Có 14 ca có phân loại BI-RADS như nhau trên MMG và DBT, 8 ca có chẩn đoán BI-RADS thuộc nhóm lành tính
(C1,2,3) trên MMG được chuyển thành nhóm BI-RADS ác tính (C4 và 5) trên DBT, 9 trường hợp xếp loại BI-RADS
nghi ngờ ác tính trên MMG chuyển thành BI-RADS 3 trên DBT. Ngoài ra, có 22 trường hợp phân loại BI-RADS dưới
5 trên MMG được nâng thành BI-RADS 5 trên DBT. (Bảng 4).
So sánh độ phù hợp của hai phương pháp DBT và MMG trong phân loại BI-RADS cho chỉ số Kappa = 0,396,
tương ứng với mức độ phù hợp thấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong xếp loại tổn thương BI-RADS trên
DBT và MMG. DBT làm giảm số lượng tổn thương BI-RADS 4a - nghi ngờ ác tính thấp (hầu hết là các khối có đường
bờ bị che khuất), và tăng số lượng tổn thương BI-RADS nhóm lành tính hoặc nhóm ác tính, đặc biệt có sự tăng đáng
kể tổn thương BI-RADS 5. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Zuley và cộng sự (2013) (13). Nghiên cứu của
Yayoi Takamoto và cộng sự ở phụ nữ Nhật Bản cho thấy: 77 trong số 199 vú có tổn thương được xếp tương tự nhau
trên MMG và DBT (chiếm 75,5%). DBT cải thiện chẩn đoán so với DBT ở 24 vú (23,5%), tăng độ nhạy chẩn đoán
về khối, bất xứng khu trú hay biến dạng cấu trúc (17).
ánh giá phân loại BI-RADS cho các tổn thương
lành tính hoặc ác tính giữa MMG và DBT có mức độ
phù hợp thấp với κ = 0.285.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhận thấy DBT
cải thiện khả năng phát hiện và chẩn đoán UTV với độ
nhạy 94,9%, độ đặc hiệu 75%, giá trị chẩn đoán dương
tính 88,1%, giá trị chẩn đoán âm tính 88,2 %, độ chính
xác 88,1%. So với các giá trị tương ứng của MMG là
82,1%, độ 45%, 74,4%, 56,2%, 69,5%.
Kết quả trên phù hợp với một số nghiên cứu trên
thế giới. Nghiên cứu sàng lọc cộng đồng của Lei J và
cộng sự cho thấy, độ nhạy và độ đặc hiệu của DBT
trong phát hiện ung thư vú là 90% và 79%. Tỷ lệ phát
hiện ung thư bằng sử dụng DBT là 8 trường hợp và
của MMG là 6,1 trường hợp trong 1000 ca, tăng 31%
(18). Sahar Mansour và cộng sự so sánh DBT và MMG
trên 166 trường hợp, cho kết quả tương tự với độ nhạy,
độ đặc hiệu, độ chính xác của MMG là 60%, 20,7%
và 48%, khi kết hợp với DBT các chỉ số tăng đáng kể
94,5%, 74% và 89,7% (8).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của cắt lớp tuyến vú kĩ thuật số (DBT) trong chẩn đoán ung thư vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201746
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
*Khoa CĐHA Bệnh viện
Bạch Mai
The purpose of this study is to describe some imaging
findings and evaluate the role of digital breast tomosynthesis
(DBT) in diagnosis of breast cancer. The study was conducted
on 59 breasts of 59 patients with clinical signs or abnormal
imaging findings. The malignant or benign nature of the lesions
was established by histologic analysis of biopsied lesions or FNA
with follow-up.
Result: The common manifestations of cancer noted at
DBT include ill-defined mass, speculated margins, architectural
distortion and microcalcifications. DBT improved diagnostic
sensitivity for patients with mass and architectural distortion, and
allows a reclassification of the degree of BI-RADS. There was
slight to fair agreement for lesion type (k= 0 - 0.25) and BI-RADS
final assessment (k = 0.285 - 0.396). DBT improved diagnostic
performance compared to MMG, with Se = 94.9%, Sp = 75%,
PPV = 88.1%, NPV = 88.2%, Vg = 88.1%.
Conclusion: Our study showed fair agreement in lesion
detection and characterization between MMG and DBT images.
Our findings also demonstrated that DBT is a novel technique that
superior in detecting and diagnosing breast cancer compared to
MMG, especially in mass and architectural distortion.
Keywords: Digital breast tomosynthesis (DBT), mammography
(MMG), breast cancer.
GIÁ TRỊ CỦA CẮT LỚP TUYẾN VÚ
KĨ THUẬT SỐ (DBT) TRONG CHẨN ĐOÁN
UNG THƯ VÚ
The role of digital breast tomosynthesis
in diagnosis of breast cancer
Lại Thu Hương*, Lưu Hồng Nhung*, Phạm Minh Thông*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 47
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là loại ung thư phổ biến nhất
ở phụ nữ trên toàn thế giới, với gần 1,7 triệu trường
hợp mới mắc trong năm 2012 (chiếm 25% các ca
ung thư) và được xếp hạng thứ 5 nguyên nhân gây
tử vong do ung thư nói chung (522.000 trường hợp)
(1). Phát hiện sớm ung thư vú có thể làm giảm 30%
tỷ lệ tử vong (2).
MMG là phương thức cơ bản nhất trong hình ảnh
học tuyến vú, mặc dù hiện nay có nhiều phương thức
khác được sử dụng (3). Tuy nhiên trong MMG, tỷ lệ âm
tính giả dao động từ 8-60% ở những bệnh nhân có triệu
chứng, phụ thuộc nhiều vào mật độ nhu mô vú và loại
tổn thương. Những hạn chế này chủ yếu do hiện tượng
mô tuyến chồng lấp u, đặc biệt ở những tuyến vú đặc
hay đặc không đồng đều (4).
Khái niệm về Tomosynthesis đã được đề cập
đến từ những năm 1980, tuy nhiên, những rào cản
về công nghệ và chất lượng đầu thu chưa cho phép
phát triển kỹ thuật này. Ngày nay, tiến bộ trong công
nghệ đầu thu kỹ thuật số đã tạo điều kiện phát triển và
cho phép ứng dụng Tomosynthesis trong thực hành
lâm sàng (5). Trong chụp cắt lớp tuyến vú kĩ thuật số
(Digital Breast Tomosynthesis - DBT), nguồn phát tia
di chuyển một góc vòng cung phía trên vú, cho một
loạt các hình chiếu của toàn bộ vú, từ đó tái tạo thành
bộ ảnh nhiều lát cắt mỏng tới 1mm, do đó giảm hiện
tượng chồng hình (6). Trên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu thực hiện ở phụ nữ phương Tây và một số nước
châu Á, cho thấy ưu điểm của chụp cắt lớp tuyến vú
kĩ thuật số là tăng độ chính xác chẩn đoán ung thư
vú so với Xquang tuyến vú thông thường, đặc biệt tốt
hơn khi phát hiện và đánh giá tổn thương dạng khối,
biến dạng cấu trúc (6-8). Tuy nhiên tại Việt Nam, cho
tới nay chưa có báo cáo nghiên cứu chính thống nào
về vấn đề này.
Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu “Đặc điểm hình ảnh và giá trị của cắt lớp tuyến
vú kĩ thuật số (Digital breast tomosynthesis) trong chẩn
đoán ung thư vú”, với mục tiêu mô tả một số đặc điểm
hình ảnh và đánh giá giá trị của cắt lớp tuyến vú kĩ thuật
số (DBT) trong chẩn đoán ung thư vú.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng
a. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
- Có phim chụp XQ và cắt lớp tuyến vú cho bên vú
tổn thương
- Có triệu chứng trên lâm sàng hoặc bất thường
trên chẩn đoán hình ảnh
- Có kết quả mô bệnh học bằng sinh thiết kim hoặc
sau mổ
- Các trường hợp lành tính có kết quả tế bào học
và theo dõi trong vòng 6 tháng trở lên
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
b. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Đã có kết quả mô bệnh học là ung thư trước khi
thăm khám hình ảnh
- Các tổn thương vôi hóa lành tính đơn thuần
- Bệnh nhân có BIRADS 0 ở cả hai phương pháp,
cần làm thêm phương pháp hình ảnh khác
- Bệnh nhân đặt túi ngực, mang thai
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại khoa chẩn đoán
hình ảnh bệnh viện Bạch Mai, từ tháng 8-2015 đến
tháng 8-2016.
2.3. Phương tiện nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng máy chụp Xquang tuyến vú
kĩ thuật số Amulet Innovallity của hãng Fujifilm sản
xuất năm 2014. Hệ thống có thể thực hiện được cả 2
phương thức chụp MMG và DBT.
Vú tổn thương được chụp ở chế độ Standard mode,
với góc quét 150 (-7,50 đến + 7,50).
2.4. Cỡ mẫu: Lấy mẫu thuận tiện
2.5. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả tiến cứu
2.6. Cách thức tiến hành nghiên cứu
- Mỗi thăm khám DBT và MMG được thực hiện
trên 2 tư thế CC và MLO cho bên vú tổn thương
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201748
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
- Phân loại mật độ nhu mô tuyến vú
- Đánh giá các dấu hiệu quan trọng và phân loại
tổn thương theo BIRADS ban đầu trên phim MMG, chia
làm các nhóm (1) BIRADS 1, 2 và 3 - lành tính; (2)
BIRADS 4a, 4b, 4c và 5 - ác tính cao.
- Các ảnh chụp được phân tích lại lần 2 có sự kết
hợp cùng lúc cả phim MMG và DBT, đưa ra 1 phân loại
BIRADS khác.
- Giai đoạn thẩm định: gồm kết quả giải phẫu bệnh
qua sinh thiết kim dưới hướng dẫn siêu âm, sinh thiết
dưới định vị 3D, hoặc sinh thiết sau mổ, chọc tế bào
bằng kim nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm. Các BIRADS 3
còn lại và BIRADS 2 được quản lý theo hướng dẫn của
ACR bằng việc theo dõi: một tổn thương ổn định trong
vòng 1 năm được coi là lành tính. Nếu tổn thương tiển
triển sẽ xếp vào nhóm (2).
2.7. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
Phân tích số liệu bằng phần mềm thông kê SPSS
20.0.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện trên 59 bệnh nhân,
độ tuổi trung bình là 48,36 ± 11,06 tuổi. Trong đó bệnh
nhân trẻ tuổi nhất là 20 tuổi, bệnh nhân già nhất là 69
tuổi. Nhóm từ trên 40 tuổi có 48 bệnh nhân, chiếm
81,4% tổng số bệnh nhân. Trong số các bệnh nhân
của chúng tôi có 39 bệnh nhân (chiếm 66,1%) mắc ung
thư vú, tập trung chủ yếu ở nhóm trên 40 tuổi (61% tổng
số bệnh nhân).
Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu có đậm độ mô
vú thuộc nhóm vú đặc (đậm độ cao) chiếm 86,4%, trong
đó chủ yếu là tuýp c (theo phân loại BI-RADS).
Bảng 1. Một số đặc điểm hình ảnh cắt lớp tuyến vú
kĩ thuật số trong nhóm ung thư vú (n=39)
Đặc điểm MMG DBT κ
Có khối 33
(84,6%)
38
(97,4%)
0.25
Đường bờ 0.199
Khối bờ tua gai 8
(20,5%)
25
(64,1%)
Biến dạng cấu trúc 0.197
BDCT không gồm khối
0 (0%) 1 (2,6%)
Có đi kèm khối 7
(17,9%)
25
(64,1%)
Vôi hóa nghi ngờ 11
(28,2%)
14
(35,9%)
0.000
Các dấu hiệu tổn thương trên Xquang tuyến vú
đã được nghiên cứu trên cắt lớp tuyến vú và hệ thống
phân loại BI-RADS (9) cũng có thể được áp dụng hoàn
toàn cho hình ảnh DBT.
Dấu hiệu ung thư vú trên cắt lớp tuyến vú hay gặp
nhất là tổn thương hình khối, chiếm 94,4%. Trong đó
tổn thương biến dạng cấu trúc vú đi kèm khối chiếm
64,1%. Tiếp theo đó là vôi hóa chiếm tới 35,9%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổn thương dạng
khối mờ gồm 38/39 trường hợp ác tính, trong đó 25 ca
(64,1%) có hình dạng không đều. Đây là dấu hiệu hay
gặp nhất trong các dấu hiệu tổn thương, điều này rất
có ích trong việc khám phát hiện các bất thường tại
tuyến vú. Chỉ có 1 ca ung thư không biểu hiện dạng
khối mà có hình ảnh biến dạng cấu trúc tuyến vú trên
DBT, trường hợp này không phát hiện được trên MMG.
Tất cả các trường hợp khối được đánh giá có bờ tua
gai trên DBT đều là ung thư vú. Có 2 trường hợp khối
ung thư được đánh giá bờ ranh giới rõ trên DBT và xếp
loại BI-RADS 3 trên DBT, thì cả 2 có kết quả mô bệnh
học sau mổ là ung thư biểu mô tuyến chế nhầy. Các
dấu hiệu phụ bao gồm hạch nách, xâm lấn da, dày da
và co kéo núm vú được phát hiện số ca như nhau trên
DBT và MMG.
So sánh độ phù hợp chẩn đoán một số tổn thương
trên DBT và MMG, nhận thấy, các tổn thương dạng
khối, các đặc điểm đường bờ, biến dạng cấu trúc và vôi
hóa nghi ngờ cho chỉ số Kappa dao động từ 0 đến 0,25,
tương ứng với độ phù hợp thấp giữa hai phương pháp.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
một số tác giả khác. Theo Đỗ Doãn Thuận và cộng sự,
90,85% tổn thương dạng khối với đường bờ không đều
trên MMG là ung thư vú (10). Tuy nhiên, theo Nguyễn
Bùi Hồng Phượng, những khối mờ có giới hạn rõ trên
MMG vẫn có thể là ung thư, gặp trong ung thư biểu mô
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 49
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nhày hay tủy (11). Nghiên cứu của Kim, Sun Ah & cộng
sự (2015) cũng chỉ ra trường hợp ung thư biểu mô chế
nhày có đường bờ rõ trên DBT (12).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ảnh chụp MMG
xác định 11 khối có bờ bị che khuất, còn trên DBT giảm
chỉ còn 3 khối bờ viền mờ, do các khối được xác định
rõ bờ viền và xếp vào các nhóm bờ ranh giới rõ, không
đều, thùy múi hoặc tua gai. Hơn nữa có sự tăng lên
đáng kể số lượng khối có bờ tua gai trên DBT (25 tổn
thương) so với 8 tổn thương trên MMG. Điều này cho
thấy, bờ viền của khối được xác định tốt hơn trên DBT,
cho phép phân loại lại độ BI-RADS với các tổn thương
nghi ngờ, tăng lên cho các tổn thương ác tính và giảm
đi cho các tổn thương lành tính (13). Nghiên cứu của
Mun HS và cộng sự cũng cho thấy, chụp DBT nhạy hơn
15% so với MMG khi phát hiện tổn thương tuyến vú, và
có khả năng phân tích được rõ bờ viền của tổn thương,
làm thay đổi phân loại BIRADS mà không cần dùng
thêm phương pháp chẩn đoán hình ảnh nào khác (14)
Tổn thương biến dạng cấu trúc là dấu hiệu thường
gặp của ung thư vú trên DBT, và là đặc điểm chính
trong 12% trường hợp ung thư trên DBT. Tổn thương
biến dạng cấu trúc tuyến vú thường khá kín đáo và khó
nhìn được trên MMG, tuy nhiên có thể được phát hiện
tốt hơn trên DBT(15). Xác định một tổn thương biến
dạng cấu trúc khi chưa có biểu hiện của khối rất quan
trọng vì đây là dấu hiệu có giá trị dự đoán dương tính
cao, khoảng 60% (16).
Bảng 2. So sánh phân loại BI-RADS trong MMG và DBT
MMG
DBT
1 2 3 4a 4b 4c 5 Tổng
1 1 0 0 0 0 0 0 1
2 0 0 1 0 0 0 0 1
3 3 0 3 9 0 0 0 15
4a 3 0 1 2 0 0 0 6
4b 0 0 2 0 0 0 0 2
4c 1 0 0 1 2 0 0 4
5 1 0 0 4 10 7 8 30
Tổng 9 0 7 16 12 7 8 59
Có 14 ca có phân loại BI-RADS như nhau trên MMG và DBT, 8 ca có chẩn đoán BI-RADS thuộc nhóm lành tính
(C1,2,3) trên MMG được chuyển thành nhóm BI-RADS ác tính (C4 và 5) trên DBT, 9 trường hợp xếp loại BI-RADS
nghi ngờ ác tính trên MMG chuyển thành BI-RADS 3 trên DBT. Ngoài ra, có 22 trường hợp phân loại BI-RADS dưới
5 trên MMG được nâng thành BI-RADS 5 trên DBT. (Bảng 4).
So sánh độ phù hợp của hai phương pháp DBT và MMG trong phân loại BI-RADS cho chỉ số Kappa = 0,396,
tương ứng với mức độ phù hợp thấp.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong xếp loại tổn thương BI-RADS trên
DBT và MMG. DBT làm giảm số lượng tổn thương BI-RADS 4a - nghi ngờ ác tính thấp (hầu hết là các khối có đường
bờ bị che khuất), và tăng số lượng tổn thương BI-RADS nhóm lành tính hoặc nhóm ác tính, đặc biệt có sự tăng đáng
kể tổn thương BI-RADS 5. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Zuley và cộng sự (2013) (13). Nghiên cứu của
Yayoi Takamoto và cộng sự ở phụ nữ Nhật Bản cho thấy: 77 trong số 199 vú có tổn thương được xếp tương tự nhau
trên MMG và DBT (chiếm 75,5%). DBT cải thiện chẩn đoán so với DBT ở 24 vú (23,5%), tăng độ nhạy chẩn đoán
về khối, bất xứng khu trú hay biến dạng cấu trúc (17).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201750
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đánh giá phân loại BI-RADS cho các tổn thương
lành tính hoặc ác tính giữa MMG và DBT có mức độ
phù hợp thấp với κ = 0.285.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhận thấy DBT
cải thiện khả năng phát hiện và chẩn đoán UTV với độ
nhạy 94,9%, độ đặc hiệu 75%, giá trị chẩn đoán dương
tính 88,1%, giá trị chẩn đoán âm tính 88,2 %, độ chính
xác 88,1%. So với các giá trị tương ứng của MMG là
82,1%, độ 45%, 74,4%, 56,2%, 69,5%.
Kết quả trên phù hợp với một số nghiên cứu trên
thế giới. Nghiên cứu sàng lọc cộng đồng của Lei J và
cộng sự cho thấy, độ nhạy và độ đặc hiệu của DBT
trong phát hiện ung thư vú là 90% và 79%. Tỷ lệ phát
hiện ung thư bằng sử dụng DBT là 8 trường hợp và
của MMG là 6,1 trường hợp trong 1000 ca, tăng 31%
(18). Sahar Mansour và cộng sự so sánh DBT và MMG
trên 166 trường hợp, cho kết quả tương tự với độ nhạy,
độ đặc hiệu, độ chính xác của MMG là 60%, 20,7%
và 48%, khi kết hợp với DBT các chỉ số tăng đáng kể
94,5%, 74% và 89,7% (8).
A B
Hình 1. So sánh đặc điểm bờ viền khối: A. Ảnh
chụp MMG có khối bờ bị che khuất một phần, BIRADS
4a; B. Ảnh chụp DBT của cùng bệnh nhân xác định
khối có bờ thùy múi nhỏ và không đều, có tua gai, kèm
tổn thương biến dạng cấu trúc do khối, BIRADS 5. Mô
bệnh học: Ung thư biểu mô thể ống xâm nhập, độ II
A B
Hình 2. Đặc điểm biến dạng cấu trúc: A. Ảnh chụp
MMG: Không thấy tổn thương, xếp loại BI-RADS1; B.
Ảnh chụp DBT: Tổn thương biến dạng cấu trúc không
kèm theo khối, BIRADS 4c. Mô bệnh học: Ung thư
biểu mô thể ống xâm nhập, độ I
A B
Hình 3. Đặc điểm đường bờ khối: A. Ảnh chụp
MMG: khối có bờ bị che khuất một phần, BIRADS 4a;
B. Ảnh chụp DBT: khối đồng đậm độ, có bờ rõ nét,
BIRADS 2. Mô bệnh học: U xơ tuyến vú lành tính
IV. KẾT LUẬN
Các dấu hiệu tổn thương quan trọng trên DBT
trong chẩn đoán ung thư vú bao gồm các khối hình
Bảng 3. Phân bố BI-RADS của MMG và DBT theo giải phẫu bệnh
Giải phẫu bệnh
MMG DBT
Lành Ác Tổng Lành Ác Tổng
Không ung thư 9 11 20 15 5 20
Ung thư 7 32 39 2 37 39
Tổng 16 43 59 17 42 59
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 51
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
dạng không đều, khối mờ bờ tua gai, tổn thương biến
dạng cấu trúc và các vôi hóa nghi ngờ ác tính.
Hình ảnh cắt lớp tuyến vú kĩ thuật số (DBT) cho
phép phân tích chính xác hơn các đặc điểm về khối
và biến dạng cấu trúc so với MMG, do đó làm thay đổi
phân loại tổn thương BI-RADS. Hai phương pháp MMG
và DBT có độ phù hợp thấp trong chẩn đoán các đặc
điểm tổn thương (k = 0 - 0,25) và trong đánh giá phân
loại BI-RADS cuối cùng (k = 0,268 - 0,369)
DBT là phương thức chẩn đoán Xquang tuyến vú
mơi, cải thiện khả năng phát hiện và chẩn đoán UTV so
với MMG với độ nhạy 94,9%, độ đặc hiệu 75%, giá trị
chẩn đoán dương tính 88,1%, giá trị chẩn đoán âm tính
88,2 %, độ chính xác 88,1%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Erlay J SI, Ervik M, Dikshit R, Eser S, Mathers
C, Rebelo M, Parkin DM, Forman D. Cancer Incidence
and Mortality Worldwide.
2. Phí Ích Nghị, Võ Tấn Đức, Trương Hiếu Nghĩa.
Hình ảnh học tuyến vú và tầm soát ung thư vú. thành
phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản y học; 2009.
3. Humphrey LL, Helfand M, Chan BK, Woolf SH.
Breast cancer screening: a summary of the evidence
for the US Preventive Services Task Force. Annals of
internal medicine. 2002;137(5_Part_1):347-60.
4. Carney PA, Miglioretti DL, Yankaskas BC,
Kerlikowske K, Rosenberg R, Rutter CM, et al. Individual
and combined effects of age, breast density, and
hormone replacement therapy use on the accuracy of
screening mammography. Annals of internal medicine.
2003;138(3):168-75.
5. Andersson I, Ikeda DM, Zackrisson S, Ruschin
M, Svahn T, Timberg P, et al. Breast tomosynthesis and
digital mammography: a comparison of breast cancer
visibility and BIRADS classification in a population of
cancers with subtle mammographic findings. European
radiology. 2008;18(12):2817-25.
6. Skaane P, Bandos AI, Gullien R, Eben EB,
Ekseth U, Haakenaasen U, et al. Comparison of
digital mammography alone and digital mammography
plus tomosynthesis in a population-based screening
program. Radiology. 2013;267(1):47-56.
7. Takamoto Y, Tsunoda H, Kikuchi M, Hayashi N,
Honda S, Koyama T, et al. Role of breast tomosynthesis
in diagnosis of breast cancer for Japanese women.
Asian Pacific journal of cancer prevention : APJCP.
2013;14(5):3037-40.
8. Mansour S, Adel L, Mokhtar O, Omar OS.
Comparative study between breast tomosynthesis
and classic digital mammography in the evaluation
of different breast lesions. The Egyptian Journal of
Radiology and Nuclear Medicine. 2014;45(3):1053-61.
9. D’Orsi CJ. ACR BI-RADS Atlas: Breast Imaging
Reporting and Data System2013.
10. Đỗ Doãn Thuận. Nghiên cứu giá trị của chụp
Xquang và siêu âm trong chẩn đoán ung thư vú. 2008.
11. Nguyễn Thị Hồng Phượng. Lợi ích của chẩn
đoán hình ảnh trong những ung thư vú đánh dấu tiền
phẫu thuật. Nghiên cứu y học chuyên đề ung thư
Nghiên cứu y học TP Hồ Chí Minh. 2003;7:340-8.
12. Kim SA, Chang JM, Cho N, Yi A, Moon WK.
Characterization of breast lesions: comparison of digital
breast tomosynthesis and ultrasonography. Korean
journal of radiology. 2015;16(2):229-38.
13. Zuley ML, Bandos AI, Ganott MA, Sumkin JH,
Kelly AE, Catullo VJ, et al. Digital breast tomosynthesis
versus supplemental diagnostic mammographic views
for evaluation of noncalcified breast lesions. Radiology.
2013;266(1):89-95.
14. Mun H, Kim H, Shin H, Cha J, Ruppel P,
Oh H, et al. Assessment of extent of breast cancer:
comparison between digital breast tomosynthesis
and full-field digital mammography. Clinical radiology.
2013;68(12):1254-9.
15. Dang P, Humphrey K, Freer P, Halpern E,
Saksena M, Rafferty E. Comparison of lesion detection
and characterization in invasive cancers using breast
tomosynthesis versus conventional mammography
Radiological Society of North America Scientific
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201752
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Assembly and Annual Meeting Program Oak Brook, Ill:
Radiological Society of North America. 2013;156.
16. March D. Making the Diagnosis: A Practical
Guide to Breast Imaging. 2013.
17. Takamoto Y, Tsunoda H, Kikuchi M, Hayashi N,
Honda S, Koyama T, et al. Role of breast tomosynthesis
in diagnosis of breast cancer for Japanese women. Asian
Pacific Journal of Cancer Prevention. 2013;14(5):3037-40.
18. J L, P Y, L Z, al e. Diagnostic accuracy of digital
breast tomosynthesis versus digital mammography
for benign and malignant lesions in breasts: a meta-
analysis. Eur Radiol. 2014;24:595-602.
TÓM TẮT
Mục đích của nghiên cứu là mô tả một số đặc điểm hình ảnh và đánh giá giá trị của cắt lớp tuyến vú kĩ thuật
số (Digital Breast Tomosynthesis - DBT) trong chẩn đoán ung thư vú. Nghiên cứu được thực hiện trên 59 vú của 59
bệnh nhân nữ có bất thường trên lâm sàng hoặc chẩn đoán hình ảnh, có kết quả sinh thiết mô bệnh học hoặc tế
bào học kết hợp theo dõi định kì.
Kết quả: Các dấu hiệu hình ảnh quan trọng trên DBT trong chẩn đoán ung thư vú là tổn thương dạng khối
không đều, khối bờ tua gai, biến dạng cấu trúc và vi vôi hóa. DBT tăng độ nhạy chẩn đoán các đặc điểm về khối và
biến dạng cấu trúc so với MMG, do đó làm thay đổi phân loại tổn thương BI-RADS. Hai phương pháp MMG và DBT
có độ phù hợp thấp trong chẩn đoán các đặc điểm tổn thương (k = 0 - 0,25) và trong đánh giá phân loại BI-RADS (k
= 0,268 - 0,369). DBT nâng cao khả năng phát hiện và chẩn đoán UTV so với MMG với độ nhạy 94,9%, độ đặc hiệu
75%, giá trị chẩn đoán dương tính 88,1%, giá trị chẩn đoán âm tính 88,2 %, độ chính xác 88,1%.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự phù hợp thấp trong đánh giá các tổn thương ung thư vú giữa
DBT và MMG. DBT là phương pháp mới trong thực hành lâm sàng, có hiệu quả hơn trong phát hiện, chẩn đoán ung
thư vú so với MMG, đặc biệt khi đánh giá tổn thương dạng khối và biến dạng cấu trúc.
Từ khóa: Cắt lớp tuyến vú kĩ thuật số (DBT), Xquang tuyến vú (MMG), ung thư vú.
Người liên hệ: Lại Thu Hương Email: laithuhuong@gmail.com
Ngày nhận bài: 20.9.2016. Ngày chấp nhận đăng: 15.10.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_cua_cat_lop_tuyen_vu_ki_thuat_so_dbt_trong_chan_doan.pdf