Gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh – thực trạng và giải pháp

Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện chính sách BHXH tại doanh nghiệp, đơn vị, đảm bảo quyền lợi an sinh xã hội cho người lao động. Kịp thời kiến nghị xem xét điều chỉnh, sửa đổi các quy định liên quan đến chính sách bảo hiểm đảm bảo mức đóng góp phù hợp với thu nhập của người lao động, cũng như khả năng thụ hưởng chính sách phù hợp và mở rộng đến mọi đối tượng có nhu cầu chính đáng. Chủ động hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, xây dựng và hoàn thiện các phần mềm nghiệp vụ, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung hướng đến mục tiêu cuối cùng là phục vụ tốt nhất quyền lợi của người tham gia chính sách an sinh xã hội phù hợp với trình độ TTKT Thành phố. Thành phố chủ động chủ động tham mưu, đóng góp để hoàn thiện phương án xử lý nợ BHXH ở các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, giải thể, phá sản, nợ đọng kéo dài để kịp thời giải quyết chế độ, chính sách, bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Thứ tư, Đảng bộ, chính quyền Thành phố tiếp tục hoàn thiện quản lý theo hướng giảm nhẹ bộ máy hành chính, tăng cường phân công, phân cấp quản lý một cách rõ ràng, hợp lý, nâng cao tính chủ động, thẩm quyền và trách nhiệm của quận - huyện nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo của các tổ chức trong quản lý, điều hành và thực hiện các chính sách, chương trình về gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH phải hướng vào khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường nhằm tránh sự đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo, cản trở trong hoạt động. Đồng thời, tăng cường rà soát để loại bỏ các văn bản, chính sách gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH đã không còn phù hợp, gây phiền hà cho dân, tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi tránh chồng chéo nâng cao hiệu lực thi hành của các văn bản pháp quy. Xác định trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 327 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh – thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 61 (01/2019) No. 61 (01/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 52 GẮN KẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Linking economic growth with implementation of social insurance policy in Ho Chi Minh City – Current situations and solutions TS. Nguyễn Minh Trí Trường Đại học Công nghệ TP.HCM Tóm tắt Bài viết tập trung phân tích thực trạng và giải pháp tăng trưởng kinh tế gắn với chính sách bảo hiểm xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong 30 năm đổi mới và hội nhập. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra nguồn lực vật chất để tăng cường đầu tư thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Dựa trên phân tích những thành tựu và hạn chế, bài viết đã đưa ra những giải pháp mang tính định hướng để gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Từ khóa: chính sách bảo hiểm xã hội, tăng trưởng kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh. Abstract This paper aims to analyze the current situations and solutions for the implementation of social insurance policy in Ho Chi Minh City after more than 30 years of renovation and integration. Economic growth has created material resources which can be used to increase investment in social insurance policy in Ho Chi Minh City. However, besides achievements, there still exist many limitations. Based on analysis of the achievements and limitations, the paper suggests better solutions for linking economic growth with implementation of social insurance policy in Ho Chi Minh City in the future. Keywords: social insurance policy, economic growth, Ho Chi Minh City. Mở đầu Trong kinh tế học, tăng trưởng kinh tế (TTKT) là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân hoặc sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nội hàm của tăng trưởng thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của các thời kỳ. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thu nhập thường biểu hiện dưới dạng giá trị, được đo bằng các chỉ tiêu, như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng giá trị sản xuất (GO), thu nhập bình quân đầu người (GDP/người/năm) Nếu Email: gv_nguyenminhtri@yahoo.com.vn NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 53 quy mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập bình quân đầu người cao, thì đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng của tăng trưởng kinh tế. Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, nhằm đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH [7, tr.9], là chính sách tạo ra khả năng ứng phó, tạo sức bật cho lực lượng lao động góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội của quốc gia. Bởi thế, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh: “Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách BHTN cho người lao động” [4, tr.105] và “BHXH và BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống chính sách an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển kinh tế xã hội” [Xem: 5]. Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) nói riêng đang tham gia mạnh mẽ vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Để đảm bảo phát triển bền vững, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH là đòi hỏi vừa cấp thiết vừa có tính dài lâu. Trong mối quan hệ này, TTKT là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách BHXH, chính sách BHXH là công cụ quản lý những rủi ro trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh và người lao động an tâm trong công việc, góp phần đảm bảo công bằng xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nội dung 1. Thực trạng của mối quan hệ giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH ở Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng trong cả nước với diện tích đất tự nhiên lớn nhất cả nước khoảng 2.095,01 km2, chiếm 6,36% diện tích toàn quốc, dân số 8.247.829 người, chiếm khoảng 8,9% dân số cả nước (chưa kể còn khoảng 2 triệu người dân các tỉnh đến Thành phố làm việc, học hành, chữa bệnh). TP.HCM nằm trong tọa độ địa lý khoảng 10o38’ - 11010’ Bắc và 106022’- 106054’ Đông, là vị trí mở, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp với tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang. Với vị trí này, Thành phố có sự gắn kết với các vùng miền của cả nước như với đồng bằng sông Cửu Long - vùng nông sản của cả nước, với Đông Nam Bộ và Tây Nguyên - vùng cây công nghiệp của cả nước, là “cửa ngõ phía Nam của Tổ quốc”. Nhìn một cách tổng thể, TP.HCM là vùng đất hội tụ những tiềm năng, lợi thế, có tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của cả nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong quá trình phát triển và hội nhập, Đảng bộ và nhân dân Thành phố luôn phát phát huy tính năng động, sáng tạo, bản lĩnh trong việc tìm hướng đi thích hợp phù hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương và từng bước vượt qua những khó khăn thách thức, đạt được nhiều thành tựu đáng kể. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 54 Đặc biệt sau ngày “dứt bỏ chiếc áo bao cấp”, tốc độ tăng tăng GDP hàng năm hơn 1,66 lần so với cả nước, hiện chiếm 21,5% tổng GDP cả nước, 30,9% tổng thu ngân sách quốc gia, 21,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, 20,5% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Thành phố chiếm 50,2% tổng GDP; 52,6% tổng thu ngân sách, 44,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, 57,3% tổng vốn đầu tư phát triển [11, tr.281], đóng vai trò trung tâm và là động lực phát triển kinh tế của Vùng và cả nước. Cùng với thành tựu TTKT, chính quyền Thành phố đã giải quyết mối quan hệ giữa TTKT với chính sách BHXH một cách tiến bộ và công bằng trong từng bước đi, từng chính sách phát triển góp, phần đảm bảo an sinh xã hội ở Thành phố. 1.1. Sự tác động của TTKT đối với thực hiện chính sách BHXH ở Thành phố Hồ Chí Minh. Những thành tựu của TTKT ở Thành phố đã tạo ra nguồn lực đầu tư cho con người - chủ thể của quá trình phát triển, thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là chính sách BHXH đảm bảo mọi công dân có quyền được hưởng an sinh xã hội. Thời gian qua, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực chỉ đạo, phối hợp quyết liệt với các sở - ngành, đoàn thể trên địa bàn trong việc triển khai các nghị định của Chính phủ đến doanh nghiệp và người lao động, góp phần mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH. Năm 2009, tốc độ TTKT Thành phố đạt 9,3% với số người tham gia BHXH là 1.457.416 người, năm 2015 TTKT 9,8% số người tham gia BHXH là 1.966.383 người, tăng 8,58% so với năm 2009. Trong năm 2015, số người tham gia BHXH bắt buộc là 1.954.429 người, chiếm khoảng 88,84% tổng số người thuộc diện BHXH bắt buộc. Tỷ lệ tham gia BHXH so với số người trong độ tuổi lao động của thành phố đạt 46,87%. BHXH tự nguyện với hai chế độ hưu trí và tử tuất đã tạo điều kiện cho lao động khu vực phi chính thức tham gia, đặc biệt là cho những người lao động đã từng tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí. Khi mới triển khai (2008), toàn Thành phố có 645 người, nhưng đến năm 2015 đã có tới 11.954 người tham gia (tăng 18,5% so với năm 2008) chiếm 0,3% lực lượng lao động. Như vậy, cùng với tốc độ TTKT cao và ổn định đã tác động đến việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH tăng từ 37% (năm 2008) lên 46,25% (năm 2015). Điều này đã có tác động tích cực đến ổn định cuộc sống của người lao động khi xảy ra biến cố bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường, sức khỏe, an sinh tuổi già và thất nghiệp, từ đó mang lại trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt những lo âu trước những rủi ro, bất trắc cho người tham gia chính sách BHXH. Đến lượt nó, việc thực hiện chính sách BHXH sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 55 Tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ bao phủ BHXH ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2015 Đơn vị: nghìn người Tổng BHXH Tốc độ tăng trưởng kinh tế Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên Tỷ lệ bao phủ Bắt buộc Tự nguyện 2008 1.427.552 10,9% 3.856.500 37,0% 1.426.907 645 2009 1.457.416 9,3% 3.868.500 37,67% 1.456.338 1.078 2010 1.606.918 12,0% 3.909.100 41,06% 1.605.115 1.803 2011 1.720.524 10,3% 4.054.310 42,44% 1.712.813 7.711 2012 1.755.852 9,2% 4.086.420 42,97% 1.746.569 9.283 2013 1.807.575 9,3% 4.165.750 43,39% 1.797.857 9.716 2014 1.883.097 9,6% 4.188.525 44,96% 1872.576 10.521 2015 1.966.383 9,8% 4.251.535 46,25% 1.954.429 11.954 Nguồn: Tính toán của tác giả theo số liệu Báo cáo Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008 - 2015, Niên giám Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh 2015 và số liệu thống kê Sở LĐTB&XH Thành phố Hồ Chí Minh. 1.2. Sự tác động của thực hiện chính sách BHXH đến TTKT ở Thành phố Hồ Chí Minh Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại gương mặt tươi sáng cho sự phát triển toàn diện của đất nước cũng như Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với sự TTKT là sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là chính sách BHXH được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia, góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động, bảo vệ sức khỏe nhân dân và có thể tiếp tục tham gia sản xuất – kinh doanh. Ở góc độ vĩ mô chính sách BHXH với bản chất tái phân SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 56 phối đến được với mọi người dân, gồm cả nhóm xã hội trước kia bị gạt ra ngoài lề, điều này góp phần làm giảm trạng mất trật tự về chính trị - xã hội. Do đó, hoạt động của chính sách BHXH, một mặt đòi hỏi tính trách nhiệm cao của từng người lao động đối với bản thân mình, với gia đình và cộng đồng, xã hội theo phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quyền và nghĩa vụ; mặt khác nó thể hiện sự gắn kết trách nhiệm giữa các thành viên trong xã hội, tạo thành một khối đoàn kết thống nhất về quyền lợi trong một thể chế chính trị - xã hội bền vững. Với ý nghĩa đó, chính sách BHXH là động lực thúc đẩy TTKT bền vững, thể hiện: Chính sách BHXH góp phần tạo sự bình đẳng giữa người lao động trong các thành phần kinh tế. Thời kỳ trước đổi mới, đối tượng tham gia BHXH, bắt buộc chỉ bao gồm những đối tượng trong khu vực nhà nước. Sau đổi mới, Luật BHXH (với hai loại hình bắt buộc và tự nguyện), đã dần mở rộng diện bao phủ với các thành phần kinh tế ngoài nhà nước với độ bao phủ khoảng 46,25% tổng lực lượng lao động ở Thành phố, từ đó đã tạo sự bình đẳng giữa người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận chính sách bảo hiểm, đảm bảo quyền an sinh xã hội. Cùng với việc tăng nhanh đối tượng tham gia, quỹ BHXH cũng tăng nhanh tương ứng (đạt 9.106,7 tỷ đồng (năm 2009) lên 36.450 tỷ đồng (năm 2015). Đây là nguồn lực to lớn để phát triển kinh tế - xã hội, bởi lẽ mục tiêu của quỹ BHXH là để chi trả các chế độ bảo hiểm quy định, nhưng do tính đặc thù của nó là có độ trễ giữa thu và chi do đó luôn tồn tại một phần quỹ nhàn rỗi tương đối. Phần nhàn rỗi này dùng đầu tư vào một số lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và tăng tính bền vững của quỹ. Chính sách BHXH càng hoạt động tốt, quỹ bảo hiểm càng phát triển sẽ góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời sẽ tạo ra sự vững mạnh của nền tài chính quốc gia. Xét về tổng thể, quỹ bảo hiểm tạo ra nguồn cung dồi dào và ổn dịnh cho thị trường tài chính; tạo điều kiện ổn định nền tài chính quốc gia. Mặt khác, khi tham gia vào dòng tài chính quốc gia, quỹ bảo hiểm góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan trọng tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định chính trị - xã hội. Chính sách BHXH là một công cụ đắc lực của Nhà nước thực hiện tái phân phối lại nhập quốc dân. Khi lợi ích từ TTKT lan tỏa đến với mọi đối tượng trong xã hội sẽ làm giảm tình trạng bất ổn về chính trị - xã hội. Phân phối trong BHXH là sự phân phối theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp, là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, có công việc ổn định sang những người ốm yếu, gặp những rủi ro trong cuộc sống. Với ý nghĩa này, chính sách BHXH đã góp phần rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, phát huy nội lực của người lao động tham gia vào sản xuất. Điều này được thể hiện thông qua công tác quản lý và chi trả các chế độ BHXH ở Thành phố là một trong những nhiệm vụ chính của ngành BHXH, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hằng ngày của hàng triệu lao động, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội. Theo số liệu của BHXH Thành phố Hồ Chí Minh, tính NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 57 đến 2015 đã giải quyết chế độ cho 1.391.589 đối tượng thụ hưởng, trong đó, hưởng hàng tháng là 12.262 đối tượng bao gồm: hưu trí: 10.871 đối tượng; tử tuất: 1.289 đối tượng; tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: 79 đối tượng; hưởng theo Quyết định 613 (giải quyết hưởng trợ cấp hàng tháng cho những người có từ đủ 15 đến dưới 20 năm công tác thực tế đã hết hạn hưởng trợ cấp mất sức lao động): 23 đối tượng; hưởng một lần là 87.042 đối tượng; trợ cấp BHXH một lần: 71.810 đối tượng; một lần khi nghỉ hưu: 7.328 đối tượng; tử tuất: 2.903 đối tượng; tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: 61 đối tượng; giải quyết chế độ BHXH ngắn hạn (ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng phục hồi sức khỏe) cho 1.180.524 lượt đối tượng thụ hưởng với số tiền 147,9 tỷ đồng [1, tr.1]. Như vậy, thực hiện gắn kết giữa TTKT với chính sách BHXH ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đóng vai trò quan trọng trong mở rộng đối tượng tham gia, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện tái phân phối lại thu nhập quốc dân phù hợp với tiến trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước xoá bỏ bao cấp và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; góp phần làm cho “nhận thức về trách nhiệm tham gia BHXHcủa các đơn vị sử dụng lao động, của người lao động và các tầng lớp Nhân dân được nâng lên” [3, tr.77], được thể hiện rõ qua việc số người tham gia BHXH tăng nhanh hằng năm; các chế độ BHXH đã được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đầy đủ và thuận lợi cho các đối tượng đối tượng tham gia BHXH ở Thành phố, yếu tố quan trọng tạo nền tảng vững chắc cho họ sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH ở Thành phố còn những hạn chế: 1) “Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành kinh tế còn chậm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng còn thấp, công nghiệp nặng tính gia công” [3, tr.101]; tiềm năng, lợi thế của Thành phố chưa được huy động, khai thác đầy đủ; thu nhập của người lao động còn thấp ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội. Thành tựu về tăng trưởng kinh tế qua hơn ba thập kỷ đã làm cho thu nhập bình quân đầu người hàng năm từ 586 USD (năm 1986) lên 5.538 USD (năm 2015) [3, tr.66], gấp gần 9,5 lần (bình quân chung cả nước năm 2000 là 402 USD/người, 2015 là 2.200 USD/người). Mức tăng GDP bình quân đầu người cao đã tạo nguồn lực vật chất dồi dào cho người dân và Nhà nước thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; 2) Đối với BHXH bắt buộc mặc dù đã quy định mở rộng đối tượng lao động có hợp đồng lao động đủ ba tháng trở lên trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, nhưng trên thực tế số đối tượng tham gia ở Thành phố chiếm khoảng 46,25% lực lượng lao động (tính đến năm 2017, Việt Nam có 13 triệu người bảo hiểm chiếm 28% lực lượng lao động trong tổng 54 triệu người lao động [6, tr.78]). BHXH tự nguyện xét về mặt giá trị xã hội và lợi ích chưa có sự lan tỏa, tạo sự hấp dẫn đối với người lao động tham gia, bởi mức đóng cao chưa phù hợp với thu nhập của người lao động (bằng 20% mức thu nhập do người tham gia lựa chọn) cũng như sự chênh lệch lớn giữa BHXH bắt buộc (5 chế độ) và tự nguyện (2 chế độ) khiến người lao động không muốn tham gia. Như vậy, tỷ lệ bảo phủ BHXH ở Việt Nam nói chung SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 58 và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đang ở mức thấp và đang phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số, cần phải nỗ lực tìm giải pháp. 3) Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về thực hiện TTKT với chính sách BHXH tuy đã được quan tâm đẩy mạnh hơn trước nhưng chưa được sâu rộng, thường xuyên, tình trạng trốn đóng, nợ đọng, chậm đóng bảo hiểm vẫn xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động (số doanh nghiệp chậm đóng BHXH, đã lên tới 40.997 đơn vị, với số tiền hơn 2.753 tỉ đồng (năm 2016). Số nợ tập trung chủ yếu ở doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước (37.191 đơn vị) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (3.065 đơn vị), ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng trăm ngàn người lao động [Xem: 2]). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, trong đó chủ yếu do: 1/ Nhận thức và chính sách: Mặc dù đã có những quy định về tiền lương, tiền công làm căn cứ để đóng bảo hiểm nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp vẫn tìm kẽ hở của chính sách để giảm thiểu trách nhiệm đóng bảo hiểm cho người lao động; còn chênh lệch khá lớn giữa thu nhập thực tế của người lao động tại doanh nghiệp với tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm; 2/ Tổ chức thực hiện gắn kết giữa TTKT với chính sách BHXH của cơ quan quản lý các cấp và một bộ phận cán bộ, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, nhiều nơi coi chính sách BHXH là “cái đuôi” của tăng trưởng kinh tế; ngoài ra, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật về bảo hiểm chưa được quan tâm đúng mức để huy động xã hội tham gia và chế tài xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH với mức xử phạt còn thấp, chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp tuân thủ và việc tiến hành xử phạt sau khi phát hiện còn chậm chưa mang tính răn đe cao. 2. Một số giải pháp mang tính định hướng nhằm gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH ở TP.HCM thời gian tới Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được cũng như hạn chế trong việc thực hiện mối quan hệ giữa TTKT với chính sách BHXH ở TP.HCM, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau: Thứ nhất, trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô phải đảm bảo hài hòa giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH, phải giải quyết từng bước, vững chắc, đồng bộ cả hai mục tiêu TTKT và chính sách BHXH. Tiếp tục khẳng định một cách mạnh mẽ sự cần thiết và tầm quan trọng của việc gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH trong các Nghị quyết Đảng bộ, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Từ đó làm cơ sở vững chắc cho việc xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện gắn kết giữa TTKT với BHXH trong suốt qúa trình phát triển. Nâng cao nhận thức trong tất cả các cấp, các ngành và toàn dân về mối quan hệ giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt là trong các cơ quan hoạch định và triển khai thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Không để những nhận thức sai lầm trong lúc hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế mà quên đi sự cần thiết phải kết hợp hài hòa với các chính sách BHXH. Thứ hai, đa dạng hóa hệ thống BHXH. Tiếp tục mở rộng đối tượng tham NGUYỄN MINH TRÍ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 59 gia BHXH bắt buộc đối với lao động trong khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI. Thành phố cần có cơ chế hỗ trợ BHXH tự nguyện đối với nhóm đối tượng làm việc phi chính thức (chiếm tỷ lệ khá đông khoảng 40% tổng số lao động đang làm việc trên địa bàn Thành phố [8, tr.574), họ không có hợp đồng lao động, làm việc trong môi trường kém an toàn, thu nhập thiếu ổn định. Vì thế, Thành phố cần nghiên cứu, sớm có cơ chế, chính sách hỗ trợ “có điều kiện” để tạo thói quen tham gia BHXH, bổ sung chế độ ngắn hạn đối với chính sách BHXH tự nguyện. Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện chính sách BHXH tại doanh nghiệp, đơn vị, đảm bảo quyền lợi an sinh xã hội cho người lao động. Kịp thời kiến nghị xem xét điều chỉnh, sửa đổi các quy định liên quan đến chính sách bảo hiểm đảm bảo mức đóng góp phù hợp với thu nhập của người lao động, cũng như khả năng thụ hưởng chính sách phù hợp và mở rộng đến mọi đối tượng có nhu cầu chính đáng. Chủ động hơn nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, xây dựng và hoàn thiện các phần mềm nghiệp vụ, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung hướng đến mục tiêu cuối cùng là phục vụ tốt nhất quyền lợi của người tham gia chính sách an sinh xã hội phù hợp với trình độ TTKT Thành phố. Thành phố chủ động chủ động tham mưu, đóng góp để hoàn thiện phương án xử lý nợ BHXH ở các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, giải thể, phá sản, nợ đọng kéo dài để kịp thời giải quyết chế độ, chính sách, bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Thứ tư, Đảng bộ, chính quyền Thành phố tiếp tục hoàn thiện quản lý theo hướng giảm nhẹ bộ máy hành chính, tăng cường phân công, phân cấp quản lý một cách rõ ràng, hợp lý, nâng cao tính chủ động, thẩm quyền và trách nhiệm của quận - huyện nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo của các tổ chức trong quản lý, điều hành và thực hiện các chính sách, chương trình về gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH phải hướng vào khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường nhằm tránh sự đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo, cản trở trong hoạt động. Đồng thời, tăng cường rà soát để loại bỏ các văn bản, chính sách gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH đã không còn phù hợp, gây phiền hà cho dân, tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi tránh chồng chéo nâng cao hiệu lực thi hành của các văn bản pháp quy. Xác định trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là chế độ chịu trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Kết luận Nền kinh tế Việt Nam đã được lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, phát triển Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đặt mục tiêu để phấn đấu TTKT vì con người, vì sự công bằng, tăng trưởng gắn với chính sách BHXH. Mục tiêu của Thành phố đến năm 2020, xây dựng “Thành phố văn minh, hiện đại, nghĩa tình”. Trong thời gian qua đổi mới, phát huy tính năng động, sáng tạo, Chính quyền và Nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, về cơ bản, TTKT ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa thực sự lan tỏa đến được đại bộ phận người dân. Với những giải pháp được đưa ra, chúng tôi mong muốn góp phần tìm ra hướng đi đúng đắn trong việc gắn kết giữa TTKT với thực hiện chính sách BHXH ở SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 61 (01/2019) 60 TP.HCM góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo hiểm xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2016, Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Báo người lao động online (11/12/2016), Không gia hạn thẻ BHYT với các doanh nghiệp nợ bảo hiểm, truy cập han-the-bhyt-voi-cac-doanh-nghiep-no-bao- hiem-20161211214901115.htm 3. Ðảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2012), Nghị Quyết hội nghị TW 5 Khoá XI Về một số vần đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. 6. Cao Nguyên (2017), Mở rộng bao diện bao phủ BHXH: Cần giải pháp đồng bộ và đột phá, Tạp chí Tuyên giáo, số 4, trang 78 - 79. 7. Quốc hội (2014), Luật bảo hiển xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 8. Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Những vấn đề chủ yếu của Văn kiện Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015-2020, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Tuổi trẻ online (24/12/2015), Người dân TP.HCM thọ bình quân 76,2 tuổi. Truy cập từ https://tuoitre.vn/nguoi-dan-tphcm-tho- binh-quan-762-tuoi-1026256.htm 11. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng, phát triển và hội nhập 2015 - Ho Chi Minh City construction, development and integration (Song ngữ Anh-Việt), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 01/08/2018 Biên tập xong: 15/12/2018 Duyệt đăng: 20/01/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgan_ket_tang_truong_kinh_te_voi_thuc_hien_chinh_sach_bao_hie.pdf
Tài liệu liên quan