Biến chứng và tử vong
Biến chứng
Trong nhóm nghiên cứu 123 BN, có 42 BN có
biến chứng sau mổ chiếm tỷ lệ 34%. Theo kết
quả bảng 5, biến chứng sau mổ xảy ra nhiều
nhất là suy tim cấp 16 BN (13%), rối loạn chức
năng đông máu 12 BN (9,8%), loạn nhịp tim 11
BN (8,9%), viêm phổi 11 BN (8,9%).
Nhìn chung, các biến chứng này có thể là
hậu quả của tình trạng TAP nặng, suy tim nặng,
tổng trạng kém của BN trước mổ, bệnh lý đi
kèm. Khi xảy ra biến chứng này thì tạo thuận lợi
cho diễn tiến các biến chứng khác, làm nặng lên
các biến chứng khác và ngược lại làm cho tình
trạng BN càng ngày càng xấu đi, có thể dẫn đến
suy đa cơ quan và cuối cùng là tử vong.
Tử vong
Tử vong sớm sau mổ hay còn gọi là tử vong
bệnh viện, tử vong PT là tử vong xảy ra trong
vòng 30 ngày sau mổ. Trong nghiên cứu chúng
tôi, tỷ lệ tử vong này là 5,7%, đa số là BN có TAP
nặng trước mổ.
Bằng phương pháp phân tích hồi quy đa
biến trong nghiên cứu 880 BN PT tim bẩm sinh,
tác giả Bando K (1) đã đưa ra nhận xét ALĐMP
trước mổ là yếu tố nguy cơ đối với tử vong bệnh
viện liên quan đến TAP (p<0,001), PT bệnh tim
bẩm sinh ở lứa tuổi càng trễ càng có nguy cơ
TAP sau mổ (p=0,03). Trong nghiên cứu chúng
tôi, các trường hợp tim bẩm sinh có tuổi TB là
31,65 (với 81,4% là thông liên nhĩ), tỷ lệ tử vong
bệnh viện là 4,7% (N=43).
Đối với các trường hợp tim mắc phải với đa
số là bệnh van 2 lá (96,4%), tỷ lệ tử vong PT của
nghiên cứu chúng tôi là 6% (N=83). Tỷ lệ tử vong
PT trong nghiên cứu của tác giả Ernil N (N=51)(4)
là 3,9%, tác giả Cámara ML (N=88)(3)là 5,6%, tác giả
Vincens JJ (N=43)(14)là 11,6%. So với các tác giả khác
thì tỷ lệ tử vong PT của nghiên cứu chúng tôi vẫn
còn cao nhưng có thể chấp nhận được.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây mê hồi sức trong phẫu thuật tim trên bệnh nhân có tăng áp phổi tại bệnh viện chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GÂY MÊ HỒI SỨC TRONG PHẪU THUẬT TIM
TRÊN BỆNH NHÂN CÓ TĂNG ÁP PHỔI TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Phan Thị Thu Yến*, Nguyễn Văn Chừng**
TÓM TẮT
Tăng áp phổi (TAP) là một trong những hậu quả nghiêm trọng trong quá trình tiến triển bệnh lý tim
và vẫn còn là thách thức lớn đối với gây mê hồi sức phẫu thuật tim. TAP là một yếu tố nguy cơ quan trọng
làm tăng tần suất biến chứng và tử vong sau phẫu thuật.
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của gây mê hồi sức trên bệnh nhân phẫu thuật tim có TAP qua việc khảo
sát sự biến đổi của một số chỉ số huyết động học, xác định tần suất các biến chứng chu phẫu và tử vong bệnh
viện.
Bệnh nhân và phương pháp: Hồi cứu mô tả 123 bệnh nhân phẫu thuật tim có TAP tại bệnh viện Chợ
Rẫy từ 03/2005 đến 12/2006. Phương thức gây mê cân bằng phối hợp fentanyl-vecuronium-propofol-
isoflurane, giảm thể tích khí thường lưu (VT=8ml/kg), tăng tần số hô hấp 15-20 lần/phút, đảm bảo cung cấp
đầy đủ oxy với áp lực đường thở thấp, kiềm hóa máu; phối hợp sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim và thuốc
giãn mạch phổi trong và sau mổ. Những chỉ số huyết động được theo dõi bao gồm: mạch, huyết áp động
mạch (HAĐM), CVP, áp lực động mạch phổi (ALĐMP), tỷ lệ ALĐMP TB/HAĐM TB, ALĐMP tâm thu
đánh giá qua siêu âm tim.
Kết quả: Các trị số huyết động học trong và sau mổ ổn định với tỷ lệ sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim
khoảng 63%, thuốc giãn mạch phổi trong mổ, sau mổ lần lượt là 5%, 36%. Đa số các trường hợp có cải
thiện về ALĐMP: trong mổ, sau phẫu thuật, ALĐMP TB giảm 16,6% (p<0,001), tỷ lệ ALĐMP TB/HAĐM
TB giảm 26,4% (p0,05). Sau phẫu
thuật, ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm giảm 51% so với trước mổ (p<0,001). Biến chứng thường gặp
nhất là suy tim cấp. Tỷ lệ tử vong là 5,7%, đa số bệnh nhân có TAP nặng trước mổ.
Kết luận: Phưong thức gây mê hồi sức trên là an toàn và có hiệu quả. Quá trình gây mê và hồi sức đòi
hỏi phải hạn chế, ngăn ngừa, phát hiện sớm và điều trị kịp thời các yếu tố làm TAP. Trong và sau mổ cần
theo dõi sát các trị số huyết động, nhất là tỷ lệ giữa áp lực động mạch phổi và động mạch hệ thống trước và
sau tuần hoàn ngoài cơ thể..
ABSTRACT
ANESTHESIA IN PATIENTS WITH PULMONARY HYPERTENSION
DURING CARDIAC SURGERY AT CHO RAY HOSPITAL
Phan Thi Thu Yen, Nguyen Van Chung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 84 - 92
Background: Pulmonary hypertension (PH), one of the serious consequences of progressive heart
diseases, is still a challenge for cardiac anesthesia. PH is recognised as an important risk factor for increased
morbidity and mortality after cardiac surgery.
Objective: To estimate the efficacy of the techniques of anesthesia on cardiac surgery in cases of PH at
Cho Ray hospital by analysing the peri-operative hemodynamic changes, and evaluating the early morbidity
and mortality.
Material and methods: A retrospective and descriptive study of 123 patients with PH undergoing
* Bệnh viện Chợ Rẫy
** Đại học Y Dược Tp. HCM
cardiac surgery at Cho Ray hospital from March 2005 to December 2006. All pts were carried out a balanced
anesthesia combining fentanyl-vecuronium-propofol-isoflurane, decreasing tidal volume (VT=8ml/kg),
increasing respiratory rate (f=15-20 breaths per minute), alkalising arterial blood gas, using positive
inotropic drugs and pulmonary vasodilators. Hemodynamic data included heart rate, mean arterial pressure
(MAP), mean pulmonary arterial pressure (MPAP), mean pulmonary-to-systemic arterial pressure ratio
(MPAP/MAP) and systolic pulmonary arterial pressure (sPAP) assessed by Doppler echocardiography.
Results: Peri-operative hemodynamic was stable with approximately 63% pts using positive inotropic
drugs peri-operatively; 5%, 36% pts using pulmonary vasodilators operatively and post-operatively,
respectively. Almost of pts had improved in PAP: after CPB, MAP decreased by 16% (p<0.001),
MPAP/MAP decreased by 51% (p<0.001) ; during ICU stay, no significant decrease was observed. After
surgery, sPAP assessed by echocardiography decreased by 51% (p<0.001), The most important complication
was acute heart failure. Hospital mortality was 5.7%, mainly related to severe preoperative PH.
Conclusion: Our techniques of anesthesia is safe and effective. It is mandatory to prevent, detect and
handle the increasing PH factors. Hemodynamic monitoring, especially the mean pulmonary-to-systemic
arterial pressure ratio before and after CPB, is necessary.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng áp phổi (TAP) là một trong những hậu
quả nghiêm trọng của bệnh lý tim không được
quản lý chặt chẽ, phẫu thuật (PT) trễ. Tăng áp
động mạch phổi (TAĐMP) là tình trạng đặc
trưng bởi áp lực động mạch phổi (ALĐMP)
trung bình (TB) > 25mmHg lúc nghỉ ngơi hoặc >
30mmHg lúc vận động(11), kháng lực mạch máu
phổi (KLMMP) tăng tiến triển dần dẫn đến suy
thất phải và tử vong sớm(12). TAP là một yếu tố
nguy cơ quan trọng trong sự tiến triển của
ALĐMP tăng lên và suy tim phải cấp sau tuần
hoàn ngoài cơ thể(6).Suy thất phải thường đi kèm
với kết quả điều trị xấu trong PT tim. Tỷ lệ tử
vong ở bệnh nhân (BN) có tụt huyết áp (HA) kết
hợp với suy giảm chức năng thất phải trầm
trọng sau tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) có
thể tăng lên đến 86%(8).
Trong suốt quá trình PT tim, TAP và những
tác động bất lợi của nó trên tim phải có thể bị nặng
hơn do giảm sản lượng nitric oxide (NO) nội sinh,
sự bảo vệ cơ tim không hoàn hảo trong THNCT,
sự phóng thích các chất co mạch (13). Sự phì đại
động mạch phổi (ĐMP), thứ phát sau những bệnh
tim, khi PT có nguy cơ xảy ra cơn TAP chu phẫu
hoặc ngay sau mổ. Những biện pháp điều trị
thông thường có hiệu quả nhất là thở oxy, khí NO
và sử dụng thuốc prostacycline(7).
Y học thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về
TAP nhưng cho đến nay, tại Việt Nam có rất ít
nghiên cứu về vấn đề này. TAP vẫn còn là thách
thức lớn đối với gây mê hồi sức đặc biệt là trong
PT tim. Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục
đích: đánh giá hiệu quả của gây mê hồi sức trên
BN PT tim có TAP qua việc:
- Khảo sát sự biến đổi của một số chỉ số
huyết động học trước, trong và sau PT.
- Xác định tần suất xảy ra các biến chứng chu
phẫu và tử vong bệnh viện.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gồm 123 BN PT tim tại bệnh
viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 03/2005 đến
12/2006 có ALĐMP tâm thu > 35 mmHg đánh
giá qua siêu âm trước mổ. Loại bỏ các trường
hợp BN có luồng thông phải-trái trong tim,
TAĐMP vô căn và BN < 15 tuổi.
- Trước mổ, tất cả các BN PT tim được khám
tim mạch và gây mê hồi sức.
- Tại phòng mổ, BN được theo dõi liên tục
ECG, HA động mạch (ĐM) xâm lấn, độ bão hòa
oxy mạch nảy (SpO2), áp lực tĩnh mạch trung ương
(CVP), nhiệt độ thực quản, nhiệt độ trực tràng,
nước tiểu; khí máu ĐM, thăng bằng kiềm toan,
dung tích hồng cầu (Hct), ion đồ, đường huyết:
được thực hiện sau khi khởi mê, trong và sau
THNCT; theo dõi ALĐMP liên tục dựa vào
catheter Swan-Ganz hoặc đo trực tiếp tại thân
ĐMP trước và sau THNCT. Khởi mê và duy trì mê
theo phương pháp gây mê phối hợp-cân bằng với
propofol (dẫn đầu 1 - 2mg/kg, duy trì trong thời
gian THNCT 2 - 5 mg/kg/giờ), fentanyl (dẫn đầu
5µg/kg, duy trì 2 - 5µg/kg/giờ), vecuronium (dẫn
đầu 0,1mg/kg, duy trì 0,02 – 0,05 mg/kg/giờ),
isoflurane duy trì trước và sau THNCT với nồng
độ thích hợp. Thông khí thể tích kiểm soát với VT
8ml/kg, tần số thở 15 - 20 lần/phút, duy trì PaCO2
30 - 35mmHg, pH 7,40 - 7,45.
- Đối với những trường hợp TAP nặng tồn tại
trước, trong và sau mổ, ALĐMP tâm thu khoảng
75 - 80% HA tâm thu, BN được cho ngủ yên, giảm
đau tốt với midazolam hoặc propofol, fentanyl,
vecuronium truyền tĩnh mạch (TTM), thở máy với
áp lực đường thở thấp, tăng thông khí (pCO2 25 -
28 mmHg), kiềm hóa máu (pH 7,50 - 7,55) và dùng
thuốc giãn mạch phổi với liều lượng:
+ Dẫn xuất nitrat-Isosorbide dinitrate
(Isoket®): 0,1 - 7 µg/kg/phút TTM.
+ Dẫn xuất prostaglandine-Iloprost TTM
(Ilomedin®): 1 - 2,5 ng/kg/phút TTM.
+ Iloprost phun khí dung (Ventavis®):
25ng/kg/phút trong 10 phút, pha trong dung dịch
NaCl 0,9% thành 4 - 6ml, lập lại mỗi 3 - 4 giờ.
- Huyết động được ổn định bằng dịch truyền
và/hoặc máu và thuốc tăng co bóp cơ tim:
Dopamine, Dobutamine, Adrenaline,
Noradrenaline.
- Đánh giá ALĐMP tâm thu qua siêu âm tim
được thực hiện trước và sau mổ. Mức độ nặng của
TAP được phân chia theo Roldan(10) như sau:
+ TAP nhẹ: 35 ≤ ALĐMP tâm thu ≤ 45 mmHg.
+ TAP trung bình: 45 < ALĐMP tâm thu < 60
mmHg.
+ TAP nặng : ALĐMP tâm thu ≥ 60 mmHg.
Phân tích số liệu bằng phương pháp thống
kê với phần mềm SPSS 13.0, trị số p<0.05 được
xem là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Từ 03/2005-12/2006, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu 123 BN được PT sửa chữa các bệnh
lý tim bẩm sinh và/hoặc mắc phải có TAP tại
bệnh viện Chợ Rẫy.
Bảng 1: Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Tuổi 36,7±11,7 (15-78)
15-30 tuổi 37 (30%)
31-50 tuổi 74 (60%)
51-78 tuổi 12 (10%)
Nữ 80 (65%)
Cân nặng 45,1±8,1 (29-69)
Chỉ số khối cơ thể (BMI) 18,6±2,8 (13-31)
NYHA/WHO* I 2 (1,6%)
II 62 (50,4%)
III 53 (43,1%)
IV 6 (4,9%)
Bệnh tim bẩm sinh (thông liên thất,
thông liên nhĩ, còn ống ĐM)
40 (32,5%)
Bệnh tim mắc phải (bệnh lý van 2 lá,
van ĐM chủ)
80 (65%)
Bệnh tim vừa bẩm sinh vừa mắc phải 3 (2,5%)
Bệnh lý kèm theo
Bệnh gan tim 15 (12,2%)
Bệnh thấp khớp 10 (8,1%)
Rối loạn chuyển hóa lipid 7 (5,7%)
Tai biến mạch máu não 4 (3,3%)
* Phân loại triệu chứng cơ năng của BN theo phân loại
của NYHA đã được WHO điều chỉnh cho BN TAP
Sự thay đổi huyết động học trong và sau
mổ
Với phương thức gây mê cân bằng phối hợp
với điều trị ngay tức khắc các thay đổi huyết
động học bằng các thuốc vận mạch, dùng thuốc
giãn mạch phổi trong trường hợp cần thiết và
điều kiện cho phép, chúng tôi đã duy trì huyết
động trong suốt quá trình gây mê-PT và sau PT
như kết quả sau (Bảng 2).
Bảng 2: Các trị số huyết động học trong và sau mổ
TRONG MỔ SAU MỔ
T0 T1 T2 G0 G1 G4 G8 G12 G16
Tần số tim
(lần/phút)
83,98
± 18,43
83,48
± 15,25
86,78
± 12,38
89,33*
± 19,61
90,59*
± 16,84
92,09*
± 16.78
88,68*
± 14,67
88,01
± 15,20
86,67
± 16,43
TRONG MỔ SAU MỔ
T0 T1 T2 G0 G1 G4 G8 G12 G16
HAĐM TB
(mmHg)
82,79
± 11,33
70,63*
± 7,73
72,75*
± 7,70
78,77*
± 13,17
79,78*
± 10,05
76,84*
± 10,01
77,19*
± 10,78
75,97*
± 10,10
76,41*
± 11,22
CVP
(mmHg)
10,98
± 6,04
9,75*
± 2,86
8,07*
± 3,22
7,92*
± 2,78
7,83*
± 3,29
7,76*
± 3,40
7,93*
± 3,01
8,22*
± 3,01
ALĐMP tâm thu
(mmHg)
72,66
± 21,92
54,93*
± 16,50
50,15*
± 21,81
49,24*
± 17,93
49,71*
± 18,72
48,79*
± 18,67
46,24*
± 17,35
47,33*
± 19,71
ALĐMP tâm
trương (mmHg)
38,03
± 13,21
28,75*
± 9,67
27,38*
± 13,80
27,82*
± 12,68
27,97*
± 13,29
27,24*
± 13,15
26,59*
± 12,66
27,33*
± 13,97
ALĐMP trung
bình (mmHg)
49,57
± 15,21
37,48*
± 11,44
34,58*
± 16,66
34,15*
± 14,09
34,26*
± 14,09
33,68*
± 14,03
32,23*
± 13,29
33,32*
± 14,47
Tỷ lệ ALĐMPTB
/HAĐMTB
0,72
±0,24
0,52*
± 0,18
0,46*
± 0,25
0,42*
± 0,18
0,46*
± 0,21
0,46*
± 0,23
0,45*
± 0,22
0,49*
± 0,36
T0: trước khi gây mê, T1: trước THNCT, T2: sau THNCT, G0:BN vừa chuyển sang phòng hồi sức, G1, G4, G8, G12,
G16: giờ thứ 1, 4, 8, 12, 16 sau mổ.
Các giá trị được trình bày là TB ± độ lệch
chuẩn. Phép kiểm T,*: p<0,05 so với thời điểm
căn bản (T0) hoặc trước THNCT (T1)
Sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim (inotrope)
Tỷ lệ BN dùng inotrope trong và sau mổ
khoảng 63%
45
35
4346
2 9
48
0
10
20
30
40
50
60
K h oâng d uøng Lie àu bình thö ôøng Lieàu ca o
So
á lö
ôïn
g
be
änh
n
ha
ân
TRO N G M O Å
S A U MO Å
Biểu đồ 1: Sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim
Sử dụng thuốc giãn mạch phổi
Tỷ lệ BN dùng thuốc giãn mạch phổi trong
mổ là 5%, sau mổ là 36%.
4 2 0
3 6
1 3
3
0
1 0
2 0
3 0
4 0
Iso so rb i d e
d i n i t rat e
Il o p ro st TTM Il o p ro st k h í
d u n g
So
á lö
ôïn
g
be
änh
n
ha
ân
TR ONG M OÅ
SAU M OÅ
Biểu đồ 2: Loại thuốc giãn mạch phổi sử dụng
So sánh về áp lực động mạch phổi
Trong nhóm nghiên cứu, trong mổ có 34 BN
được đặt catheter Swan-Ganz và 39 trường hợp
được đo ALĐMP trực tiếp bằng cách cắm kim
vào thân ĐMP trước và sau THNCT.
So sánh về ALĐMP TB và tỷ lệ ALĐMP
TB/HA ĐM TB trong và sau mổ (Phép kiểm
T ghép cặp)
Bảng 3: So sánh ALĐMP TB và tỷ lệ ALĐMP
TB/HA ĐM TB trước và sau THNCT
BIẾN SỐ
(N=73)
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
p
ALĐMP TB T1 – ALĐMP TB T2 12,0913 ±
12,4185
<0,001
Tỷ lệ ALĐMP TB / HAĐM TB T1
–
Tỷ lệ ALĐMP TB / HAĐM TB T2
0,1933 ±
0,1958
<0,001
Bảng 4: So sánh ALĐMP TB và tỷ lệ ALĐMP
TB/HA ĐM TB thời điểm sau PT và hồi sức sau mổ
BIẾN SỐ
(N=30)
Trung bình ±
độ lệch chuẩn
p
ALĐMP TB T2 – ALĐMP TB G16 3,3 ± 9.3916 NS
Tỷ lệ ALĐMP TB / HAĐM TB T2 –
Tỷ lệ ALĐMP TB / HAĐM TB G16
0,0335 ±
0,2351
NS
So sánh ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu
âm trước và sau mổ
Trong số 116 BN còn sống sau mổ, ALĐMP
tâm thu đánh giá qua siêu âm kiểm tra sau mổ
TB là 35,95 ± 17,83 (15-95) mmHg, so với
ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm trước mổ
TB là 73,73 ± 23,54 mmHg (N=116) bằng phép
kiểm T, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,001)
0
1 4 .6
2 1 .1
6 4 .2
5 2 .6
1 9 .8 1 9
8 .6
0
1 0
2 0
3 0
4 0
5 0
6 0
7 0
Kho âng
T A ÑMP
T A ÑMP nhe ï T A ÑMP
trung bì nh
T A ÑMP
na ëng
T
y
û le
ä p
h
aàn
t
ra
êm
Trö ô ùc mo å
Sau mo å
Biểu đồ 3: Phân bố BN theo mức độ TAP trước và
sau mổ
Biến chứng sau mổ
Bảng 5: Phân bố biến chứng sau mổ
BIẾN CHỨNG (N=123) TẦN SỐ TỈ LỆ %
Suy tim 16 13,0
Rối loạn chức năng đông máu 12 9,8
Loạn nhịp tim 11 8,9
Viêm phổi 11 8,9
Suy hô hấp 8 6,5
Suy thận cấp 7 5,7
Đặt lại NKQ 6 4,9
Suy gan 5 4,0
Chảy máu sau mổ 5 4,0
Xẹp phổi 4 3,3
Suy đa cơ quan 4 3,3
Tử vong bệnh viện
Trong nhóm nghiên cứu 123 BN, có 7 trường
hợp tử vong (6 BN nữ, 1 BN nam), chiếm tỷ lệ
5,7%. Về đặc điểm bệnh lý tim, có 2 trường hợp
bệnh tim bẩm sinh (tỷ lệ 4,7%, N=43), 5 trường
hợp bệnh tim mắc phải (tỷ lệ 6%, N=83). Về mức
độ TAP, chỉ có 1 BN TAP TB (ALĐMP tâm thu
trước mổ đánh giá qua siêu âm 50mmHg), 6 BN
TAP nặng (ALĐMP tâm thu trước mổ đánh giá
qua siêu âm 65-120mmHg).
BÀN LUẬN
Đặc điểm về gây mê hồi sức
Sự thay đổi huyết động học và các biện pháp
xử trí
Giai đoạn trước tuần hoàn ngoài cơ thể
Mục đích của gây mê trong quá trình PT tim
trên BN có TAP là duy trì huyết động học ổn
định và tránh làm tăng thêm ALĐMP.
Vào giai đoạn khởi mê, việc đặt NKQ gây nên
các kích thích rất mạnh, BN thường có đáp ứng
giao cảm mạnh, biểu hiện mạch nhanh, HA cao và
ALĐMP cũng tăng theo. Do đó, chúng tôi áp dụng
phương thức gây mê cân bằng, phối hợp propofol-
fentanyl-vecuronium, giảm đau và giãn cơ tốt, độ
sâu gây mê đủ và đặt NKQ nhẹ nhàng. Trong lúc
khởi mê, chúng tôi theo dõi HA ĐM xâm lấn liên
tục, dùng thuốc giảm đau và giãn cơ đủ liều, riêng
với thuốc mê TM, chúng tôi dùng liều thăm dò tùy
theo đáp ứng của BN, phát hiện sớm và xử trí kịp
thời các thay đổi huyết động học, tăng thêm thuốc
giảm đau, tăng hoặc giảm liều thuốc mê và/hoặc
sử dụng thuốc vận mạch trước trong và sau khi
đặt NKQ.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn
phối hợp propofol-fentanyl-vecuronium để khởi
mê. Với liều propofol 1-2mg/kg, sau khi khởi mê
và trước THNCT (T1), HA TB so với HA TB căn
bản (T0) giảm 12,16 ± 12,11 (p<0,001), khoảng
14,69% (Bảng 2).
Trong giai đoạn duy trì mê với thở máy
thông khí kiểm soát, mục tiêu của chúng tôi là
đảm bảo cung cấp đầy đủ oxy với áp lực đường
thở thấp, độ sâu gây mê đủ và ổn định, giảm
đau tốt để đảm bảo huyết động ổn định và tránh
các yếu tố làm TAP như thiếu oxy, ứ thán, toan
máu, các kích thích giao cảm làm tăng tiết
catecholamine nội sinh,.. Thực nghiệm cho thấy
giảm thể tích thường lưu (VT) thuận lợi cho tuần
hoàn phổi, cải thiện sự co mạch phổi do thiếu
oxy, trong thực hành, thông khí kiểm soát với VT
tối đa 6-7 ml/kg là tối ưu(7). Trong nghiên cứu
này, chúng tôi thực hiện thông khí kiểm soát
trong và sau mổ với VT=8ml/kg, tăng tần số thở
15-20 lần/phút tùy vào kết quả khí máu ĐM,
nhằm duy trì PaCO2 trong khoảng 30-35mmHg
và pH 7,40-7,45.
Chúng tôi đã lựa chọn thuốc để duy trì mê là
thuốc mê hô hấp isoflurane, giảm đau fentanyl
và giãn cơ vecuronium trong giai đoạn trước và
sau THNCT. Đối với tuần hoàn phổi, isoflurane
làm giảm cường độ đáp ứng co mạch phổi do
thiếu oxy, tăng đáp ứng giãn mạch thứ phát do
hoạt hóa β1 adrenergique và không ảnh hưởng
trên đáp ứng co mạch phổi được hoạt hóa bởi α1
giao cảm. Tất cả các loại thuốc mê thể khí đều ức
chế chức năng thất phải. Tuy nhiên, isoflurane
bảo tồn chức năng thất phải tốt hơn propofol khi
gây mê (7).
Với phác đồ gây mê trên, chúng tôi nhận
thấy độ mê của các BN trong nghiên cứu là phù
hợp, đủ để làm mất đi các phản xạ có hại cho BN
khi có các kích thích, tránh các yếu tố làm TAP,
tình trạng huyết động BN ổn định, ít phải dùng
đến thuốc co hoặc giãn mạch.
Chúng tôi ghi nhận ALĐMP tâm thu, tâm
trương và TB qua catheter Swan-Ganz hoặc đo
trực tiếp bằng cách cắm kim vào thân ĐMP
trước và sau THNCT (T1 và T2), từ đó tính tỷ lệ
ALĐMP TB/HA ĐM TB. Nghiên cứu hồi cứu và
tiền cứu trên 1557 BN mổ tim, tác giả Robitaille
A và cộng sự(9) kết luận tỷ lệ HA ĐM
TB/ALĐMP TB là chỉ số huyết động học hữu
dụng trong PT tim, có thể được sử dụng để tiên
lượng biến chứng huyết động sau mổ tim,
không bị ảnh hưởng bởi sự dẫn mê trong gây mê
toàn diện và có khuynh hướng tương ứng với độ
nặng của chức năng tâm trương thất trái. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi thấy trị số TB của
ALĐMP (tâm thu/tâm trương/TB) vào thời điểm
trước can thiệp PT (T1) là 72,66/38,03 /49,57 mmHg
với tỷ lệ ALĐMP TB/HA ĐM TB là 0,72 ± 0,24
(Bảng 2).
Giai đoạn sau tuần hoàn ngoài cơ thể
THNCT có thể làm tăng KLMMP, tuy nhiên
tần suất tăng ALĐMP sau THNCT chưa được
biết. Sự rối loạn chức năng nội mạc phổi là do rất
nhiều yếu tố như: thiếu oxy, tăng thán khí, thời
gian THNCT kéo dài, hiện tượng tái tưới máu
sau thiếu máu, sự hình thành các gốc tự do, sự
biệt trí của bạch cầu ở phổi, sự quá mẫn với
thromboxane A2 và lớp nội mạc (7). THNCT làm
tổn thương tế bào nội mô mạch máu phổi, làm
mất cân bằng trong việc sản xuất các chất trung
gian có hoạt tính trên mạch máu phổi, dẫn đến
chất co mạch nhiều hơn giãn mạch. Tăng
KLMMP hoặc trực tiếp hoặc do phản ứng viêm
sau THNCT có ảnh hưởng quan trọng đến sự
hồi phục của BN sau mổ tim.
Chúng tôi nhận thấy ở những BN không có
rối loạn chức năng tim trước mổ, mức độ TAP
nhẹ hoặc TB, nếu bảo vệ cơ tim tốt trong quá
trình THNCT cộng với việc PT sữa chữa tổn
thương hoàn hảo thường cho phép cai THNCT
dễ dàng, không cần hỗ trợ thuốc tăng co bóp cơ
tim và thuốc giãn mạch phổi. Tuy nhiên, ở
những BN TAP nặng, suy tim nặng, đặc biệt là
những trường hợp ALĐMP, tỷ lệ ALĐMP/HA
ĐM sau PT không giảm hoặc tăng hơn so với
trước PT, quá trình cai máy THNCT thường khó
khăn hoặc thất bại. Những trường hợp này
thường cần phải hỗ trợ thuốc tăng co bóp cơ tim
phối hợp với thuốc giãn mạch phổi sau khi đã
điều chỉnh, loại trừ các yếu tố thuận lợi cho TAP.
Thuốc tăng co bóp cơ tim là một công cụ đặc
biệt quan dùng để điều chỉnh huyết động trong
quá trình PT tim. Việc lựa chọn các thuốc này
tùy thuộc vào mức độ cần thiết hỗ trợ, hiệu quả
tác dụng trên HA, nhịp tim và các tác dụng
không mong muốn như rối loạn nhịp hoặc co
mạch. Trong trường hợp có suy thất phải và
TAP, theo lý thuyết nên lựa chọn thuốc inotrope
có tác dụng giãn mạch như inamrinone,
milrinone, adrenaline liều thấp, dobutamine(2).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vào giai
đoạn sau THNCT, có 45 BN (36,6%) không cần
hỗ trợ thuốc inotrope, đa số BN này thuộc nhóm
BN có mức độ TAP trước mổ nhẹ và TB (chiếm
tỷ lệ 35,7% số BN trong nhóm nghiên cứu), có
chức năng tim bảo tồn. Những trường hợp tỷ lệ
ALĐMP/HAĐM không giảm hoặc tăng hơn,
chức năng tim không tốt sau khi can thiệp PT,
cai máy THNCT khó khăn, chúng tôi cần hỗ trợ
inotrope để ổn định huyết động phối hợp với
thuốc giãn mạch phổi. Có 78 BN (63,4%) sử
dụng inotrope trong mổ, sau THNCT, trong đó
28,4% dùng liều bình thường và 35% dùng liều
cao (Biểu đồ 1).
HA ĐM TB ở thời điểm T2 so với HA căn bản
(T0) vẫn giảm 10,04 ± 12,43mmHg, khoảng 12,1%
(p<0,001), nhưng có tăng nhẹ 2,12 ± 9,42 mmHg
(3%) so với T1 (p=0,014) (Bảng 2).
Đối với những trường hợp TAP nặng, có 6
trường hợp chúng tôi sử dụng thuốc giãn mạch
phổi trong mổ: 4 trường hợp sử dụng isosorbide
dinitrate và 2 trường hợp sử dụng iloprost TTM
(Biểu đồ 2).
Sau can thiệp PT, chúng tôi nhận thấy đa số
các trường hợp có cải thiện về ALĐMP, ALĐMP
TB thời điểm T2 (sau THNCT) giảm 12,09mmHg
(16,6%) so với thời điểm T1 (trước THNCT)
(p<0,001), tỷ lệ ALĐMP TB/HA ĐM TB ở T2 giảm
0,19 (26,4%) so với T1 (p<0,001) (Bảng 3).
Giai đoạn hồi sức sau mổ
Trong giai đoạn hồi sức sau mổ, chúng tôi
phải đối đầu với khả năng xảy ra các cơn TAP
nặng, nhất là những trường hợp bệnh diễn tiến
lâu ngày, PT trễ, BN đã TAP nặng và có những
biến đổi về hình thái của hệ mạch máu phổi,
ALĐMP không cải thiện thậm chí xấu hơn sau
khi can thiệp PT. Cơn TAP sau mổ thường xuất
hiện khi BN bị kích thích (stress khi hồi tỉnh,
lạnh, tiếng ồn, hút đàm nhớt qua ống NKQ, xoay
trở, thay drap giường, thay băng, làm thủ
thuật,), bị giảm thông khí gây ứ thán, nhiễm
toan hô hấp hay chuyển hóa, nhiễm trùng,
Cơn TAP thường biểu hiện bằng ALĐMP tăng
cao, HA tụt, giảm oxy máu nặng. Các cơn TAP
nặng có thể gây tử vong. Các biện pháp điều trị
chung bao gồm: cho BN ngủ yên bằng cách phối
hợp midazolam (hoặc propofol) -fentanyl-
vecuronium TTM liên tục, thở máy với áp lực
đường thở thấp, tăng thông khí (pCO2 25-
28mmHg), kiềm hóa máu (pH 7,50-7,55), dùng
thuốc inotrope (thường là dobutamine) để hỗ trợ
thất phải và thuốc giãn mạch phổi.
Tổng kết các dữ liệu y văn thế giới từ
PubMed® năm 1995-2004 về xử trí TAP quanh
mổ trong gây mê hồi sức, Kerbaul F đưa ra các
biện pháp điều trị TAP bao gồm: khí NO,
prostacyclin, dẫn xuất nitrate, ức chế
phosphodiesterase type 3 (milrinone) (7).
Trong nghiên cứu này, ngoài các biện pháp
điều trị chung và thuốc tăng co bóp cơ tim,
chúng tôi chọn thuốc điều trị TAP là dẫn xuất
nitrate-isosorbide dinitrate (Isoket®) TTM liên
tục và prostacyclin-iloprost dạng hít (Ventavis®)
và dạng TTM liên tục (Ilomedin®). Tỷ lệ sử dụng
thuốc giãn mạch phổi sau mổ là 35,8% (44 BN)
trong đó chủ yếu là những BN thuộc nhóm TAP
nặng (41 trường hợp).
Tỷ lệ sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim sau
mổ trong nghiên cứu này là 62,6% (77 BN), trong
đó có 39% (48 BN) cần hỗ trợ thuốc inotrope với
liều cao (Biểu đồ 1).
Tần số tim, HA ĐM TB vào các thời điểm
sau mổ khác biệt có ý nghĩa thống kê so với thời
điểm trước mổ (T0) (p<0,05) nhưng trong giới
hạn cho phép (± 15%) ; các thời điểm giờ thứ
1,4,8,12,16 so với thời điểm giờ 0 sau mổ thì sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)
(Bảng 2).
Sự thay đổi ALĐMP trước và sau phẫu
thuật
So sánh về ALĐMP TB và tỷ lệ ALĐMP TB/HA
ĐM TB trong mổ và hồi sức sau mổ
Trong mổ, so sánh ALĐMP trước và sau can
thiệp PT, chúng tôi nhận thấy đa số các trường
hợp có cải thiện về ALĐMP, ALĐMP TB giảm
12,09mmHg (16,6%), tỷ lệ ALĐMP TB/HA ĐM
TB giảm 0,19 (26,4%) (p<0,001) (bảng 3-19). Tuy
nhiên, trong thời gian nằm hồi sức, ALĐMP
không thay đổi nhiều, sự khác biệt về ALĐMP
TB và tỷ lệ ALĐMP TB/HA ĐM TB giữa thời
điểm T2 (sau THNCT) và G16 không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05) (Bảng 2).
Điều này cho thấy khi PT đã sữa chữa tổn
thương và làm giảm ALĐMP một cách có ý
nghĩa thì sau đó, trong giai đoạn hồi sức sau
mổ, ALĐMP có khuynh hướng không giảm
nữa. Tuy nhiên, nhận xét này của chúng tôi chỉ
mới dựa vào 34 trường hợp có đặt catheter
Swan-Ganz nên không thể đại diện cho cả
nhóm nghiên cứu 123 BN.
Nghiên cứu của tác giả Kadosaki M (5) trên 46
bệnh nhi PT tim bẩm sinh đã kết luận KLMMP
trước mổ có mối tương quan chặt với tỷ lệ
ALĐMP/HA ĐM hệ thống sau THNCT (r2=0,86,
p<0,05) và không tìm thấy trường hợp nào tỷ lệ
ALĐMP/HA ĐM hệ thống sau THNCT ≥ 1 ở
những BN có KLMMP trước mổ <7 đơn vị Woods.
Qua đó, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ áp lực giữa
hệ ĐMP và ĐM hệ thống sau THNCT, sau khi can
thiệp PT có một ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp
đánh giá sớm kết quả PT và dự kiến những khó
khăn sẽ gặp phải trong hồi sức sau mổ.
So sánh ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm trước
và sau mổ
Mặc dù vẫn còn những trường hợp ALĐMP
cao sau khi can thiệp PT, nhưng nhìn chung,
ALĐMP tâm thu đánh giá qua siêu âm trong
nhóm nghiên cứu của chúng tôi giảm rõ rệt, với
trị số TB sau mổ giảm 37,78 ± 20,59 mmHg
(khoảng 51%) so với trước mổ (p<0,001). Thật
vậy, nhìn vào biểu đồ 3, chúng ta càng thấy rõ
hơn sự cải thiện này, 52,6% BN không TAP và
chỉ còn 8,6% BN TAP nặng sau mổ.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đều cho
thấy ALĐMP giảm một cách có ý nghĩa sau PT.
Qua đó, chúng tôi nhận định rằng PT tim trên
BN có TAP có kết quả tốt.
Biến chứng và tử vong
Biến chứng
Trong nhóm nghiên cứu 123 BN, có 42 BN có
biến chứng sau mổ chiếm tỷ lệ 34%. Theo kết
quả bảng 5, biến chứng sau mổ xảy ra nhiều
nhất là suy tim cấp 16 BN (13%), rối loạn chức
năng đông máu 12 BN (9,8%), loạn nhịp tim 11
BN (8,9%), viêm phổi 11 BN (8,9%).
Nhìn chung, các biến chứng này có thể là
hậu quả của tình trạng TAP nặng, suy tim nặng,
tổng trạng kém của BN trước mổ, bệnh lý đi
kèm. Khi xảy ra biến chứng này thì tạo thuận lợi
cho diễn tiến các biến chứng khác, làm nặng lên
các biến chứng khác và ngược lại làm cho tình
trạng BN càng ngày càng xấu đi, có thể dẫn đến
suy đa cơ quan và cuối cùng là tử vong.
Tử vong
Tử vong sớm sau mổ hay còn gọi là tử vong
bệnh viện, tử vong PT là tử vong xảy ra trong
vòng 30 ngày sau mổ. Trong nghiên cứu chúng
tôi, tỷ lệ tử vong này là 5,7%, đa số là BN có TAP
nặng trước mổ.
Bằng phương pháp phân tích hồi quy đa
biến trong nghiên cứu 880 BN PT tim bẩm sinh,
tác giả Bando K (1) đã đưa ra nhận xét ALĐMP
trước mổ là yếu tố nguy cơ đối với tử vong bệnh
viện liên quan đến TAP (p<0,001), PT bệnh tim
bẩm sinh ở lứa tuổi càng trễ càng có nguy cơ
TAP sau mổ (p=0,03). Trong nghiên cứu chúng
tôi, các trường hợp tim bẩm sinh có tuổi TB là
31,65 (với 81,4% là thông liên nhĩ), tỷ lệ tử vong
bệnh viện là 4,7% (N=43).
Đối với các trường hợp tim mắc phải với đa
số là bệnh van 2 lá (96,4%), tỷ lệ tử vong PT của
nghiên cứu chúng tôi là 6% (N=83). Tỷ lệ tử vong
PT trong nghiên cứu của tác giả Ernil N (N=51)(4)
là 3,9%, tác giả Cámara ML (N=88)(3) là 5,6%, tác giả
Vincens JJ (N=43)(14) là 11,6%. So với các tác giả khác
thì tỷ lệ tử vong PT của nghiên cứu chúng tôi vẫn
còn cao nhưng có thể chấp nhận được.
KẾT LUẬN
Phương thức gây mê cân bằng, giảm thể tích
khí thường lưu (VT=8ml/kg), tăng tần số hô hấp
15-20 lần/phút, đảm bảo cung cấp đầy đủ oxy
với áp lực đường thở thấp, kiềm hóa máu; phối
hợp sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim và thuốc
giãn mạch phổi trong và sau mổ là phù hợp với
BN PT tim có TAP. Tần số tim, HA ĐM TB trong
và sau mổ ổn định. Trước và sau can thiệp PT,
đa số các trường hợp có cải thiện có ý nghĩa về
ALĐMP, ALĐMP TB giảm 16,6%, tỷ lệ ALĐMP
TB/HA ĐM TB giảm 26,4%. Sau PT, ALĐMP
tâm thu đánh giá qua siêu âm giảm rõ rệt, với trị
số TB sau mổ giảm 51% so với trước mổ. Biến
chứng thường gặp nhất sau PT tim ở BN TAP là
suy tim cấp. Tỷ lệ tử vong là 5,7%, đa số là BN có
TAP nặng trước mổ, nguyên nhân tử vong đều
liên quan đến TAP nặng, suy tim cấp, suy đa cơ
quan.
Nhìn chung, PT tim trên BN có TAP có kết
quả tốt. Nên PT sớm để tránh những biến chứng
và tử vong liên quan đến TAP. Quá trình gây mê
và hồi sức đòi hỏi phải hạn chế, ngăn ngừa, phát
hiện sớm và điều trị kịp thời các yếu tố làm TAP,
cần theo dõi sát các trị số huyết động, nhất là tỷ
lệ giữa ALĐMP và ĐM hệ thống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bando K, Turrentine MW, Sharp TG, Sekine Y, Aufiero TX,
Sun K, Sekine E, Brown JW (1996), “Pulmonary
hypertension after operations for congenital heart disease:
analysis of risk factors and management”, J Thorac
Cardiovasc Surg; 112 (6) : 1600-9.
2. Bojar RM (2005), “Cardiovascular management”, Manual
of perioperative care in adult cardiac surgery, Blackwell
Publishing, fourth edition: 353-358.
3. Cámara ML, Aris A, Padró JM, Caralps JM (1988), “Long-term
results of mitral valve surgery in patients with severe
pulmonary hypertension”, Ann Thorac Surg; 45 (2) : 133-6.
4. Erdil N, Cetin L, Nisanoglu V, Demirkilic U, Sener E, Tatar
H (2002), “Clinical experience with Sorin Bicarbon valve in
patients with tight mitral valve stenosis and elevated
pulmonary hypertension (early and mid-term results) ”, J
Cardiovasc Surg (Torino) ; 43 (4) : 423-7.
5. Kadosaki M, Kawamura T, Oyama K, Nara N, Wei J, Mori
N (2002), “Usefulness of nitric oxide treatment for
pulmonary hypertensive infants during cardiac
anesthesia”, Anesthesiology; 96 (4) : 835-40.
6. Kaul TK, Fields BL (2000), “Postoperative acute refractory
right ventricular failure: incidence, pathogenesis,
management and prognosis”, Cardiovasc Surg; 8: 1-9.
7. Kerbaul F, Rondelet B, Collart F, Naeije R, Gouin F (2005),
“Hypertension artérielle pulmonaire en anesthésie-
réanimation”, Ann Fr Anesth Reanim; 24: 528-40.
8. Reichert CL, Visser CA, van den Brink RB, Koolen JJ, van
Wezel HB, Moulijn AC, Dunning AJ (1992), “Prognostic
value of biventricular function in hypotensive patients
after cardiac surgery as assessed by transesophageal
echocardiography”, J Cardiothorac Vasc Anesth; 6 (4) :
429-32.
9. Robitaille A, Denault AY, Couture P, Belisle S, Fortier A,
Guertin MC, Carrier M, Martineau R (2006), “Importance
of relative pulmonary hypertension in cardiac surgery: the
mean systemic-to-pulmonary artery pressure ratio”, J
Cardiothorac Vasc Anesth; 20 (3) : 331-9.
10. Roldan CA (2005), The Ultimate Echo Guide, Lippincott
Williams & Wilkins (ebook).
11. Rubin LJ (2004), “Diagnosis and management of
pulmonary arterial hypertension: ACCP evidence-based
clinical practice guidelines”, Chest; 126 (1 Suppl) : 7S-10S.
12. Simonneau G, Galie N, Rubin L et al (2004), “Clinical
classification of pulmonary arterial hypertension”, J Am
Coll Cardiol; 43: S5-12.
13. Solina AR, Ginsberg SH, Papp D, Pantin EJ, Denny J,
Ghandivel I, Krause TJ (2002), “Response to nitric oxide
during adult cardiac surgery”, J Invest Surg; 15 (1) : 5-14.
14. Vincens JJ, Temizer D, Post JR, Edmunds LH, Herrmann
HC (1995), “Long-term outcome of cardiac surgery in
patients with mitral stenosis and severe pulmonary
hypertension”, Circulation; 92 (9 Suppl) : II137-42.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gay_me_hoi_suc_trong_phau_thuat_tim_tren_benh_nhan_co_tang_a.pdf