Gây mê sử dụng mặt nạ thanh quản cải tiến proseal cho can thiệp nội soi tiết niệu
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    PLMA có hai cải tiến chủ yếu so với MTQ cổ
điển là a, hệ thống bóng chèn “lưng” (dorsal
cuff) và bóng chèn “bụng” (ventral cuff) làm
tăng áp lực kín đường thở (airway seal pressure)
b, nhánh dẫn lưu (Drain Tube -DT) phân lập
đường thở và đường tiêu hóa nhằm phòng ngừa
biến chứng hít sặc phổi (pulmonary aspiration)
nếu hiện tượng trào ngược xảy ra (regugitation).
Hai trường hợp có xảy ra hiện tượng trào ngược
dịch tiêu hóa qua nhánh DT nhưng không có
biểu hiện hít sặc phổi trên lâm sàng đã chứng
minh tác dụng của cải tiến này.
PLMA đã được sử dụng thay thế NKQ và
MTQ cổ điển trong gây mê thông khí áp lực cao
(hight pressure controlled ventilation) ví dụ như
cho phẫu thuật nội soi có bơm hơi. PLMA cũng
đã được sử dụng để gây mê cho các phẫu thuât
nội soi hông lưng(1,2,5)
Shoc phản vệ là biến cố nguy hiểm và không
phải là hiện tượng hiếm gặp trong gây mê. Kiểm
soát hô hấp trong những tình huống shock xảy
ra là ưu tiên hàng đầu. Nhờ có PLMA chúng tôi
đã chủ động điều trị shock thành công. PLMA
cũng là phương tiện kiểm soát đường thở ưu
tiên trong các tình huống khẩn cấp(1.2).
Thất bại trong việc đặt PLMA là vấn đề
thường gặp ngay cả với những người có kinh
nghiệm sử dụng MTQ. Sử dụng phương pháp
đặt PLMA qua nòng dẫn cho phép nâng tỷ lệ
thành công so với phương pháp đặt bằng ngón
tay(12). Phải chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện
kiểm soát hô hấp khác để thay thế khi cần thiết.
PLMA chỉ là phương tiện kiểm soát đường thở
bổ xung chứ không thể thay thế hoàn toàn NKQ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 413 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Gây mê sử dụng mặt nạ thanh quản cải tiến proseal cho can thiệp nội soi tiết niệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 1 
GÂY MÊ SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH QUẢN CẢI TIẾN PROSEAL 
CHO CAN THIỆP NỘI SOI TIẾT NIỆU 
Nguyễn Anh Tuấn*, Nguyễn Hoàng Đức** và cộng sự 
TÓM TẮT 
Mục đích: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê sử dụng mặt nạ thanh quản cải tiến (PLMA) cho 
các can thiệp nội soi đường tiết niệu 
Phương pháp nghiên cứu: Tổng kết phân tích những trường hợp gây mê có sử dụng PLMA từ 1-12/2006 
tại BVĐHYD. Tổng kết tập trung vào các can thiệp theo vùng, cách sử dụng và một số biến chứng hay gặp khi 
sử dụng PLMA. 
Kết quả: 280 trường hợp can thiệp nội soi tiết niệu: 205 trường hợp tán sỏi (141 niệu quản vùng chậu; 29 
tán sỏi niệu quản lưng; 36 vùng bàng quang-niệu đao); 71 trường hợp can thiệp khác vùng niệu quản; 3 trường 
hợp chuyển sang phẫu thuật và 1 trường hợp kết hợp với phẫu thuật cắt túi mật nội soi. Thuốc chủ yếu sử dụng 
để khởi mê và duy trì mê chủ yếu là Propofol (98,57%) và Isofluranc(98,21%). Tất cả các trường hợp đặt PLMA 
đều không sử dụng thuốc giãn cơ. Tỷ lệ đặt PLMA thành công bằng phương pháp “ngón tay”sau một lần đặt là 
92,86%; sau hai lần đặt là 4,3%. Bảy trường hợp (2,50%) đặt PLMA lần thứ 3 với kỹ thuật đặt qua nòng dẫn, 1 
trường hợp (0,34%) đặt PLMA thất bại phải chuyển sang đặt nội khí quản. Thời gian trung bình để đặt PLMA 
là 20 giây. Kiểu thở của bệnh nhân trong quá trình duy trì mê lần lượt là: tự thở hoàn toàn 48,85% ; tự thở kết 
hợp thở hỗ trợ theo yêu cầu của can thiệp có hoặc không thêm thuốc giãn cơ 48,92%; thở hỗ trợ hoàn toàn 3,23%. 
Hai trường hợp xuất hiện trào ngược dịch vị qua ống dẫn của PLMA nhưng không có biểu hiện của hiện tượng 
hít sặc trên lâm sàng. Một trường hợp sốc phản vệ xảy ra sau khi gây mê nhưng đã được điều trị thành công. Hai 
trường hợp xuất hiện trào ngược dịch vị qua ống dẫn của PLMA nhưng không có biểu hiện của hiện tượng hít 
sặc trên lâm sàng. Một số biến cố nhỏ với tỉ lệ thấp liên quan đến việc sử dụng PLMA là ho ruớn, đau họng và 
chảy máu vùng họng miệng. 
Kết luận: Gây mê sử dụng PLMA tỏ ra an toàn và phù hợp với các phẫu can thiệp nội soi tiết niệu. Kiểm 
soát đường thở nhanh chóng và hiệu quả sau moät laàn ñaët, đặt không cần sử dụng thuốc giãn cơ cho phép hồi 
tỉnh nhanh, khả năng bảo vệ đường thở khỏi hiện tượng hít sặc khi trào ngược xảy ra là những ưu điểm nổi bật 
cuả PLMA khi sử dụng trong gây mê. PLMA giúp người gây mê chủ động đối phó với các biến cố phát sinh 
trong quá trình phẫu thuật và gây mê 
ABSTRACT 
GENERAL ANESTHESIA USING PROSEAL LARYNGEAL MASK AIRWAY FOR UROLOGICAL 
ENDOSCOPIC PROCEDURES 
Nguyen Anh Tuan, Nguyen Hoang Duc 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 258 - 261 
Purpose of study: This study examines the efficacies of general anesthesia (GA) using Proseal laryngeal 
mask airway (PLMA) for urological endoscopic procedures at University Medical Center (UMC) 
Material and methods: Prospective data was recorded by the anesthesiologists-in-charge of urological 
endoscopic procedures underwent GA using PLMA over one year period (January to December 2006). The 
analysis focused on types of procedures, characteristics of usage of PLMA 
* Khoa Phẫu thuật gây mê hồi sức Bệnh viện Đại Học Y Dược 
** Phân khoa Tiết Niệu, Bệnh viện Đại Học Y Dược 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 2 
Results: 280 cases were analyzed; 205 of lithotripsy, 71 of different techniques, and 4 of combination with 
laparoscopic surgery. Main anesthetic agents for induction and maintenance were propofol (98.57%), isoflurane 
(98.21%). Success rate in first and second attempt by digital insertion technique without muscle relaxants was 
92.96%, 4.3% respectively. Gum elastic bougie guided technique used in 7 cases (2.50%). Endotracheal tube was 
replaced PLMA in one case (0.34%). Time to achieve effective airway control was 20 sec. Mode of ventilation 
during anesthesia was spontaneous (47.85%), spontaneous – controlled combination without /with muscle 
relaxants adjusted (54.4%), and controlled (3.23%). Gastric regurgitation occurred in 2 cases when PLMA in 
place, but no signs of pulmonary aspiration detected clinically. Severe anaphylactic reaction occurred in one case 
but treated successfully. Minor complications such as cough, minor trauma of mouth cavity, sore throat was 
observed in low rate. 
Conclusion: GA using PLMA was safe and appropriate for urological endoscopic procedures. Easy insertion 
with high success rate, insertion without muscle relaxants, and possibility of airway protection from gastric 
content regurgitation was some most significant benefits of PLMA. PLMA was helpful to control the unpredicted 
events during anesthesia and surgery 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sử dụng mask thanh quản (LMA –Laryngeal 
Mask Airway) trong gây mê là một xu hướng 
của gây mê hiện đại đặc biệt là với những can 
thiệp ít xâm lấn, thời gian can thiệp ngắn, phù 
hợp với mô hình bệnh nhân về trong ngày 
(ambulatory surgery) 
 Mask thanh quản (MTQ) hai nòng ProSeal 
(Proseal Laryngeal Mask Airway - PLMA) là 
một phương tiện kiểm soát đường thở cải tiến 
dựa trên MTQ cổ điển (classic laryngeal mask 
airway – cLMA) thích hợp với gây mê trong 
được sử dụng trong gây mê từ năm 2000, PLMA 
nhanh chóng nhận được những đánh giá tích 
cực của những người làm gây mê 1,2. Từ 5/2005 
tại Bệnh viện Đại Học Y Dược (BVĐHYD) chúng 
tôi bắt đầu sử dụng PLMA trong gây mê hàng 
ngày cho nhiều loại phẫu thuật trong đó có phẫu 
thuật nội soi ổ bụng và phẫu thuật nội soi sau 
phúc mạc4. Trong bài báo này chúng tôi tổng kết 
và đưa ra một số nhận xét của phương pháp gây 
mê sử dụng PLMA cho phương pháp can thiệp 
nội soi tiết niệu tại BVĐHYD trong năm 2006. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tồng kết phân tích số liệu các bệnh nhân 
được can thiệp nội soi đường tiết niệu bằng 
phương pháp gây mê toàn thể có sử dụng 
PLMA trong thòi gian một năm (từ 1-12/2006) tại 
Bệnh viện đại học Y Dược. Tổng kết tập trung 
vào tính chất can thiệp theo vùng. Một số đặc 
tính và biến cố liên quan đến việc sử dụng 
PLMA cũng được bàn luận 
KẾT QUẢ 
Trong năm 2006 có khoảng 1000 bệnh nhân 
đã được gây mê toàn thân sử dụng PLMA tại 
khoa phẫu thuật gây mê hồi sức, BVĐHYD. 
Tổng kết đưới đây là 280 các trường hơp gây mê 
sử dụng PLMA cho thủ thuật tán sỏi nội soi và 
can thiệp nội soi khác qua đường niệu đạo 
Bảng 1: Các loại can thiệp và thời gian trung bình 
của can thiệp 
Các loại thủ thuật Số lượng 280 
Thời gian 
kéo dài thủ 
thuật 
Nội soi tán sỏi đoạn chậu, nội 
thành 
140 
(50,00%) 
30 phút 
(10 – 140) 
Nội soi tán sỏi đoạn lưng 29 (10, 35%) 
40 phút 
(15 – 120) 
Nội soi bàng quang, niệu đạo 36 (12, 85%) 
30 phút 
(10 –120) 
Soi niệu quản kết hợp thủ thuật 
khác 
71 (25, 
35%) 
20 phút 
(5 – 120) 
Chuyển sang mổ nội soi hông 
lưng 2 100 phút 
Chuyển sang mổ hở 1 (1, 45%) 
Kết hợp mổ cắt nội soi túi mật 1 
(90 – 180) 
Thủ thuật khác bao gồm: đặt và rút sonde JJ, 
chụp UPR, xẻ rộng niệu quản, soi niệu quản 
chẩn đoán 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 3 
Bảng 2: Thời gian đặt PLMA và số lần đặt PLMA 
Thời gian trung bình 1 lần đặt 20 giây (10 – 90) 
Đặt thành công sau 1 lần 260 trường hợp (92,86%) 
Đặt thành công sau 2 lần 12 trường hợp (4, 30%) 
 Đặt thành công sau 3 lần 7 trường hợp (2, 50%) 
Đặt thất bại, chuyển sang NKQ 1 trường hợp (0, 34%) 
Thời gian rút ống sau thủ thuật 
kết thúc 
 8 phút (2 – 20) 
Kỹ thuật đặt chủ yếu dùng phương pháp 
“ngón tay” (digital insertion). Phương pháp đặt 
qua nòng dẫn (Gum Elastic Bougie - guided 
railroading) sử dụng trong các trường hợp đặt 
lần 3. Một trường hợp chuyển sang NKQ do đặt 
PLMA thất bại, SpO2 < 90% 
Bảng 3: Các thuốc khởi mê và duy trì mê 
 Propofol Etomydate Isoflurane Servoflurane
Thuốc 
khởi mê 
276 (98, 
57%) 
4 (1, 43%) 
Duy trì 
mê 
 275 (98, 
21%) 
5 (1, 79%) 
* Thuốc khởi mê chủ yếu là Propofol, 
Etomidate dùng cho các trường hợp ASA 3, 
thuốc duy trì mê chủ yếu dùng khí mê 
Isoflurane 
Bảng 4: Phương pháp điều khiển hô hấp trong gây 
mê 
 Có sử dụng 
thuốc giãn cơ 
Không sử dụng 
thuốc giãn cơ 
Tự thở hoàn toàn 
(47,85%) 
0 134 
Phối hợp (48,92%) 56 81 
Thở máy (3,23%) 4 5 
*Thở phối hợp: để bệnh nhân tự thở, bóp 
bóng hỗ trợ hoặc chuyển sang thở máy nếu bệnh 
nhân ngừng thở lâu (> 30 giây), hoặc bệnh nhân 
có hiện tượng “gồng”, hoặc khi phẫu thuật viên 
yêu cầu 
Bảng 5: Một số biến cố liên quan đến gây mê 
Biến cố Đặt 
PLMA 
Duy trì mê Rút PLMA 
và hồi tỉnh 
Phản xạ ho rướn 6 (2,1%) 5 (1,78%) 
Tiếng rít thanh quản 
nhẹ 
4 (1,42%) 2 (0, 78%) 
Chảy máu (Blood 
staining) 
7 (2,50%) 8 (2,85%) 
Trào ngược 2 (0,78%) 
Đau họng nhẹ 10 (3,50%) 
Shock phản vệ 1 (0,34%) 
Chuyển đặt NKQ 1 (0,34%) 
* Hai trường hợp chụp UPR thấy có hội 
chứng hẹp khúc nối bể thận – niệu quản. 
Chuyển sang mổ tạo hình khúc nối bể thận – 
niệu quản bằng phương pháp nội soi hông lưng 
có hiện tượng trào ngược xuất hiện dịch tiêu hoá 
> 100ml qua nhánh dẫn lưu (Drain Tube – DT). 
Trường hợp thứ nhất tại xảy ra khi đặt bệnh 
nhân sang tư thế nằm nghiêng. Trường hợp thứ 
hai khi bệnh nhân xuất hiện nấc cụt sau khi kết 
thúc phẫu thuật (nhưng cịn ống PLMA). Không 
thấy có biểu hít sặc phổi trên lâm sàng. Trên 
phim chụp Xquang phổi kiểm tra sau biến cố 6 
giờ không có thay đổi so với truớc mổ. 
* Shock phản vệ xảy ra sau khởi mê propol 
và fentanyl ở một trường hợp dự định chụp 
UPR. Biểu hiện huyết áp tụt, nhịp tim nhanh và 
không đều, nổi mẩn đỏ tòan thân. Đặt PLMA 
bằng kỹ thuật “ngón tay” để kiểm soát hô hấp 
và duy trì huyết áp bằng Adrenaline. Bệnh nhân 
trở lại tình trạng ổn định sau 10 phút 
BÀN LUẬN 
Thời gian kéo dài của các can thiệp nội soi 
niệu khoa thường không dài quá 60 phút, thích 
hợp với mô hình phẫu thuật về trong ngày. Tuy 
vậy có một số trường hợp kéo dài thời gian vì 
phải chuyển sang phẫu thuật 
 Kỹ thuật đặt PLMA bằng tay rất đơn giản, 
nhanh, không cần sử dụng đèn soi thanh quản 
(laryngoscopy) và có tỷ lệ thành công cao chỉ sau 
một lần đặt. Cách đặt này giảm được phản xạ ho 
rướn, hạn chế những biến đổi huyết động có hại 
liên quan đến động tác đặt đèn soi thanh quản. 
Khác với ống nội khí quản (NKQ), hệ thống 
bóng chèn (cuff) của PLMA ôm bên ngoài thanh 
môn, giảm được nguy cơ chấn thương thanh - 
khí quản(1,2). 
 Propofol là một thuốc mê gây ngủ nhanh, 
êm dịu, ức chế rất tốt các phản xạ hầu họng, 
thích hợp với kỹ thuật đặt PLMA mà không cần 
sử dụng các thuốc giãn cơ. Propofol cũng thích 
hợp với các phẫu thuật về trong ngày vì ít gây 
nên hiện tượng nôn và buồn nôn sau gây mê. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 4 
 Chúng tôi duy trì mê bằng cách để bệnh 
nhân tự thở hỗn hợp khí Oxy trộn lẫn thuốc mê 
bốc hơi (Isoflurane, Servoflurane). Trong trường 
hợp nhịp tự thở của bệnh nhân cản trở thao tác 
của phẫu thuật viên, chúng tôi chủ động chuyển 
sang chế độ thở hỗ trợ (thở máy hoặc bóp tay) 
kết hợp với tăng thêm độ sâu gây mê bằng các 
thuốc mê bốc hơi hoặc thuốc giảm đau Fentanyl. 
Thêm một liều nhỏ các thuốc giãn cơ giúp việc 
điều khiển phương pháp thở dễ hơn, tránh nguy 
cơ chấn thương đường tiết niệu do máy soi gây 
nên. Hạn chế sử dụng thuốc giãn cơ cũng góp 
phần giảm được nguy cơ suy hô hấp do tác 
động tồn dư của thuốc, giúp cho việc rút ống 
sớm và rút ngắn thời gian hậu phẫu (fast 
tracking recovery). 
PLMA có hai cải tiến chủ yếu so với MTQ cổ 
điển là a, hệ thống bóng chèn “lưng” (dorsal 
cuff) và bóng chèn “bụng” (ventral cuff) làm 
tăng áp lực kín đường thở (airway seal pressure) 
b, nhánh dẫn lưu (Drain Tube -DT) phân lập 
đường thở và đường tiêu hóa nhằm phòng ngừa 
biến chứng hít sặc phổi (pulmonary aspiration) 
nếu hiện tượng trào ngược xảy ra (regugitation). 
Hai trường hợp có xảy ra hiện tượng trào ngược 
dịch tiêu hóa qua nhánh DT nhưng không có 
biểu hiện hít sặc phổi trên lâm sàng đã chứng 
minh tác dụng của cải tiến này. 
 PLMA đã được sử dụng thay thế NKQ và 
MTQ cổ điển trong gây mê thông khí áp lực cao 
(hight pressure controlled ventilation) ví dụ như 
cho phẫu thuật nội soi có bơm hơi. PLMA cũng 
đã được sử dụng để gây mê cho các phẫu thuât 
nội soi hông lưng(1,2,5) 
Shoc phản vệ là biến cố nguy hiểm và không 
phải là hiện tượng hiếm gặp trong gây mê. Kiểm 
soát hô hấp trong những tình huống shock xảy 
ra là ưu tiên hàng đầu. Nhờ có PLMA chúng tôi 
đã chủ động điều trị shock thành công. PLMA 
cũng là phương tiện kiểm soát đường thở ưu 
tiên trong các tình huống khẩn cấp(1.2). 
Thất bại trong việc đặt PLMA là vấn đề 
thường gặp ngay cả với những người có kinh 
nghiệm sử dụng MTQ. Sử dụng phương pháp 
đặt PLMA qua nòng dẫn cho phép nâng tỷ lệ 
thành công so với phương pháp đặt bằng ngón 
tay(12). Phải chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện 
kiểm soát hô hấp khác để thay thế khi cần thiết. 
PLMA chỉ là phương tiện kiểm soát đường thở 
bổ xung chứ không thể thay thế hoàn toàn NKQ 
KẾT LUẬN 
Gây mê sử dụng PLMA bằng các thuốc mê 
êm dịu, tác dụng ngắn tỏ ra phù hợp với những 
can thiệp nội soi tiết niệu, thích hợp với bệnh 
nhân ngoại trú. PLMA cho phép kiểm soát 
đường thở nhanh và hiệu quả. PLMA cũng giúp 
người gây mê chủ động đối phó với các biến cố 
phát sinh trong quá trình phẫu thuật và gây mê. 
Huấn luyện và sử dụng PLMA đúng chỉ định là 
chìa khóa đảm bảo an toàn và hiệu quả của 
phương pháp gây mê này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 Brimacombe. LMA ProSeal- Analysis of current 
knowledge and a complete practical guide; The Laryngeal 
Mask Company Limited 2004 
2 Cook TM, Lee G, Nolan JP. The ProSeal laryngeal mask 
airway: a review of the literature. Can J Anesth 2005;52:739 
-76 
3 Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Hoàng Đức, Trần Lê Linh 
Phương. Phẫu thuật ít xâm hại trong tiết niệu học: Kỹ 
thuật nội soi niệu quản. Nhà xuất bản y học 2006 
4 Nguyễn Anh Tuấn. Kinh nghiệm sử dụng mask thanh 
quản cải tiến ProSeal trong gây mê cho phẫu thuật nội soi 
có bơm hơi. Hội nghị kiểm soát đường thở trên thanh mộn 
8 -2006, TPHCM 
5 Nguyễn Anh Tuấn. PLMA tránh được hiện tượng hít sặc 
phổi khi trào ngược xảy ra: kinh nghiệm qua 3 trường 
hợp. Hội nghị gây mê hồi sức toàn quốc, Hải Phòng 2006 
6 Shew HC, Kimball W. Anesthesia for the Elderly and 
Urologic Surgery. Clinical Anesthesia Procedures of the 
Massachusetts General Hospital 2003:435-444 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 5 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 6 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
gay_me_su_dung_mat_na_thanh_quan_cai_tien_proseal_cho_can_th.pdf