Ghi hình phóng xạ ⁹⁹mTC-Mibi đánh giá đáp ứng với xạ trị ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ
Trong 8 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn, trên CT hết
u nhưng trên xạ hình của 3 bệnh nhân vẫn thấy hình
ảnh bắt xạ 99mTc-MIBI.
Ngược lại, trong số bệnh nhân nhóm đáp ứng một
phần: trên CT kích thước u giảm <50%, trên hình ảnh
SPECT có 8 bệnh nhân tế bào u sau điều trị không bắt
xạ, không còn chức năng sống. Hình ảnh trên CT có thể
chỉ là tổ chức xơ hóa phổi.
Trong 15 bệnh nhân được đánh giá bệnh giữ
nguyên hoặc tiến triển trên CT, trên xạ hình có 2 bệnh
nhân thấy giảm bắt xạ, ứng với trên SPECT là đáp ứng
một phần.
Như vậy, trong đánh giá đáp ứng với xạ trị, SPECT
có giá trị cùng với CT phân biệt những trường hợp xơ
hóa vẫn có hình ảnh khối u trên CT nhưng các tế bào
u đã không còn chức năng sống do đó sẽ âm tính trên
SPECT. Và ngược lại, có một số trường hợp khối u đã
tan hết không còn thấy trên CT, nhưng thực tế vẫn còn
sót lại một số tế bào ung thư lan tỏa nên trên SPECT
vẫn thấy hình ảnh bắt phóng xạ.
Tiên lượng, đánh giá kết quả đáp ứng với điều trị
rất quan trọng. Mặc dù FDG-PET được coi là kĩ thuật
Y học hạt nhân hiệu quả, chính xác với mục đích này,
nhưng giá thành còn khá cao đã hạn chế ứng dụng
của nó. So với PET/CT, SPECT bằng 99mTc-MIBI có giá
thành thấp, dễ ứng dụng rộng rãi hơn và cùng với CT
vẫn cho phép đánh giá đáp ứng với xạ trị trên bệnh
nhân UTP khá tốt.
Xạ hình SPECT 99mTc-MIBI là phương pháp có giá
trị bổ sung cho CT trong chẩn đoán UTP nguyên phát,
tiên lượng, đánh giá đáp ứng với xạ trị.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ghi hình phóng xạ ⁹⁹mTC-Mibi đánh giá đáp ứng với xạ trị ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013180
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMAry
48 patients with non-small cell lung cancer underwent a
99mTc-MIBI SPECT studies before starting and after radiotherapy
4-5 weeks. The results indicate that this method is valuable
coordinate with CT in evaluation of response to radiotherapy.
99mTc-MIBI SPECT imaging may be useful to differentiate between
necrotic tumor tissue and residual, recurrent lung lesions after
radiotherapy.
Key words: 99mTc-MIBI SPECT scan, non-small cell lung
cancer.
GHI HÌNH PHÓNG XẠ 99MTC-MIBI ĐÁNH GIÁ
ĐÁP ỨNG VỚI XẠ TRỊ Ở BỆNH NHÂN UNG
THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
The role of 99mTc-MIBI SPECT in the assesstment of
radiotherapy response in patients with non-small cell
lung cancer
Nguyễn Danh Thanh*, Hoàng Phú Lực**
* Học viện Quân Y
** Bệnh viện K
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 181
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi (UTP) là bệnh lý ác tính thường gặp
nhất và là nguyên nhân tử vong hàng đầu do ung thư ở
nhiều nước trên thế giới [6]. Ở Việt Nam, UTP gặp hàng
đầu ở nam giới, đứng hàng thứ 3 ở nữ giới sau ung thư
vú và ung thư dạ dày [5].
Trong thập kỷ gần đây, Y học hạt nhân (YHHN) có
những bước phát triển vượt bậc. Hình ảnh YHHN không
những cho biết các đặc điểm về hình ảnh cấu trúc mà
còn cho phép phân tích các đặc điểm về chức năng -
chuyển hóa của tổ chức-mô. Chụp xạ hình cắt lớp bằng
bức xạ positron (Positron Emission Tomography-PET)
hoặc bằng bức xạ đơn photon (Single Photon Emission
Computed Tomograph - SPECT) góp phần chẩn đoán
ung thư phổi, đánh giá giai đoạn bệnh, định hướng điều
trị phẫu thuật, dự báo đáp ứng với điều trị, phát hiện tái
phát sau hóa trị, xạ trị.
Tại Bệnh viện K Hà Nội, bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ được xạ trị đáp ứng với điều trị như
thế nào, làm sao theo dõi tái phát kịp thời, phân biệt
một ổ xơ hóa sau xạ trị với u tái phát... là những vấn đề
được đặt ra cho các nhà lâm sàng ung thư. Ghi hình
phóng xạ SPECT 99mTc-MIBI có giá trị trong chẩn đoán
ung thư nguyên phát và phân giai đoạn, theo dõi, đánh
giá, dự báo đáp ứng với điều trị [1, 2, 4].
Đề tài nghiên cứu được tiến hành với mục đích:
“Xác định giá trị của xạ hình SPECT 99mTc-MIBI trong
đánh giá đáp ứng với xạ trị ở bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Gồm 48 bệnh nhân có chẩn đoán xác định mô
bệnh học là ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III,
IV tại Bệnh viện K Hà Nội năm 2010-2011; không đồng
ý phẫu thuật cũng như điều trị bằng hóa chất, lựa chọn
phương pháp điều trị bằng tia xạ.
Bệnh nhân được xạ trị trên máy gia tốc LINAC
Primus. Mức năng lượng chùm tia X là 15 MeV, suất
liều 300 cGy/phút. Liều điều trị 66 Gy tại u và 66 Gy tại
hạch; nếu trên CT không thấy hạch (N0) thì tia xạ dự
phòng trung thất - rốn phổi 45 Gy. Phân liều điều trị: 2
Gy/ngày x 5 ngày/tuần.
Xạ hình SPECT phổi bằng 99mTc-MIBI lần 1 trước
xạ trị và lần 2 sau kết thúc xạ trị 4 -5 tuần. Kết quả trên
xạ hình được đọc độc lập bởi 2 bác sĩ chuyên ngành Y
học hạt nhân, nếu có chênh lệch thì trao đổi để thống
nhất kết luận. Đối chiếu so sánh SPECT với CT về khả
năng phát hiện tổn thương, hạch rốn phổi và trung
thất. Đánh giá đáp ứng với điều trị theo RECIST 2002
(Response Evaluation Criteria in Solid Tumors) [2].
Đánh giá đáp ứng xạ trị trên xạ hình SPECT
99mTc-MIBI:
Đánh giá bằng cách đối chiếu hình ảnh SPECT
sau xạ trị với trước xạ trị, theo 4 mức tương ứng với
CT để đối chiếu so sánh với CT.
+ Đáp ứng hoàn toàn: không còn hình ảnh tổn
thương (u và hạch) bắt xạ trên xạ hình.
+ Đáp ứng một phần: kích thước u trên xạ hình
giảm trên 50%, độ tập trung phóng xạ giảm so với trước
điều trị. Không phát hiện thêm tổn thương mới, hạch
mới trên xạ hình.
+ Bệnh giữ nguyên: tổn thương không giảm hoặc
giảm không đáng kể về kích thước, không giảm độ tập
trung phóng xạ. Không phát hiện tổn thương mới, hạch
mới trên xạ hình.
+ Bệnh tiến triển: độ tập trung phóng xạ tại u không
giảm, kích thước u tăng, có thể có tổn thương mới phát
hiện trên xạ hình.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của nhóm nghiên là 58,4 ± 8,1; trong
đó có 43,7% tuổi trên 60. Nam chiếm đa số (81,3%). Có
tỉ lệ cao nhất là bệnh nhân UTBM vảy (44,4%), sau đó
đến UTBM tuyến (38,9%), UTBM tế bào lớn 16,7%. U
phổi phải chiếm tỉ lệ 58,3%, u phổi trái 41,7%.
1. Thay đổi kích thước u sau xạ trị xác định trên CT
Kích thước u phổi xác định được trên phim CT từ
2,5 đến 13cm. 50% có kích thước u từ 3 - 6 cm. 40,7%
có kích thước trên 6cm, 9,3% bệnh nhân có kích thước
u dưới 3cm.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013182
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1. Thay đổi kích thước u trên CT sau xạ trị
Đáp ứng với điều
trị n
Kích thước u (cm)
Trước xạ trị Sau xạ trị
Đáp ứng hoàn toàn 8 5,4 ± 1,3 0
Đáp ứng một phần 25 6,1 ± 2,4 3,6 ± 1,8
Bệnh giữ nguyên 15 4,6 ± 1,8 5,8 ± 1,5
Tổng cộng 48 5,6 ± 2,2 2,8 ± 2,3
Kết quả cho thấy có 8 bệnh nhân đáp ứng hoàn
toàn, hết u trên CT (16,7%), 25 bệnh nhân đáp ứng một
phần (52,1%), 15 bệnh nhân có bệnh giữ nguyên và
tiến triển (không đáp ứng với xạ trị) chiếm 31,2%.
Có thể thấy, tính chung sau xạ trị kích thước u đã
giảm được 50%. Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn và đáp ứng
một phần chiếm 33/48 bệnh nhân 68,8%.
2. SPECT 99mTc- MIBI đánh giá đáp ứng với xạ trị
Trên hình ảnh SPECT 99mTc-MIBI 66,7% tổn
thương có độ tập trung phóng xạ tăng cao; 27,8% tăng
vừa, 5,5% tăng nhẹ.
Trong đánh giá đáp ứng với xạ trị, trên hình ảnh
CT chủ yếu dựa vào kích thước u, còn trên hình ảnh
SPECT vừa dựa vào kích thước u vừa dựa vào tính
chất tập trung phóng xạ của tổn thương. Hình ảnh chức
năng của SPECT giúp phân biệt xơ hóa phổi do chiếu
xạ với u còn tế bào ung thư đang hoạt động.
Bảng 2. Kết quả đánh giá đáp ứng với xạ trị của
CT và SPECT
Đáp ứng
với điều
trị
Kết
quả
trên
CT
Kết quả trên SPECT
Không
còn ổ bắt
xạ (đáp
ứng hoàn
toàn)
Kích thước
u giảm,
giảm bắt
xạ (đáp
ứng một
phần)
U không
giảm kích
thước
và độ
tập trung
phóng xạ
Hoàn toàn 8 5 3 0
Một phần 25 8 17 0
Hình 1. Độ tập trung phóng xạ tăng cao ở tổn thương (pha sớm)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013 183
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bệnh giữ
nguyên,
tiến triển
15 0 2 13
Cộng: 48 13 22 13
Trong 8 bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn, trên CT hết
u nhưng trên xạ hình của 3 bệnh nhân vẫn thấy hình
ảnh bắt xạ 99mTc-MIBI.
Ngược lại, trong số bệnh nhân nhóm đáp ứng một
phần: trên CT kích thước u giảm <50%, trên hình ảnh
SPECT có 8 bệnh nhân tế bào u sau điều trị không bắt
xạ, không còn chức năng sống. Hình ảnh trên CT có thể
chỉ là tổ chức xơ hóa phổi.
Trong 15 bệnh nhân được đánh giá bệnh giữ
nguyên hoặc tiến triển trên CT, trên xạ hình có 2 bệnh
nhân thấy giảm bắt xạ, ứng với trên SPECT là đáp ứng
một phần.
Như vậy, trong đánh giá đáp ứng với xạ trị, SPECT
có giá trị cùng với CT phân biệt những trường hợp xơ
hóa vẫn có hình ảnh khối u trên CT nhưng các tế bào
u đã không còn chức năng sống do đó sẽ âm tính trên
SPECT. Và ngược lại, có một số trường hợp khối u đã
tan hết không còn thấy trên CT, nhưng thực tế vẫn còn
sót lại một số tế bào ung thư lan tỏa nên trên SPECT
vẫn thấy hình ảnh bắt phóng xạ.
Tiên lượng, đánh giá kết quả đáp ứng với điều trị
rất quan trọng. Mặc dù FDG-PET được coi là kĩ thuật
Y học hạt nhân hiệu quả, chính xác với mục đích này,
nhưng giá thành còn khá cao đã hạn chế ứng dụng
của nó. So với PET/CT, SPECT bằng 99mTc-MIBI có giá
thành thấp, dễ ứng dụng rộng rãi hơn và cùng với CT
vẫn cho phép đánh giá đáp ứng với xạ trị trên bệnh
nhân UTP khá tốt.
Xạ hình SPECT 99mTc-MIBI là phương pháp có giá
trị bổ sung cho CT trong chẩn đoán UTP nguyên phát,
tiên lượng, đánh giá đáp ứng với xạ trị.
IV. KẾT LUẬN
Xạ hình SPECT 99mTc-MIBI ở bệnh nhân ung thư
phổi không tế bào nhỏ có giá trị bổ sung cho CT trong
đánh giá đáp ứng với xạ trị:
3 bệnh nhân sau xạ trị trên CT hết u nhưng trên xạ
hình vẫn thấy hình ảnh bắt xạ 99mTc-MIBI lan tỏa.
8 bệnh nhân sau xạ trị trên CT còn hình ảnh khối
u với kích thước giảm so với trước xạ trị nhưng trên
xạ hình SPECT 99mTc-MIBI không còn hình ảnh tổn
thương. Tế bào u không còn chức năng sống. Hình ảnh
trên CT có thể chỉ là tổ chức xơ hóa phổi.
Hình 2. Bệnh tiến triển, sau xạ trị vẫn còn u 5x3 cm.
Trên hình ảnh SPECT MIBI: hoại tử trung tâm.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 13 - 08 / 2013184
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Nguyễn Bá Đức và cs. (2010), “Báo cáo sơ
bộ kết quả thực hiện dự án quốc gia về phòng chống
UT giai đoạn 2008-2010”, Ung thư học Việt Nam, số
1/2010, tr. 21-26.
2. Trần Đình Hà (2009): Đánh giá vai trò của xạ
hình SPECT với 99mTc- MIBI ở bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ. Tạp chí Nghiên cứu Y học, số 3:
110-115.
3. Lê Văn Nguyên (2005): Nghiên cứu đặc điểm
hình ảnh xạ hình SPECT 99mTc-MIBI trong chẩn đoán
ung thư phổi nguyên phát. Luận văn Thạc sĩ, Học viện
Quân y.
4. Bùi Công Toàn, Đỗ Anh Tú, Trần Mai Phương
(2010), “Đánh giá kết quả bước đầu hóa xạ trị đồng
thời ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn IIIB
tại Bệnh viện K”, Ung thư học Việt Nam, số 1/2010,
tr.239- 243.
5. Mario Santini, Alfonso Fiorello, Luigi Mansi
(2008): The role of 99mTc-MIBI in the detection of
neoplastic lung lesions. European Association for
Cardio-Thoracic Surgery. Published by Elsevier B.V.
6. Nosotti M., Santambrogio L. (2002): Role of
99mTc-MIBI in the diagnosis and staging of lung cancer.
Chest., 122: 1361-1364.
TÓM TẮT
48 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được xạ hình SPECT 99mTc-MIBI trước xạ trị và sau xạ trị 4-5 tuần.
Kết quả cho thấy đây là phương pháp có giá trị bổ sung cho CT trong đánh giá đáp ứng với xạ trị, cho phép phân
biệt những trường hợp xơ hóa sau xạ trị, vẫn có hình ảnh khối u trên CT nhưng các tế bào u đã không còn chức
năng sống do đó sẽ âm tính trên SPECT; một số trường hợp khối u đã tan hết không còn thấy trên CT, nhưng thực
tế vẫn còn tế bào ung thư sót lại nên trên SPECT vẫn thấy hình ảnh bắt phóng xạ.
Từ khóa: xạ hình Tc-99m-MIBI; ung thư phổi không tê bào nhỏ.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: GS.TS Phan Sỹ An
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ghi_hinh_phong_xa_mtc_mibi_danh_gia_dap_ung_voi_xa_tri_o_ben.pdf