được trên PET là 4 mm, tương đương
khối lượng 0,1-0,5g hay số lượng 108 - 109 tế bào. Vì
vậy, sau khi kết thúc điều trị, hình ảnh PET âm tính cho
tiên lượng tốt (số lượng tế bào ác tính chỉ còn từ 107 trở
xuống), ngược lại, PET dương tính dự báo khả năng tổ
chức ung thư còn tồn dư là rất cao. Bên cạnh đó, thời
điểm chụp PET cũng rất quan trọng vì nó phản ánh số
lượng tế bào ung thư bị diệt, từ đó, tiên lượng được khả
năng đáp ứng điều trị ở những thời điểm tiếp theo. Đồng
thời, những thay đổi về chuyển hóa FDG thường nhanh
hơn thay đổi về mặt kích thước tổn thương sau điều trị.
Hạn chế của nghiên cứu này là không thể đối
chiếu tất cả các tổn thương trên PET/CT với mô bệnh
học. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng việc sinh thiết
tất cả các tổn thương là điều không thể. Do đó, kết quả
PET/CT có thể được dùng để theo dõi và tham chiếu
với CT. Đồng thời, số lượng bệnh nhân vẫn còn hạn
chế so với các nghiên cứu khác, chưa chỉ ra được thời
gian sống thêm không bệnh thời gian sống thêm toàn
bộ và mối liên quan giữa thời gian sống thêm và hình
ảnh PET/CT ở thời điểm 3 chu kỳ hóa chất.
V. KẾT LUẬN
18FDG PET/CT có giá trị hơn so với CT đơn thuần
trong chẩn đoán giai đoạn bệnh chính xác, đặc biệt phát
hiện những tổn thương u lympho ngoài hạch. 18F-FDG
PET/CT có khả năng đánh giá sớm kết quả điều trị hóa
chất và định hướng giúp các bác sĩ lâm sàng thay đổi
chiến thuật điều trị phù hợp đối với u lympho ác tính
không Hodgkin ngoài hạch.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 25 - 8/201664
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boellaard R. et al. (2010), “FDG PET and
PET/CT: EANM procedure guidelines for tumour PET
imaging: version 1.0”, Eur J Nucl Med Mol Imaging. 37
(1), pp. 181-200.
2. Cronin C. G. et al. (2010), “Clinical utility of PET/
CT in lymphoma”, AJR Am J Roentgenol. 194 (1), pp.
W91-W103.
3. Haioun C. et al. (2005), “[18F]fluoro-2-deoxy-
D-glucose positron emission tomography (FDG-PET)
in aggressive lymphoma: an early prognostic tool for
predicting patient outcome”, Blood. 106 (4), pp. 1376-1381.
4. Wahl R. L. et al. (2009), “From RECIST to PERCIST:
Evolving Considerations for PET response criteria in solid
tumors”, J Nucl Med. 50 Suppl 1, pp. 122s-150s.
5. Cheson B. D. (2015), “Staging and response
assessment in lymphomas: the new Lugano
classification”, Chin Clin Oncol. 4 (1), pp. 5.
6. Omur O. et al. (2014), “Fluorine-18 fluorodeoxyglucose
PET-CT for extranodal staging of non-Hodgkin and Hodgkin
lymphoma”, Diagn Interv Radiol. 20 (2), pp. 185-192.
7. Pregno P. et al. (2012), “Interim 18-FDG-
PET/CT failed to predict the outcome in diffuse large
B-cell lymphoma patients treated at the diagnosis with
rituximab-CHOP”, Blood. 119 (9), pp. 2066-2073.
8. Schaefer N. G. et al. (2004), “Non-Hodgkin
Lymphoma and Hodgkin Disease: Coregistered FDG PET
and CT at Staging and Restaging—Do We Need Contrast-
enhanced CT?”, Radiology. 232 (3), pp. 823-829.
9. Society. A. C. (2009), “Cancer Facts & Figures”,
008. Available at:
STT/2008CAFFfinalsecured.pdf. Accessed March 11, 2009.
TÓM TẮT
Mục đích: Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu giá trị của 18F-FDG PET/CT trong đánh giá tổn thương trước
điều trị và đáp ứng điều trị hóa chất ở bệnh nhân u lympho không Hodgkin ngoài hạch.
Phương pháp: 38 bệnh nhân u lympho ác tính không - Hodgkin ngoài hạch, tế bào B được lựa chọn vào nghiên
cứu từ tháng 12/2013 đến tháng 1/2016. Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu được chụp 18F-FDG PET/CT toàn thân
tại các thời điểm trước điều trị, sau điều trị hóa chất 3 chu kỳ và 6 chu kỳ. Đánh giá giai đoạn bệnh theo tiêu chuẩn
Ann Aborr sửa đổi và đánh giá mức độ đáp ứng điều trị được dựa trên tiêu chuẩn Lugano.
Kết quả: Đánh giá giai đoạn ban đầu cho thấy có 13,2% bệnh nhân ở giai đoạn IE, 7,9% ở giai đoạn IIE, 21,1%
ở giai đoạn IIIE và có tới 57,9% ở giai đoạn IV. Sau khi chụp PET/CT có 56,2% số bệnh nhân được chẩn đoán tăng
giai đoạn so với CT và 26,3% bệnh nhân được thay đổi chiến thuật điều trị. PET/CT và CT có sự phù hợp trong chẩn
đoán u lympho ác tính ngoài hạch ở mức trung bình kappa=0,45. Sau 6 chu kỳ hóa chất có 26 bệnh nhân đáp ứng
hoàn toàn, 7 bệnh nhân đáp ứng một phần và 5 bệnh nhân tiến triển. Kết quả PET/CT sau 3 chu kỳ hóa chất có mối
liên hệ với kết quả PET/CT sau 6 chu kỳ hóa chất có xu hướng có ý nghĩa thống kê với p = 0,4.
Kết luận: 18F-FDG PET/CT có giá trị hơn CT trong đánh giá giai đoạn trước điều trị ở bệnh nhân u lympho ác
tính ngoài hạch, có vai trò quan trọng trong đánh giá đáp ứng sớm và đánh giá đáp ứng sau 6 chu kỳ hóa chất.
Từ khóa: U lympho ác tính không Hodgkin, ngoài hạch 18F-FDG PET/CT, đánh giá giai đoạn, đáp ứng điều trị
hóa chất.
Người liên hệ: Lê Ngọc Hà; Email: lengocha108@yahoo.com
Ngày nhận bài: 29.6. 2016
Ngày chấp nhận đăng: 20.7.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
fdg_petct_trong_danh_gia_giai_doan_va_dap_ung_dieu_tri_u_lym.pdf