Hơn nữa, một cơ chế tiềm năng khác giải thích
mối liên quan giữa hội chứng chuyển hóa và tình
trạng vitamin D thấp là thông qua kháng insulin.
Kháng insulin là nguyên nhân chủ yếu gây hội chứng
chuyển hóa, một nhóm các rối loạn có mối tương
quan với nhau, bao gồm béo phì, tăng glucose máu,
rối loạn lipid máu và tăng huyết áp [15]. Hoạt động
phân tử của vitamin D có liên quan đến việc duy trì
nồng độ khi nghỉ bình thường của các dạng oxy hoạt
động và Ca2+, không chỉ trong các tế bào, mà còn
trong các mô đáp ứng với insulin. Cả hai hoạt động
qua gen và không qua gen của vitamin D đều hướng
đến tín hiệu insulin.
Qua đó, vitamin D làm giảm mức độ bệnh lý liên
quan đến kháng insulin như stress oxy hóa và viêm.
Gần đây, người ta cũng chứng minh rằng vitamin D
ngăn ngừa sự thay đổi di truyền ngoài gen liên quan
đến kháng insulin và đái tháo đường [16].
Nghiên cứu của chúng tôi còn có các hạn chế nhất
định vì đây là một nghiên cứu cắt ngang. Một phân
tích tổng hợp đã cho thấy mối tương quan giữa tình
trạng vitamin D trong máu và tỷ lệ mắc hội chứng
chuyển hóa trong dân số trưởng thành nói chung
đã được thiết lập trong các nghiên cứu cắt ngang.
Tuy nhiên, mối liên quan đáng kể đã không được tái
tạo trong các nghiên cứu dọc [9]. Ngoài ra, chúng
tôi không thể xem xét các yếu tố như nồng độ calci,
hormon tuyến cận giáp có thể ảnh hưởng đến nồng
độ vitamin D trong máu. Điểm mạnh của nghiên cứu
này là các đối tượng chủ yếu chỉ đi khám sức khỏe,
vì thế tình trạng vitamin D và các thông số sinh hóa
liên quan đến hội chứng chuyển hóa được phản ánh
đúng hơn các đối tượng là người bệnh nhập viện.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của nồng độ 25-Hydroxyvitamin D huyết tương trong dự đoán hội chứng chuyển hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Trọng Nghĩa, email: trongnghia180179@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/10/2019, Ngày đồng ý đăng: 24/11/2019; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Giá trị của nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trong dự 
đoán hội chứng chuyển hóa
Nguyễn Trọng Nghĩa1, Nguyễn Thị Nhạn2, Đào Thị Dừa3
(1) Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(3) Bệnh viện Trung ương Huế 
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Hội chứng chuyển hóa là một tập hợp của các yếu tố nguy cơ chuyển hóa tim, có khuynh 
hướng nhóm lại với nhau ở các đối tượng bị ảnh hưởng hơn là dự đoán một cách tình cờ. Sự hiện diện của 
hội chứng chuyển hóa làm tăng đáng kể nguy cơ xuất hiện đái tháo đường típ 2, bệnh tim mạch, từ đó liên 
quan chặt chẽ đến quá trình lão hóa và một loạt các kết cục xấu. Ước tính hiện tại có khoảng 20 - 25% dân 
số thế giới bị ảnh hưởng bởi hội chứng chuyển hóa, tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa tăng theo độ tuổi và có 
hơn 45% số người trên 60 tuổi có hội chứng chuyển hóa. Các nghiên cứu gần đây cho thấy thiếu vitamin D 
rất phổ biến trên thế giới và là một yếu tố nguy cơ của hội chứng chuyển hóa. Mục tiêu nghiên cứu: (1) Nồng 
độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trên đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa. (2) Giá trị dự đoán của nồng 
độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trong hội chứng chuyển hóa. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng trên 318 đối tượng người trưởng thành đến 
khám sức khỏe tại Trung tâm Điều trị theo yêu cầu và quốc tế - Bệnh viện Trung ương Huế, trong đó nhóm 
bệnh gồm 139 đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa và nhóm chứng gồm 179 người khỏe mạnh. Hội chứng 
chuyển hóa được chẩn đoán theo đồng thuận của các tổ chức IDF, NHLBI, AHA, WHF, IAS, IASO năm 2009. 
Nồng độ 25-hydroxyvitamin D được đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch vi hạt hóa phát quang. Giá 
trị ngưỡng nồng độ 25-hydroxyvitamin D để dự đoán hội chứng chuyển hóa dựa vào phân tích ROC. Kết quả: 
Nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương ở đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa là 26,4 ng/ml, tỷ lệ thiếu 
25-hydroxyvitamin D huyết tương là 59,7% cao hơn nhóm chứng là 23,5% có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Giá 
trị ngưỡng nồng độ 25-OH-D để dự đoán hội chứng chuyển hóa là 26,4 ng/ml (AUC=0,657, độ nhạy 53,4%, 
độ đặc hiệu 71,6%). Kết luận: Trên 139 đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa, nồng độ 25-hydroxyvitamin 
D huyết tương là 26,4 ng/ml, tỷ lệ thiếu 25-hydroxyvitamin D huyết tương là 59,7%. Giá trị ngưỡng nồng độ 
25-hydroxyvitamin D huyết tương để dự đoán hội chứng chuyển hóa là 26,4 ng/ml.
Từ khóa: Hội chứng chuyển hóa, 25-hydroxyvitamin D.
Abstract
Cut off value of plasma 25-hydroxyvitamin D concentration for 
predicting metabolic syndrome
Nguyen Trong Nghia1, Nguyen Thi Nhan2, Dao Thi Dua3
(1) PhD Students of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Department of Internal Medicine, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(3) Hue Central Hospital
Background: The metabolic syndrome is a constellation of cardiometabolic risk factors that tend to cluster 
together in affected individuals more often than predicted by chance. The presence of the metabolic syndrome 
substantially increases the risk of developing type 2 diabetes and cardiovascular disease, and is associated 
with a range of adverse clinical outcomes, many of which are closely associated with aging. Current estimates 
suggest that approximately 20 - 25% of the world’s population is affected by the metabolic syndrome. The 
prevalence of the metabolic syndrome rises with age and more than 45% of people aged over 60 years 
have the metabolic syndrome. Recent studies show that low vitamin D status is very common in the world 
and this is a risk factor of metabolic syndrome. Objective: (1) Plasma 25-hydroxyvitamin D concentration 
in subjects with metabolic syndrome. (2) Cut off value of plasma 25-hydroxyvitamin D concentration for 
predicting metabolic syndrome. Material and method: A cross-sectional study with control group on 318 
adult subjects for health examinations at International Medical Center at Hue Central Hospital, including 
139 subjects with metabolic syndrome and control group of 179 healthy subjects. Metabolic syndrome was 
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.10
69
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng chuyển hóa là một tập hợp của các 
yếu tố nguy cơ chuyển hóa tim, có khuynh hướng 
nhóm lại với nhau ở các đối tượng bị ảnh hưởng hơn 
là dự đoán một cách tình cờ. Sự hiện diện của hội 
chứng chuyển hóa làm tăng đáng kể nguy cơ xuất 
hiện đái tháo đường típ 2, bệnh tim mạch, từ đó liên 
quan chặt chẽ đến quá trình lão hóa và một loạt các 
kết cục xấu. Ước tính hiện tại có khoảng 20-25% dân 
số thế giới bị ảnh hưởng bởi hội chứng chuyển hóa, 
tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa tăng theo độ tuổi 
và có hơn 45% số người trên 60 tuổi có hội chứng 
chuyển hóa [10]. Ở Việt Nam, trong một nghiên cứu 
dân số đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ 
lệ mắc hội chứng chuyển hóa là 12% ở người trưởng 
thành [11], một nghiên cứu khác trong nhóm dân số 
trung niên ở vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy tỷ 
lệ mắc hội chứng chuyển hóa là 16,3% [4] và trong 
một nghiên cứu ở khu vực nông thôn Thừa Thiên 
Huế cho thấy tỷ lệ người dân mắc hội chứng chuyển 
hóa là 19,2% [2].
Béo phì, đặc biệt là béo trung tâm hay béo thể 
nội tạng với sự lắng đọng lipid trong gan là một đặc 
điểm cốt lõi của hội chứng chuyển hóa [10]. Năng 
lượng được dự trữ quá mức trong mô mỡ và các cơ 
quan khác dưới dạng lipid, dễ gây ngộ độc lipid và tình 
trạng viêm do chuyển hóa, từ đó hoạt hóa các protein 
kinase trong tế bào và gây tổn thương các thành phần 
tín hiệu của insulin, và hậu quả là gây kháng insulin. 
Kháng insulin là nguyên nhân chủ yếu gây hội chứng 
chuyển hóa, một nhóm các rối loạn có mối tương quan 
với nhau, bao gồm béo phì, tăng glucose máu, rối loạn 
lipid máu và tăng huyết áp [15]. Sự kết hợp của các 
yếu tố di truyền, chuyển hóa và môi trường như chế 
độ ăn uống đóng một vai trò quan trọng trong sự phát 
triển của hội chứng chuyển hóa [6].
Thiếu vitamin D đang gia tăng ở mức độ toàn 
cầu và có liên quan đến tăng nguy cơ mắc các bệnh 
khác nhau. Hoạt động phân tử của vitamin D có 
liên quan đến việc duy trì nồng độ khi nghỉ bình 
thường của các dạng oxy hoạt động và Ca2+, không 
chỉ trong các tế bào, mà còn trong các mô đáp ứng 
với insulin. Cả hai hoạt động qua gen và không qua 
gen của vitamin D đều hướng đến tín hiệu insulin. 
Qua đó, vitamin D làm giảm mức độ bệnh lý liên 
quan đến kháng insulin như stress oxy hóa và viêm. 
Gần đây, người ta cũng chứng minh rằng vitamin D 
ngăn ngừa sự thay đổi di truyền ngoài gen liên quan 
đến kháng insulin và đái tháo đường [16]. Mối liên 
quan giữa giảm nồng độ vitamin D trong hội chứng 
chuyển hóa đã được chứng minh qua nhiều nghiên 
cứu [8], [14], [5], [12]. Vì vậy, mối liên quan giữa 
tình trạng vitamin D trong hội chứng chuyển hóa là 
một vấn đề cần được nghiên cứu nhiều hơn để tìm 
ra một yếu tố nguy cơ mới trong hội chứng chuyển 
hóa. Chúng tôi thực hiện đề tài “Giá trị của nồng 
độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trong dự đoán 
hội chứng chuyển hóa” với mục tiêu sau: (1) Nồng 
độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trên đối tượng 
mắc hội chứng chuyển hóa. (2) Giá trị dự đoán của 
nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương trong hội 
chứng chuyển hóa.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: gồm 318 đối tượng người 
trưởng thành đi khám sức khỏe, chia làm 2 nhóm:
- Nhóm bệnh: 139 đối tượng mắc hội chứng 
chuyển hóa. Chẩn đoán hội chứng chuyển hóa dựa 
theo tuyên bố đồng thuận của IDF, NHLBI, AHA, 
WHF, IAS, IASO năm 2009 [1]: khi có ít nhất 3 trong 
5 yếu tố sau: Tăng vòng bụng: vòng bụng ≥90 cm 
đối với nam, ≥ 80 cm đối với nữ. Tăng triglycerid 
máu ≥ 150 mg/dl (≥ 1,7 mmol/l), hoặc đã được chẩn 
đoán và điều trị. Giảm HDL-Cholesterol máu < 40 
mg/dl (1,03 mmol/l) đối với nam: <50 mg/dl (< 1,29 
mmol/l) đối với nữ, hoặc đã được chẩn đoán và điều 
trị. Huyết áp tăng ≥ 130/85 mmHg hoặc tăng huyết 
áp đã được chẩn đoán và điều trị. Tăng glucose máu 
lúc đói ≥ 100 mg/dl (≥ 5,6 mmol/l), hoặc đái tháo 
đường típ 2 đã được chẩn đoán và điều trị.
defined according to the IDF, NHLBI, AHA, WHF, IAS, IASO (2009). Plasma hydroxyvitamin D concentration 
was measured using chemiluminescent microparticle immunoassay. Reciever operating characteristic (ROC) 
curve were generated to assess sensitivity and specificity for different cut off value of 25-hydroxyvitamin 
D concentration for predicting metabolic syndrome. Results: Plasma 25-hydroxyvitamin D concentration 
in subjects with metabolic syndrome was 26.4 ng/ml, incidence of plasma 25-hydroxyvitamin D deficiency 
(59.7%) was significantly higher than in control group (23.5%) (p < 0.001). The optimal cut off point for 
25-OH-D concentration for predictor of metabolic syndrome as 26.4 ng/ml (AUC=0.657, sensitivity=53.4%, 
specificity=71.6%). Conclusion: In 139 subjects with metabolic syndrome, the plasma 25-hydroxyvitamin D 
concentration was 26.4 ng/ml and the incidence of 25-hydroxyvitamin D deficiency in the metabolic syndrome 
group was 59.7%. The optimal cut off point for plasma 25-hydroxyvitamin D concentration for predictor of 
metabolic syndrome as 26.4 ng/ml. 
Key words: Metabolic syndrome, 25-hydroxyvitamin D.
70
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Tiêu chuẩn loại trừ: Các đối tượng không đồng ý 
tham gia nghiên cứu, đang mang thai, đang sử dụng 
các thuốc có chứa vitamin D, đang mắc các bệnh cấp 
tính, các đối tượng có các bệnh lý mạn tính nặng: 
xơ gan, suy thận mạn, dùng corticoid dài ngày (>1 
tháng), các đối tượng bị dị tật vùng bụng, cột sống 
lồng ngực, các đối tượng không thể tự đứng được, 
các đối tượng giảm sút trí tuệ nặng.
- Nhóm chứng: 179 người khỏe mạnh có cùng 
độ tuổi và giới so với nhóm bệnh và không mắc hội 
chứng chuyển hóa, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 
có đối chứng. Các biến số nghiên cứu bao 
gồm tuổi, giới, chỉ số nhân trắc, các thành tố 
của hội chứng chuyển hóa và nồng độ 25-hy-
droxyvitamin D (25-OH-D) huyết tương được 
đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch 
vi hạt hóa phát quang được tiến hành tại Trung tâm 
điều trị theo yêu cầu và quốc tế - Bệnh viện Trung 
ương Huế, xác định thiếu vitamin D theo điểm cắt 
dựa vào phân tích ROC.
Cỡ mẫu: Lấy mẫu thuận tiện.
Xử lý và phân tích số liệu: bằng phương pháp 
thống kê y học và sử dụng phần mềm SPSS 22.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên 139 đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa và 179 người khỏe mạnh làm nhóm chứng, 
chúng tôi ghi nhận một số kết quả như sau:
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
 Nhóm nghiên cứu
Thông số
Nhóm chứng (n=179) Nhóm bệnh (n=139)
p
n % n %
Giới
Nam 84 46,9 56 40,3
> 0,05
Nữ 95 53,1 83 59,7
Tuổi
18 – 29 5 2,8 4 2,9 > 0,05
30 – 39 30 16,8 19 13,7 > 0,05
40 – 49 61 34,1 42 30,2 > 0,05
50 – 59 53 29,6 42 30,2 > 0,05
60 – 69 22 12,3 22 15,8 > 0,05
≥ 70 8 4,5 10 7,2 > 0,05
49,06 ± 11,24 50,99 ± 11,79 > 0,05
Vòng bụng 78,13 ± 8,62 87,81 ± 6,85 < 0,001
Triglycerid 1,44 ± 0,90 3,04 ± 2,23 < 0,001
HDL-Cholesterol 1,32 ± 0,31 1,09 ± 0,22 < 0,001
HATT 113,51 ± 17,84 137,66 ± 21,26 < 0,001
HATTr 70,42 ± 9,42 80,36 ± 9,57 < 0,001
Glucose máu 5,26 ± 9,77 6,18 ± 1,44 < 0,001
Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới và tuổi giữa nhóm bệnh và nhóm chứng (p > 
0,05); Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các thành tố hội chứng chuyển hóa giữa nhóm bệnh và nhóm 
chứng (< 0,001).
Bảng 2. Đặc điểm nồng độ 25-OH-D (ng/ml) nhóm nghiên cứu
 Nhóm nghiên cứu
25-OH-D 
Nhóm chứng (n=179) Nhóm bệnh (n=139)
p
n % n %
Thiếu 42 23,5 83 59,7
< 0,001
Bình thường 137 76,5 56 40,3
32,26 ± 7,71 25,83 ± 6,45 –
Trung vị
(khoảng tứ phân vị)
31,46
(26,7 – 36,1)
24,7
(21,2 – 29,4)
< 0,001
71
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Nhận xét: Nồng độ 25-OH-D ở nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tỷ lệ 
thiếu 25-OH-D ở nhóm chứng là 23,5%, nhóm bệnh là 59,7% (p<0,001).
Biểu đồ 1. Điểm cắt nồng độ 25-OH-D (ng/ml) ở nhóm bệnh và nhóm chứng
Nhận xét: Với điểm cắt ≤ 26,4 ng/ml, nồng độ 25-OH-D có giá trị trong dự đoán hội chứng chuyển hóa, với 
độ nhạy 53,4%, độ đặc hiệu 71,6%, diện tích dưới đường cong ROC: 0,657.
4. BÀN LUẬN
Nghiên cứu này nhằm xác định nồng độ 
25-hydroxyvitamin D ở người mắc hội chứng chuyển 
hóa và xác định điểm cắt nồng độ 25-hydroxyvitamin 
D giúp dự đoán hội chứng chuyển hóa. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi ở 139 đối tượng mắc hội 
chứng chuyển hóa cho thấy nồng độ 25-OH-D là 
26,4 ng/ml và tỷ lệ thiếu vitamin D là 59,7%. Theo 
nghiên cứu của Nongluk Phetkrajaysang và cộng sự, 
tỷ lệ thiếu vitamin D ở 300 đối tượng mắc hội chứng 
chuyển hóa là 40,7% [14]. Nghiên cứu của Gradillas-
García và cộng sự ở 92 đối tượng mắc hội chứng 
chuyển hóa có tỷ lệ thiếu vitamin D là 67,4% [8]. Tỷ 
lệ thiếu vitamin D ở đối tượng thanh thiếu niên và 
thanh niên mắc hội chứng chuyển hóa trong nghiên 
cứu của Junling Fu và cộng sự lên đến 80,7% [7]. Từ 
kết quả của các nghiên cứu trên cho chúng ta thấy 
tỷ lệ thiếu vitamin D cao hơn ở người mắc hội chứng 
chuyển hóa. 
Dữ liệu dịch tễ học cho thấy thiếu vitamin D 
trong các quần thể khác nhau đã trở thành một hiện 
tượng phổ biến. Người ta cho rằng giảm nồng độ 
vitamin này trong máu có thể tương quan với sự 
xuất hiện của bệnh lý chuyển hóa. Các khiếm khuyết 
dạng hydroxyl hóa của vitamin D, cũng như nồng 
độ thấp đáng kể phần vitamin D có khả dụng sinh 
học được phát hiện nhiều hơn trong nhóm người 
mắc hội chứng chuyển hóa. Cơ chế đằng sau sự 
giảm nồng độ 25-OH-D trong bệnh béo phì thể nội 
tạng (cơ sở để chẩn đoán hội chứng chuyển hóa) 
vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn [13]. Các cách giải 
thích khác nhau đã được đề xuất cho tình trạng 
thiếu vitamin D liên quan đến béo phì bao gồm: Pha 
loãng thể tích có nghĩa là nồng độ vitamin D trong 
máu giảm vì tăng kích thước cơ thể và do đó tăng 
dự trữ ở mô mỡ; Sự khác biệt trong lối sống giữa 
người béo phì và người gầy: người béo phì có thể 
nhạy cảm về hình thể, tham gia các hoạt động ngoài 
trời ít hơn, che đậy và mặc nhiều quần áo hơn người 
gầy và điều này làm giảm tiếp xúc với ánh nắng mặt 
trời; Sự khác biệt về khả năng hoạt hóa vitamin D 
giữa người béo phì và người gầy; Sự cô lập vitamin D 
trong mô mỡ: sự cô lập có nghĩa là hấp thu vitamin D 
qua ăn uống và tổng hợp ở da được liên kết chặt chẽ 
trong các kho chứa chất béo và do đó không được 
giải phóng thích hợp vào tuần hoàn để cung cấp 25-
OH-D lưu hành trong máu, ngoài ra các báo cáo cho 
rằng các đối tượng béo phì có đáp ứng yếu hơn với 
liều tia cực tím tiêu chuẩn so với người có cân nặng 
bình thường [3].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đường cong 
ROC thiết lập điểm cắt 26,4 ng/ml để dự đoán nguy 
cơ phát triển hội chứng chuyển hóa phụ thuộc vào 
giá trị 25-OH-D với độ nhạy 53,4%, độ đặc hiệu 
71,6%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,657. Kết 
quả này tương đương với nghiên cứu của Carnero 
và Antonio xác định điểm cắt của nồng độ 25-OH-
D là 26 ng/ml để dự đoán nguy cơ phát triển hội 
chứng chuyển hóa với độ nhạy 72,2%, độ đặc hiệu 
66,4%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,697 [5]. 
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Yanhui Lu và cộng 
sự có điểm cắt thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi 
là 15,6 ng/ml với với độ nhạy 67,0%, độ đặc hiệu 
39,0%, diện tích dưới đường cong ROC là 0,662 [12]. 
72
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Mối liên quan giữa tình trạng vitamin D và hội 
chứng chuyển hóa có thể được giải thích bởi các 
thụ thể vitamin D được phân phối trên cơ trơn 
mạch máu, tế bào nội mạc và cơ tim. Vitamin D ức 
chế biểu hiện gen renin, điều hòa sự tăng trưởng 
và tăng sinh của các tế bào cơ trơn mạch máu, 
tế bào cơ tim và ức chế giải phóng cytokin từ tế 
bào lympho. Do đó, việc không kích hoạt thụ thể 
vitamin D dẫn đến sự điều hòa tăng cường của hệ 
thống renin-angiotensin, cuối cùng dẫn đến tăng 
huyết áp, phì đại thất trái và tăng khả năng mắc hội 
chứng chuyển hóa [17]. 
Hơn nữa, một cơ chế tiềm năng khác giải thích 
mối liên quan giữa hội chứng chuyển hóa và tình 
trạng vitamin D thấp là thông qua kháng insulin. 
Kháng insulin là nguyên nhân chủ yếu gây hội chứng 
chuyển hóa, một nhóm các rối loạn có mối tương 
quan với nhau, bao gồm béo phì, tăng glucose máu, 
rối loạn lipid máu và tăng huyết áp [15]. Hoạt động 
phân tử của vitamin D có liên quan đến việc duy trì 
nồng độ khi nghỉ bình thường của các dạng oxy hoạt 
động và Ca2+, không chỉ trong các tế bào, mà còn 
trong các mô đáp ứng với insulin. Cả hai hoạt động 
qua gen và không qua gen của vitamin D đều hướng 
đến tín hiệu insulin. 
Qua đó, vitamin D làm giảm mức độ bệnh lý liên 
quan đến kháng insulin như stress oxy hóa và viêm. 
Gần đây, người ta cũng chứng minh rằng vitamin D 
ngăn ngừa sự thay đổi di truyền ngoài gen liên quan 
đến kháng insulin và đái tháo đường [16].
Nghiên cứu của chúng tôi còn có các hạn chế nhất 
định vì đây là một nghiên cứu cắt ngang. Một phân 
tích tổng hợp đã cho thấy mối tương quan giữa tình 
trạng vitamin D trong máu và tỷ lệ mắc hội chứng 
chuyển hóa trong dân số trưởng thành nói chung 
đã được thiết lập trong các nghiên cứu cắt ngang. 
Tuy nhiên, mối liên quan đáng kể đã không được tái 
tạo trong các nghiên cứu dọc [9]. Ngoài ra, chúng 
tôi không thể xem xét các yếu tố như nồng độ calci, 
hormon tuyến cận giáp có thể ảnh hưởng đến nồng 
độ vitamin D trong máu. Điểm mạnh của nghiên cứu 
này là các đối tượng chủ yếu chỉ đi khám sức khỏe, 
vì thế tình trạng vitamin D và các thông số sinh hóa 
liên quan đến hội chứng chuyển hóa được phản ánh 
đúng hơn các đối tượng là người bệnh nhập viện. 
5. KẾT LUẬN
Trên 139 đối tượng mắc hội chứng chuyển hóa, 
nồng độ 25-hydroxyvitamin D huyết tương là 26,4 
ng/ml, tỷ lệ thiếu 25-hydroxyvitamin D huyết tương 
là 59,7%. Giá trị ngưỡng nồng độ 25-OH-D để dự 
đoán hội chứng chuyển hóa là 26,4 ng/ml.
1. Bộ Y tế (2013), Nội tiết chuyển hóa, Nhà xuất bản Y 
học, tr 355.
2. Nguyễn Thị Hường, Đoàn Phước Thuộc, Lê Văn Chi 
(2018), Giá trị của vòng bụng và tỷ vòng bụng/vòng mông 
trong tiên đoán hội chứng chuyển hóa của người dân tại 
hai xã của huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí 
Y Dược học, tập 8, số 6, tr 27-33.
3. Abbas M. A. (2017), “Physiological functions of Vita-
min D in adipose tissue”, The Journal of steroid biochemis-
try and molecular biology. 165, pp. 369-381.
4. Binh TQ, Phuong PT, Nhung BT (2014), “Metabol-
ic syndrome among a middle-aged population in the Red 
River Delta region of Vietnam”, BMC endocrine disorders. 
14 (1), pp. 77.
5. Carnero R, Antonio E. (2019), “SUN-138 Association 
Between The Deficit Of 25 (oh) Vitamin D, Metabolic Syn-
drome And New Onset Of Type 2 Diabetes”, Journal of the 
Endocrine Society. 3 (Suppl 1), pp. SUN-138.
6. Desai M, Jellyman J, Ross M (2015), “Epigenom-
ics, gestational programming and risk of metabolic syn-
drome”, International journal of obesity. 39 (4), pp. 633.
7. Fu, J., L. Han, Y. Zhao, G. et al. (2018). “Vitamin D lev-
els are associated with metabolic syndrome in adolescents 
and young adults: The BCAMS study” Clinical Nutrition.
8. Gradillas-García, A., J. Álvarez, J. A. Rubio et al. 
(2015). “Relationship between vitamin D deficiency and 
metabolic syndrome in adult population of the Communi-
ty of Madrid”, Endocrinología y Nutrición (English Edition) 
62(4): 180-187.
9. Ju, S. Y., Jeong, H. S., Kim, D. H, et al. (2014), “Blood 
vitamin D status and metabolic syndrome in the general 
adult population: a dose-response meta-analysis”, J Clin 
Endocrinol Metab. 99 (3), pp. 1053-1063.
10. Krentz AJ, Scuteri A (2017), “Insulin resistance and 
the metabolic syndrome”, Diabetes in Old Age, pp. 177-
212.
11. Kunii D, Hung NTK, Sakai T, Yamamoto S et al 
(2005), “The metabolic syndrome: prevalence and risk 
factors in the urban population of Ho Chi Minh City”, Di-
abetes research and clinical practice. 67 (3), pp. 243-250.
12. Lu, Y., Liu, M., Pei, Y., et al. (2015), “Low levels of 
serum 25-hydroxyvitamin D and risk of metabolic syn-
drome in China”, International journal of clinical and ex-
perimental medicine. 8 (8), pp. 13790-13796.
13. Pelczyńska, M., Grzelak, T., Sperling, M., et al. 
(2017). “Impact of 25-hydroxyvitamin D, free and bioavail-
able fractions of vitamin D, and vitamin D binding protein 
levels on metabolic syndrome components” Archives of 
medical science: AMS 13(4): 745.
14. Phetkrajaysang N, Sansanayudh N, Wongwiwat-
thananukit S, Krittiyanunt S (2013), “Prevalence of vitamin 
D deficiency and association of serum vitamin D level with 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
73
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
anthropometric and metabolic factors in metabolic syn-
drome patients”, Asian Biomedicine. 7 (2), pp. 227-235.
15. Qi Y, Guo X, Guo S (2016), “Insulin Resistance in 
Obesity”, In: Ahima RS, editor. Metabolic Syndrome: A 
Comprehensive Textbook, Springer International Publish-
ing, Cham, pp. 479-504.
16. Szymczak-Pajor I, Śliwińska A (2019), “Analysis of 
Association between Vitamin D Deficiency and Insulin Re-
sistance”, Nutrients. 11 (4), pp. 794.
17. Wang, T., Pencina, M., Booth, S., et al. (2008), Vita-
min D deficiency and risk of cardiovascular disease Circu-
lation. 2008 Jan 29; 117 (4): 503-11, Epub.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 gia_tri_cua_nong_do_25_hydroxyvitamin_d_huyet_tuong_trong_du.pdf gia_tri_cua_nong_do_25_hydroxyvitamin_d_huyet_tuong_trong_du.pdf