Suy hô hấp hay thở máy sau mổ là một
trong những biến chứng nặng nề cho tất cả các
BN được phẫu thuật. Một cuộc gây mê lí tưởng
là sau khi người phẫu thuật viên đóng da mũi
cuối cùng, bệnh nhân có thể tự thở qua NKQ và
rút NKQ ngay sau khi bệnh nhân tỉnh táo tại
hậu phẫu. Nếu phải thở máy, hay thở máy kéo
dài có thể làm cho tình trạng bệnh nhân nặng nề
thêm như tắc đàm, viêm phổi, nhiễm khuẩn
bệnh viện, tăng chi phí điều trị Ở những BN
nhược cơ suy hô hấp và phải thở máy sau mổ có
thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như
tình trạng BN trước mổ, độ nhược cơ, vấn đề
điều trị nội khoa, hay các thuốc làm bệnh nặng
nề hơn(9) Theo kết quả nghiên cứu của chúng
tôi, các BN có dùng TDC trong gây mê có tỉ lệ
thở máy cao hơn và thời gian thở máy trung
bình ở hậu phẫu là 56,06 ± 57,98 giờ, cũng kéo
dài hơn so với bệnh nhân KTDC 3,50 ± 133 giờ.
Do đó làm cho thời gian nằm hậu phẫu của
bệnh nhân cũng kéo dài hơn, với thời gian trung
bình nằm hậu phẫu của nhóm 1 là 30,94 ± 34,81
giờ, còn nhóm 2 chỉ là 9,77 ± 9,38 giờ, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này
cũng phù hợp với tác giả Evgenov O.V(4), BN
nhược cơ rất nhạy cảm với thuốc phong bế thần
kinh cơ không khử cực, ngay cả với sử dụng
liều thấp khi khởi mê, vì sẽ dẫn đến mất bảo vệ
đường thở, suy sụp hô hấp. Nhạy cảm với tác
nhân không khử cực đã được mô tả ngay cả ở
những BN bệnh nhẹ nhất (chỉ có triệu chứng ở
mắt)(4), nặng nề hơnở BN có triệu chứng bệnh rõ
rang(8), nhiều trường hợp xảy ra kể cả những BN
không được chẩn đoán qua lâm sàng(9).Dãn cơ
dài tốt nhất nên tránh ở những bệnh nhân này.
Sự mất enzyme cholinesterase do lọc huyết
tương hay sự ức chế gây ra do dùng
pyridostigmine trước mổ có thể ảnh hưởng đến
chuyển hóa của succinylcholine và mivacurium,
dẫn đến phong bế kéo dài, điều này phù hợp
với tác giả Nguyễn văn Chừng và Trần Đỗ Anh
Vũ(7) nên tạo thói quen tránh dùng thuốc dãn cơ
ở BN nhược cơ vì TGHP kéo dài có thể gây ra
nhiều biến chứng nặng nề hơn cho BN.
Tại BV Chợ Rẫy, để gây mê cho PT cắt tuyến
ức qua nội soi, những năm gần đây hầu như
chúng tôi không còn sử dụng TDC. Để dẫn đầu
và duy trì mê chúng tôi có thể dùng
sevoflurane, propofol, hoặc TCI phối hợp với
fentanyl hoặc sufentanil tiêm ngắt quãng hoặc
truyền liên tục quabơm điện đã tạo thuận lợi và
an toàn cho PT, cũng như giảm bớt tai biến và
chi phí sau mổ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 77 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây mê hồi sức trong mổ cắt u tuyến ức điều trị bệnh nhược cơ tại bệnh viện chợ Rẫy từ năm 2004 – 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 32
GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG MỔ CẮT U TUYẾN ỨC ĐIỀU TRỊ
BỆNH NHƯỢC CƠ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TỪ NĂM 2004 – 2012
Phạm Văn Đông*, Nguyễn Thị Thảo Trang*, Võ Hữu Ngoan*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát mối tương quan giữa hai nhóm gây mê cắt tuyến ức có dùng và không dùng thuốc dãn
cơ (TDC) với tỉ lệ suy hô hấp (SHH) sau mổ và thời gian hậu phẫu (TGHP).
Phương pháp: hồi cứu, mô tả có phân tích.
Kết quả: 124 bệnh nhân (BN), chia 2 nhóm. Nhóm 1: 43 BN dùng TDC (34,6%), nhóm 2: 81 BN không
dùng dãn cơ (KTDC) (65,4%). Kết quả sau mổ: thời gian tự thở qua nội khí quản (TGNKQ) trung bình ở nhóm
1 là 21,61 ± 11,40 giờ, ở nhóm 2 là 5,69 ± 5,13 giờ.Tỉ lệ SHH khác nhau giữa 2 nhóm, nhóm 1 SHH là 60%,
nhóm 2 là 7,4%. Thở máy (TM) ở nhóm 1 là 20,9%, nhóm 2 là 7,4%. Thời gian thở máy (TGTM) ở nhóm 1
trung bình 56,06 ± 57,98 giờ, ở nhóm 2 trung bình 3,50 ± 1,33 giờ. Thời gian điều trị tại hậu phẫu (TGHP)
cũng khác biệt giữa 2 nhóm với p<0,001 có ý nghĩa thống kê, ở nhóm 1 trung bình 30,94 ± 34,81 giờ, ở nhóm 2
trung bình 9,77 ± 9,38 giờ. Ngoài ra, các biến số khác có khác nhau nhưng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa 2 nhóm, với p>0,05.
Kết luận: những BN dùng TDC trong gây mê phẫu thuật (PT) cắt tuyến ức qua nội soi có tỉ lệ SHH, TM
và TGHP cao hơn so với bệnh nhân KTDC.
Từ khoá: gây mê, nhược cơ, cắt tuyến ức, thuốc phong bế thần kinh cơ.
ABSTRACT
ANESTHESIA IN THYMECTOMY SURGERY TO TREAT THE MYASTHENIA GRAVIS AT CHO RAY
HOSPITAL FROM 2004 TO 2012.
Pham Van Dong, Nguyen Thi Thao Tran, Vo Huu Ngoan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 32 - 37
Objectives: To investigate the correlate between two groups of the patients that one used the neuromuscular
block drugs, the other didn’t use about the postoperative respiratory failure ratio and time to stay in the recovery
room.
Methods: Retrospective study with descriptions and analyses.
Results: 124 patients divided two groups. The first group used the neuromuscular block drugs (43 patients:
34.6%), the seconds didn’t use them (81 patients: 65.4%). The results: the average time of the spontaneous
ventilation via endotracheal tube in the first one was 21.61 ±11.40 hours, in the seconds is 5.69 ± 5.13 hours. The
postoperative respiratory failure ratio, the first was 60%, the seconds was 7.4%. The number of the postoperative
mechanism ventilatory patients, the first was 20.9%, the seconds was 7.4%. The average time of the post-
operating mechanism ventilation, in the first was 56.06 ± 57.98 hours, in the seconds was 3.50 ±1.33 hours. Time
to stay in the recovery room was also different between two groups, in the first was 30.94 ± 34.81 hours, in the
seconds was 9.77 ± 9.38. Besides, some different signs are different but they didn’t have any statistic means
between two groups, with p >0.05.
Conclusions: Using the neuromuscular block drugs in the anesthesia for endoscopic thymectomy result in
* Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: Bs Phạm Văn Đông, ĐT: 0902919391, email: donghieugmcr@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 33
the respiratory failure, prolonged mechanism ventilation, and the prolonged time to stay in the recovery room.
Key words: Anesthesia, myasthenia gravis, thymectomy, neuromuscular block drugs.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhược cơ là bệnh lý tự miễn, kháng thể trực
tiếp chống lại và phá huỷ thụ thể acetylcholine
sau synape(9). Nhược cơ ảnh hưởng ở bất kì
nhóm tuổi nào và cả hai giới, nữ giới mắc bệnh
nhiều hơn nam. Điểm nổi bật của bệnh là bệnh
sử yếu cơ và mệt mỏi khi vận động, cải thiện khi
nghỉ ngơi.
Tỉ lệ mắc trong dân số là 1/20.000(4), Châu Á
khoảng 40% nhược cơ ở người trẻ và thể mắt
khá phổ biến. Chẩn đoán dựa vào tiền sử lâm
sàng và chẩn đoán xác định khi có sự hiện diện
của kháng thể kháng thụ thể Ach trong huyết
thanh(5). Nguyên nhân khoảng 10% - 15% do u
tuyến ức, 75% do tăng sản nang lympho ở tuyến
ức. Điều trị kháng cholinesterase, ức chế miễn
dịch và PT cắt bỏ tuyến ức. Trong đó, PT cắt
tuyến ức được xem như một phương pháp điều
trị cơ bản đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống điều trị bệnh nhược cơ.
Tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR), PT cắt tuyến
ức qua nội soi đã thực hiện từ năm 2001.
Phương pháp vô cảm cho PT này có thể gây mê
toàn thân, gây tê vùng hay phối hợp gây tê
vùng và gây mê toàn thân(9). Tuy nhiên, theo
khuyến cáo của Rajat Dhar(8) có một số loại
thuốc có thể làm nặng nề hơn sự yếu cơ như
thuốc phong bế thần kinh cơ dùng trong gây
mê.Tuy vậy, về phương diện gây mê hồi sức
chúng ta cũng chưa có nhiều những nghiên cứu
cho vấn đề này.
Với mục tiêu bài này, chúng tôi muốn khảo
sát mối tương quan giữa hai nhóm gây mê có và
KTDC với tỉ lệ SHH sau mổ và TGHP.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu, mô tả có phân tích.
Phương pháp nghiên cứu
Thời gian và địa điểm: tại bệnh viện Chợ
Rẫy, từ tháng 03-2004 đến 06-2012.
Chọn mẫu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả BN nhược cơ độ IIA, IIB (theo phân
loại của Osserman) được gây mê toàn thân trong
PT cắt tuyến ức qua nội soi. Chúng tôi chia
thành 2 nhóm:
Nhóm 1: có sử dụng thuốc dãn cơ.
Nhóm 2: không sử dụng thuốc dãn cơ.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN trước mổ có dùng pyridostigmin liều >
750 mg/ngày, nhược cơ độ I và độ III trở lên,
nhược cơ độ IIA, IIB có bệnh lí kèm theo về
tim mạch, bệnh phổi mạn tính, di chứng tai
biến mạch máu não, có SHH và cơn nhược cơ
trước mổ.
Quy trình nghiên cứu
Khám tiền mê
Đánh giá mức độ nhược cơ và xem xét chế
độ điều trị, Seduxen 5mg uống vào buổi tối
trước ngày PT ở BN chỉ có nhược cơ ở mắt.
Dẫn đầu
Chuẩn bị: monitoring, ECG, huyết áp động
mạch xâm lấn, SpO2, EtCO2, TOF.
Sufentanil tĩnh mạch (TM), hoặc fentanyl
TM
Propofol hoặc sevoflurane dẫn đầu.
Dùng hoặc không dùng: suxamethoniume,
atracurium, rocuronium.
Đặt nội phế quản.
Duy trì
Sevoflurane hoặc isoflurane hoặc sử dụng
TIVA (thuốc mê tĩnh mạch), hoặcTCI.
Sufentanil TM, hoặc fentanyl TM.
Ngưng thuốc mê và thuốc giảm đau khi kết
thúc cuộc mổ, thay ống nội phế quản bằng ống
NKQ cuối cuộc mổ.
Giảm đau sau mổ: tramadol, hoặc perfalgan,
hoặc nisidol.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 34
Theo dõi hậu phẫu (HP): Sinh hiệu, khí máu
động mạch, SpO2, cơn nhược cơ
Các biến số thu thập
Tuổi, giới, độ nhược cơ, mạch, huyết áp,
SpO2. Thời gian: phẫu thuật (TGPT), TGNKQ (từ
lúc mổ xong đến khi rút NKQ), thở máy sau mổ,
thời gian nằm HP (từ lúc mổ xong chuyển sang
HP đến khi chuyển trại), nằm viện (TGNV) (từ
lúc nhập viện đến khi xuất viện), SHH. Dùng
thuốc giảm đau fentanyl, sufentanil, tramadol;
thuốc mê propofol, isoflurane, sevoflurane;
thuốc dãn cơ: suxamethonium, atracurium,
rocoronium.
Xử lý số liệu theo phần mềm SPSS 15.0; các
biến số liên tục có phân phối chuẩn được trình
bày bằng số trung bình ( X ± SD) và độ lệch
chuẩn. Các biến số định tính được trình bày
bằng tần suất và tỉ lệ phần trăm.
KẾT QUẢ
124 BN, có 43 (34,6%)BN dùng TDC và 81
(65,4%) BNKTDC, với tỉ lệ dùng TDC là
suxamethonium 19 bệnh nhân (44,2%),
atracurium 14 bệnh nhân (32,6%), rocuronium
10 BN (23,2 %). Số liệu thu thập cho thấy các
biến số về tuổi, độ nhược cơ, các thuốc dùng
trong gây mê và HP (ngoại trừ TDC), TGPT,
TGNV không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa 2 nhóm, với p >0,05. Các biến số còn lại
như giới, SHH, thời gian còn NKQ, TM, TGTM,
TGHP có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
<0,05. Suốt quá trình gây mê: mạch, huyết áp,
SpO2 ổn định ở tất cả các BN.
Bảng 1. Phân bố tuổi, giới theo hai nhóm
Đặc điểm
Giá trị trung bình ( X ± SD)
Nhóm 1
n = 43 (%)
Nhóm 2
n = 81 (%)
Tổng
n = 124 (%)
p
Tuổi (TB)
Nhỏ nhất
Lớn nhất
30,33±11,07
13
55
34,30±11,65
14
62
32,16±11,23
13
62
0,07
Giới: Nam
Nữ
10 (23,3)
33 (76,7)
27 (33,3)
54 (66,7)
37 (29,8)
87 (70,2)
<
0,001
Nhận xét: Nữ chiếm 70,2% nhiều hơn nam
29,8%, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p
< 0,001. Tuổi trung bình là 32,16 ± 11,23, không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai
nhóm, với p > 0,05.
Bảng 2. Tỉ lệ suy hô hấp giữa hai nhóm
Suy hô hấp Nhóm 1
(n=43)
Nhóm 2
(n=81)
Tổng
(n=124)
p
Có (%)
Không (%)
26 (60,5)
17 (39,5)
6 (7,4)
75 (92,6)
32 (25,8)
92 (74,2)
< 0.001
Nhận xét: Nhóm 1 có tỉ lệ SHH 60,5%, cao
hơn so với nhóm 2 là 7,4%, có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, với p < 0,001.
Bảng 3. Số bệnh nhân phải thở máy giữa hai nhóm
Thở máy Nhóm 1
(n = 43)
Nhóm 2
(n = 81)
p
Có (%)
Không (%)
9 (20,9)
34 (79,1)
6 (7,4)
75 (92,6)
0,028
Nhận xét: Nhóm 1 có tỉ lệ TM là 20,9%, cao
hơn so với nhóm 2 là 7,4%, có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê, với p < 0,05
Bảng 4. Thời gian tự thở qua NKQgiữa hai nhóm
Tự thở có NKQ
(giờ)
Giá trị trung bình ( X ± SD)
Nhóm 1
n = 34
Nhóm 2
n = 75
p
Trung bình
Nhỏ nhất
Lớn nhất
21,61 ± 1,40
5,3
64,5
5,69 ± 5,13
0,5
21,0
< 0,001
Nhận xét: Nhóm 1 có TGNKQ dài hơn so
với nhóm 2, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê,
với p < 0,001.
Bảng 5. Thời gian thở máy giữa hai nhóm
Thời gian TM
(giờ)
Giá trị trung bình ( X ± SD)
Nhóm 1
n = 9
Nhóm 2
n = 6
p
Trung bình
Nhỏ nhất
Lớn nhất
56,06 ± 57,98
4,0
168,0
3,50 ± 1,33
1,5
5,1
0,047
Nhận xét: Nhóm 1 có TGTM dài hơn so với
nhóm 2, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với
p < 0,05.
Bảng 6. Thời gian lưu tại hậu phẫu giữa hai nhóm
Thời gian HP
(giờ)
Giá trị trung bình ( X ± SD)
Nhóm 1
n = 43
Nhóm 2
n = 81
p
Trung bình
Nhỏ nhất
30,94 ± 34,81
6,0
9,77 ± 9,38
2,0
<0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 35
Lớn nhất 192,0 72,0
Nhận xét: Nhóm 1 có TGHP dài hơn so với
nhóm 2, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với
p < 0,001.
BÀN LUẬN
PT cắt tuyến ức là một trong các phương
pháp điều trị bệnh nhược cơ(9), hiệu quả của cắt
tuyến ức làm bệnh thoái lui hoàn toàn trong
70% BN.Tuy nhiên, diễn tiến lâm sàng và đáp
ứng điều trị còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó có những yếu tố làm bệnh càng nặng
nề hơn.Trong nghiên cứu này chúng tôi đã đưa
vào trong tiêu chuẩn loại trừ tất cả các trường
hợp có yếu tố làm nặng thêm bệnh, ngoại trừ
TDC để kết quả khảo sát ít bị ảnh hưởng nhất.
Theo tiêu chuẩn chọn bệnh, gây mê để PT
cắt tuyến ức qua nội soi tại BVCR từ tháng 03 –
2004 đến tháng 06 – 2012 có 126 BN, trong
nghiên cứu này có 124 BN đủ tiêu chuẩn chọn
bệnh, 2 BN bị loại vì một phải mổ lại và một BN
tử vong. Tuổi trung bình ở bệnh nhân trong
nghiên cứu, nhóm 1 là 30,33 ± 11,07, nhóm 2 là
34,30 ± 11,65 và tỉ lệ nữ chiếm nhiều hơn nam ở
cả 2 nhóm (70%: 30%), kết quả này phù hợp với
một số tác giả Oleg V.E và Peter F.D(4), Tomas
C.(9) là bệnh lý này thường gặp ở người trẻ và nữ
chiếm nhiều hơn nam.
Kết quả phân tích thống kê, trong các biến số
thu thập được từ khi bắt đầu gây mê đến khi
chuyển BN sang HP, các biến số sau mổ
nhưTGNKQ,TGTM, TGHP, tỉ lệ SHH, tỉ lệ TM
giữa 2 nhóm có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa
thống kê, với p <0,05. Các biến số còn lại như
tuổi, độ nhược cơ, mạch, huyết áp, SpO2 trong
mổ, TGPT, các thuốc dùng trong gây mê và HP
như: propofol, forane, sevorane, fentanyl,
sufentanil, tramadol phù hợp với đặc điểm dịch
tễ của bệnh và không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa 2 nhóm, với p > 0,05.
Theo lí thuyết, do giảm số lượng thụ thể
tại màng sau synape, những BN nhược cơ
thường tăng nhu cầu đối với các tác nhân khử
cực, phải cần một nồng độ succinylcholine tại
khớp nối thần kinh cơ cao hơn mới phong bế
đủ số lượng thụ thể kể cả các thụ thể đã bị hư
hại. Liều đáp ứng với succinylcholine đo
được ở bệnh nhân nhược cơ cho thấy rằng
liều hiệu quả 95% (ED5) là 0,8 mg/kg, hay
cao hơn 2,6 lần ở những bệnh nhân không
nhược cơ. Liều dẫn đầu nhanh ở bệnh nhân
nhược cơ là 2 mg/kg. Tuy nhiên, thời gian
hoạt động của succinylcholine có thể bị kéo
dài do sự hiện diện của thuốc ức chế men
AchE được sử dụng trong điều trị(4,9). Các
TDC không khử cực rất nhạy cảm với bệnh
nhược cơ do số lượng thụ thể cần phong bế
tại khớp nối thần kinh cơ thấp hơn(9). Trong
nghiên cứu này, nhóm dùng dãn cơ chúng tôi
sử dụng suxamethonium liều 2mg/kg,
atracurium 0,2 mg/kg, rocuronium 0,24 mg/kg
và chúng tôi nhận thấy thời gian lưu ống
NKQ sau mổ kéo dài ở nhóm có dùng TDC
(21,61 ± 11,40 giờ), trong khi đó nhóm KTDC
là 5,69 ± 5,13 giờ, kết quả này phù hợp với
Tomas C.(9). Thực tế, cũng có một số yếu tố
ảnh hưởng đến TGNKQ như do đánh giá chủ
quan của bác sĩ, do bệnh đông, thiếu nhân
lựclàm cho kéo dài thời gian lưu ống NKQ.
Tuy nhiên khảo sát này là hồi cứu nên các yếu
tố ảnh hưởng là ngẫu nhiên giữa 2 nhóm.
Nên tránh dùng các thuốc phong bế thần
kinh cơ trong gây mê PT cắt tuyến ức, mặc dù có
sự hồi phục hoàn toàn của TOF nhưng vẫn
không chắc về sự hồi phục của các cơ hô hấp.(9)
Trong nghiên cứu này, số lượng BN là 124
cũng không phải là số lượng lớn nhưng vẫn có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm,
trong đó chúng tôi thấy rõ ở nhóm 1 tỉ lệ SHH
cao hơn và TGHP kéo dài hơn so với nhóm 2.
Điển hình của nghiên cứu này, ở nhóm 1 tỉ lệ
SHH là 60,5%, trong khi đó ở nhóm 2 chỉ có
7,4%, và tỉ lệ thở máy ở nhóm 1 là 20,9%, còn ở
nhóm 2 chỉ có 7,4%. Điều này cũng phù hợp với
một số tác giả Evgenov O.V and Dunn P.F (4).
Những BN này thường đề kháng với tác nhân
khử cực mặc dù sự thanh thải của Acetylcholine
bị hạn chế bởi pyridostigmine. Những bệnh
nhân này rất nhạy cảm với tác nhân không khử
cực, ngay cả thuốc dãn cơ tác dụng kéo dài như
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 36
pacuronium và ngắn như cistracurium đều có
liên quan đến sự phong bế dai dẳng, kể cả khi
đã sử dụngthuốc hóa giải, yếu cơ vẫn xảy ra sau
mổ. Do đó nên hết sức tránh sử dụng các thuốc
phong bế thần kinh cơ. Điều này phù hợp với
tác giả Mark A. và James B.E(2) kết luận cả hai
loại TDC khử cực và không khử cực đều gây ra
phong bế thần kinh cơ kéo dài.
Suy hô hấp hay thở máy sau mổ là một
trong những biến chứng nặng nề cho tất cả các
BN được phẫu thuật. Một cuộc gây mê lí tưởng
là sau khi người phẫu thuật viên đóng da mũi
cuối cùng, bệnh nhân có thể tự thở qua NKQ và
rút NKQ ngay sau khi bệnh nhân tỉnh táo tại
hậu phẫu. Nếu phải thở máy, hay thở máy kéo
dài có thể làm cho tình trạng bệnh nhân nặng nề
thêm như tắc đàm, viêm phổi, nhiễm khuẩn
bệnh viện, tăng chi phí điều trịỞ những BN
nhược cơ suy hô hấp và phải thở máy sau mổ có
thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như
tình trạng BN trước mổ, độ nhược cơ, vấn đề
điều trị nội khoa, hay các thuốc làm bệnh nặng
nề hơn(9)Theo kết quả nghiên cứu của chúng
tôi, các BN có dùng TDC trong gây mê có tỉ lệ
thở máy cao hơn và thời gian thở máy trung
bình ở hậu phẫu là 56,06 ± 57,98 giờ, cũng kéo
dài hơn so với bệnh nhân KTDC 3,50 ± 133 giờ.
Do đó làm cho thời gian nằm hậu phẫu của
bệnh nhân cũng kéo dài hơn, với thời gian trung
bình nằm hậu phẫu của nhóm 1 là 30,94 ± 34,81
giờ, còn nhóm 2 chỉ là 9,77 ± 9,38 giờ, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Điều này
cũng phù hợp với tác giả Evgenov O.V(4), BN
nhược cơ rất nhạy cảm với thuốc phong bế thần
kinh cơ không khử cực, ngay cả với sử dụng
liều thấp khi khởi mê, vì sẽ dẫn đến mất bảo vệ
đường thở, suy sụp hô hấp. Nhạy cảm với tác
nhân không khử cực đã được mô tả ngay cả ở
những BN bệnh nhẹ nhất (chỉ có triệu chứng ở
mắt)(4), nặng nề hơnở BN có triệu chứng bệnh rõ
rang(8), nhiều trường hợp xảy ra kể cả những BN
không được chẩn đoán qua lâm sàng(9).Dãn cơ
dài tốt nhất nên tránh ở những bệnh nhân này.
Sự mất enzyme cholinesterase do lọc huyết
tương hay sự ức chế gây ra do dùng
pyridostigmine trước mổ có thể ảnh hưởng đến
chuyển hóa của succinylcholine và mivacurium,
dẫn đến phong bế kéo dài, điều này phù hợp
với tác giả Nguyễn văn Chừng và Trần Đỗ Anh
Vũ(7) nên tạo thói quen tránh dùng thuốc dãn cơ
ở BN nhược cơ vì TGHP kéo dài có thể gây ra
nhiều biến chứng nặng nề hơn cho BN.
Tại BV Chợ Rẫy, để gây mê cho PT cắt tuyến
ức qua nội soi, những năm gần đây hầu như
chúng tôi không còn sử dụng TDC. Để dẫn đầu
và duy trì mê chúng tôi có thể dùng
sevoflurane, propofol, hoặc TCI phối hợp với
fentanyl hoặc sufentanil tiêm ngắt quãng hoặc
truyền liên tục quabơm điện đã tạo thuận lợi và
an toàn cho PT, cũng như giảm bớt tai biến và
chi phí sau mổ.
KẾT LUẬN
Để lựa chọn phương pháp vô cảm cho BN
nhược cơ, không có phương pháp nào là tối
ưu,tuy nhiên nên hết sức tránh sử dụng các
thuốc ảnh hưởng đến tình trạng làm nặng nề
thêm bệnh thần kinh cơ, đặc biệt các thuốc dãn
cơ. Chính vì vậy cần nắm vững cơ chế sinh lí
bệnh, căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể, tác
dụng và ảnh hưởng của các thuốc đối với BN
nhược cơ mà người bác sĩ gây mê có sự lựa chọn
phương án tốt nhất cho từng BN, để có được sự
theo dõi đúng mức và tránh những tai biến
đáng tiếc có thể xảy ra, đặc biệt tình trạng suy
hô hấp sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abel M and Eisenkraft J.B (2002). “Anesthetic Implications of
Myasthenia Gravis” Mountsinai journalofe Medicine, pp 33-35.
2. Abel M and Eisenkraft J.B. Anesthetic Implications of
Myasthenia Gravis. Mountsinai Journalof Medicine, pp 31 – 37.
3. Book WJ, Abel M, Eisenkraft JB (1994). Adverse effects of
depolarizing neuromuscular blocking agents. Incidence,
prevention and management. Drug Safety;10:331 – 349.
4. Evgenov O.V and Dunn P.F (2010). Neuromuscular Blockade.
Wilton C. Levine: Clinical Anesthesia Procedures of the
Massachusetts General Hospital, eight edition, pp 165 – 179.
Lippincott Williams & Wilkins, a Wolters Kluwer business,
Philadelphia, USA.
5. Kim JM, Mangold J. (1989) Sensitivity to both vecuronium and
neostigmine in a seronegative myasthenic patient. Br J Anaesth;
63: 497 – 500.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 37
6. Naguib M, el Dawlatly AA, Ashour M, et al. (1996) Multivariate
deter- minants of the need for postoperative ventilation in
myasthe- niagravis. Can. J. Anaesth; 43: 1006 – 1013.
7. Nguyễn Văn Chừng, Trần Đỗ Anh Vũ (2005), “Gây mê hồi sức
trong phẫu thuật cắt u tuyến ức trên bệnh nhân nhược cơ”, Y
học TP HCM, tập 9, phụ bản số 1, tr. 45-50.
8. Rajat Dhar (2012). Neuromuscular Disorders in the Critically III,
The Washington Manual of Critical Care, 2nd edition, pp 470 –
476, Lippincott William & Wikins, a Wolters Kluwer business,
Philadelphia, USA.
9. Tomas C. (2011). Myasthenia Gravis. Essential Clinical
Anesthesia, pp 685 - 688, Cambridge University, USA.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gay_me_hoi_suc_trong_mo_cat_u_tuyen_uc_dieu_tri_benh_nhuoc_c.pdf