Trong nghiên cứu của chúng tôi diện tích
dưới đường cong ROC là 81% với p < 0,05, như
vậy nồng độ PCT có khả năng phân biệt tốt VTC
nặng và VTC nhẹ tương tự kết quả của NTK Thúy
và TN Ánh[1] điểm cut-off của PCT là 0,965ng/ml
với độ nhạy 92,2%, độ đặc hiệu 96,2%, diện tích
dưới đường cong ROC là 0,964 với p= 0,000 có
giá trị cao trong phân biệt VTC hoại tử và không
hoại tử. Kết quả của chúng tôi thấp hơn của Woo
SM thì mức cut-off có hiệu quả nhất cho nồng độ
PCT huyết thanh được ước lượng khoảng 1,77ng/
ml với diện tích dưới đường cong ROC là 0,797 và
thấp hơn Muler A và cộng sự [2,11 ], theo tác giả
giá trị cut-off>3,5 ng/ml có ý nghĩa trong việc đánh
giá VTC hoại tử và suy tạng với độ nhạy và độ đặc
hiệu tương ứng là 93% và 98%. Có sự khác biệt
này có lẽ vì đối tượng nghiên cứu của 2 tác giả
trên là đối tượng nghiên cứu của họ gồm nhiều
bệnh nhân VTC nặng có nguy cơ phẫu thuật cao,
được thu thập từ 5 trung tâm phẫu thuật châu Âu
trong vòng 96 giờ sau khi khởi phát triệu chứng,
còn chúng tôi và NTK Thúy và TN Ánh nghiên
cứu bệnh nhân VTC điều trị tại cơ sở nội khoa [1].
Kylanpaa Back nhận thấy PCT có giá trị tiên lượng
VTC nặng với độ nhạy 92%, độ đặc hiệu 84%, đặc
biệt giá trị dự đoán âm tính khá cao 97% trong dự
đoán sự duy đa tạng [12]. Mofidi cũng có nhận xét
tương tự: PCT có giá trị dự báo VTC nặng với độ
nhạy 72%, độ đặc hiệu 86%, AUC = 0,817 [13].
Berger nhận thấy PCT > 1,8 ng/ml, APACHE II >
8, CRP > 120 mg/dl, Hct > 44% là những yếu tố
chính dự báo tiên lượng nặng ở bệnh nhân VTC.
PCT > 3,8 ng/ml có giá trị dự báo suy đa tạng với
tỷ lệ chẩn đoán đúng là 92%, độ nhạy 80%, độ
đặc hiệu 90% [14]. Giá trị cut-off của tác giả Woo
SM ≥1,77ng/ml để phân biệt VTC nặng và VTC
nhẹ theo Atlanta có 32 bệnh nhân VTC có nồng độ
PCT ≥1,77ng/ml [2].
Azab đã đưa ra sự vuợt trội của tỷ lệ BCĐNTT/
LY (AUC = 0,649) để dự đoán nhập viện điều trị
tích cực so với số lượng bạch cầu (AUC = 0,6001)
[3]. Theo Zahorec R (2001), tỷ lệ BCĐNTT/LY
và lypho bào có giá trị cao hơn rất nhiều so với
CRP, bạch cầu, bạch cầu trung tính trong dự báo
về nhiễm khuẩn trong môi trường chăm sóc cấp
cứu. Tỷ lệ BCĐNTT/LY trung bình là 20,9 ± 13,3,
độ nhạy 77,2%, độ đặc hiệu 63%, diện tích dưới
đường cong AUC = 0,73; 95%CI = 0,66 - 0,81 [15].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính/lympho bào, protein phản ứng C, procalcitonin trong tiên lượng viêm tụy cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX320
I. đẶT VẤN đỀ
20% trường hợp viêm tuỵ cấp (VTC) có tiến
triển lâm sàng nặng, tỷ lệ tử vong VTC nặng với
biến chứng nhiễm trùng vào khoảng 10-30% và có
thể tăng lên đến 50% khi có suy tạng tiếp diễn. Ở
Việt Nam gần đây VTC có xu hướng gia tăng [1].
Diễn biến của VTC rất phức tạp, khó lường trước.
Vì vậy việc đánh giá mức độ nặng trong 24 giờ
đầu và trong quá trình tiến triển của bệnh để lựa
chọn phương pháp điều trị tối ưu và phòng các
biến chứng của bệnh là rất cần thiết. Có rất nhiều
phương pháp đánh giá mức độ nặng của VTC
như thang điểm Ranson 1974, thang điểm Imrie
(Glasgow) 1984, APACHE II (1985) và dựa vào
chụp cắt lớp vi tính (CTSI)[2]. Các nghiên cứu về
các chỉ số huyết học, sinh hóa để tiên lượng VTC
đã được đề cập nhiều trong các nghiên cứu gần
đây. Gần đây đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới
về giá trị tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính/ lympho
bào (BCĐNTT/LY), đánh giá tiên lượng mức độ
nặng nhẹ VTC trong vòng 48 giờ đầu nhập viện
và xác định một tỷ lệ tối ưu để dự báo tình trạng
nặng của bệnh [3],[4]. Ở Việt Nam nghiên cứu về
Protein C phản ứng, Procalcitonin huyết thanh
trong VTC được thực hiện trong những năm gần
đây, nhưng chưa có nghiên cứu nào được công
bố về giá trị của tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính
trên lympho bào ở bệnh nhân VTC. Chính vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu với hai mục tiêu:
Nghiên cứu sự thay đổi và giá trị tiên lượng tỷ lệ
bạch cầu đa nhân trung tính/ lympho bào, nồng độ
Protein phản ứng C và Procalcitonin ở bệnh nhân
viêm tụy cấp.
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
120 bệnh nhân chẩn đoán xác định VTC theo
hội nghị tiêu hóa thế giới năm 2002 [2] tại Khoa
Tiêu hóa và Khoa Điều trị tích cực - Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 11/2013 - 7/2014: Đau thượng
vị kết hợp với amylase máu ≥ 3 lần giá trị bình
thường cao nhất hoặc một chẩn đoán hình ảnh rõ.
Tiêu chuẩn loại trừ: VTC nhưng có các bệnh
viêm nhiễm kèm theo.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu: Tế bào máu
ngoại vi, CRP; Procalcitonin - PCT: được làm tại
Khoa Huyết học Bạch Mai, Khoa Hóa sinh - Bệnh
viện Bạch Mai
Chẩn đoán hình ảnh (siêu âm ổ bụng, Cắt lớp
bụng) được thực hiện tại Khoa Chẩn đoán hình
ảnh Bệnh viện Bạch Mai.
Tiêu chuẩn Atlanta 1992 về VTC nặng[2]:
Viêm tụy cấp nặng: khi có một trong những tiêu
chuẩn sau: Suy tạng; Biến chứng tại chỗ: Hoại
tử, áp xe hoặc nang giả tụy; Imrie ≥ 3 hoặc điểm
Ranson ≥ 3; Điểm APATCHE II ≥ 8. Viêm tụy cấp
nhẹ: VTC có kết hợp với rối loạn chức năng tạng
ở mức tối thiểu và sự hồi phục nhanh chóng không
để lại dấu vết gì.
Đánh giá VTC theo bảng điểm Balthazar và
CTSI; bảng điểm Imrie, bảng điểm APACHE II [2].
3. Xử lý số liệu: phần mềm SPSS 16.0.
GIÁ TRỊ CỦA TỶ LỆ BẠCH CẦU đA NHÂN TRUNG TÍNH/LYMPHO BàO,
PROTeIN PHẢN ỨNG C, PROCALCITONIN
TRONG TIÊN LƯỢNG VIÊM TỤY CẤP
thái thị thu*, trần ngọc Ánh**
*Bệnh viện Hữu Nghị, **Trường Đại học Y Hà Nội
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 321
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi trung bình của bệnh nhân VTC là 46,2 ± 12,0; nam chiếm 84,2% nam/nữ là 5,3/1. VTC do rượu
30%, do tăng triglycerid 23,3%, do sỏi 7,5%, do giun 5,8%, nguyên nhân chưa xác định 33,34%. VTC nhẹ
-54,2% và VTC nặng 45,8%. Theo Balthazar: chủ yếu là VTC mức độ E (54,2%), mức độ D (26,7%). Có
67,5% BN có Imrie < 3 và 29,2% BN có APACHE II ≥ 8.
Trong nhóm nghiên cứu: Tỷ lệ tuyệt đối BCĐNTT/LY là 10,24 ± 6,83 [1,21-36,3]. Nồng độ CRP trung
bình 12,75 ± 10,83 mg/dl [0,062-38,5]. Nồng độ PCT trung bình: 2,49 ± 6,99 ng/ml [0,02 -58,52].
Bảng 1. Sự thay đổi của BCĐNTT/LY, CRP, PCT ở VTC
Chỉ số
sốt Mức độ Hoại tử Imrie APACHe
Có Không Nặng Nhẹ Có Không >3 8 <8
BCĐNTT/
LY
40 80 55 65 35 85 39 81 35 85
12,8 ± 7,0 8,9 ± 6,4
13,8 ±
7,4
7,2 ± 4,5
14,1 ±
7,1
8,7 ± 6,1
13,5 ±
6,9
8,7 ± 6,2
13,9 ±
7,3
8,7± 6,2
CRP 17,9± 9,7
10,1±
10,5
16,5
±10,9
9,6 ± 9,7
15,6
±11,1
11,6 ±
10,6
16,9 ±
11,4
10,8 ±
9,9
18,2 ±
10,9
10,5 ±
10,0
PCT 4,4 ± 10,7 1,5 ± 3,8 4,8 ± 9,8 0,5 ± 0,6 5,8 ± 11,8 1,1 ± 2,4 4,0 ± 7,5 1,8 ± 6,7 4,8 ± 7,9 1,5 ± 6,4
Nhận xét: Tỷ lệ BCĐNTT/LY ở bệnh nhân VTC có sốt, mức độ nặng, hoại tử, Imrie>3, APACHE>8
cao hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nồng độ CRP, PCT trung bình ở bệnh nhân VTC có sốt, mức độ
nặng, APACHE>8 cao hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05.Không có sự khác biệt về nồng độ CRP trung
bình giữa 2 nhóm VTC hoại tử và không hoại tử.
Biểu đồ 1. Đường cong ROC phân biệt VTC
nặng và nhẹ theo tỷ lệ BCĐNTT/LY
Biểu đồ 2. Đường cong ROC phân biệt VTC
nặng và nhẹ theo nồng độ PCT
Nhận xét: Diện tích dưới đường cong ROC là
0,809. Điểm cut - off của tỷ lệ BCĐNTT/LY = 9,91
với độ nhạy 72,7% và độ đặc hiệu 80%.
Nhận xét: Diện tích dưới đường cong ROC là
0,810, Điểm cut-off của nồng độ PCT = 0,541 với
độ nhạy 76,4% và độ đặc hiệu 73,8%.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX322
Biểu đồ 3. So sánh đường cong ROC phân
biệt VTC nặng và nhẹ theo tỷ lệ BCĐNTT/LY,
CRP, PCT
Nhận xét: Tỷ lệ BCĐNTT/LY (AUC = 80,9%,
p= 0,000) và nồng độ PCT (AUC = 81%, p= 0,000)
có giá trị cao như nhau trong chẩn đoán VTC nặng
và VTC nhẹ, CRP (AUC = 68,5%; P= 0,001) có
giá trị thấp trong phân biệt VTC nặng và VTC nhẹ.
IV. BàN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ tuyệt
đối BCĐNTT/LY là 10,24 ± 6,83 [1,21-36,3]. Tỷ lệ
BCĐNTT/LY trung bình ở nhóm bệnh nhân VTC
nặng là 13,78 ± 7,42 cao hơn hẳn VTC nhẹ là 7,24
± 4,51, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<
0,01(bảng 1). Kết quả của chúng tôi tương tự với
các tác giả trên thế giới. Goral V (2012) công bố
kết quả tỷ lệ BCĐNTT/LY là 12,71 (1,95 ± 34,7)
ở bệnh nhân VTC nặng (bình thường tỷ lệ này
2,63), p <0,001 [5]. Suppiah A nhận thấy: Ngày 0
không có sự khác biệt giữa hai nhóm VTC nặng và
VTC nhẹ. Trong VTC nhẹ, tỷ lệ BCĐNTT/LY cao
nhất trong ngày nhập viện (13,22 ± 14,8) và giảm
nhanh về mức bình thường 48 giờ tiếp theo (7,21
± 6,42). Đối với VTC nặng, tỷ lệ BCĐNTT/LY đạt
đỉnh trong ngày thứ 1 (19,16 ± 12,8) sau đó bắt
đầu giảm nhưng giữ mức cao trong ngày 2 (14,86
± 12,8) cho thấy rõ nét chứng viêm đang diễn ra
[4]. Như vậy với xét nghiệm tế bào máu ngoại vi
có thể thực hiện ở các tuyến, tỷ lệ BCĐNTT/LY
và diễn biến của tỷ lệ này trong các ngày kế tiếp
của VTC có thể giúp ích rất nhiều cho các thầy
thuốc lâm sàng tiên lượng nhanh bệnh nhân VTC
trong điều kiện không có các xét nghiệm CRP
và Procalcitonin. Nghiên cứu của chúng tôi thấy
rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của tỷ
lệ BCĐNTT/LY trung bình giữa nhóm bệnh nhân
VTC nặng và VTC nhẹ, nhóm VTC hoại tử và
không hoại tử, VTC có sốt và không sốt, nhóm
VTC có điểm Imrie ≥3 và Imrie <3, nhóm VTC có
APACHE II ≥8 và APACHE <8, do đó việc theo dõi
tỷ lệ BCĐNTT/LY cho phép đánh giá sớm và đáng
tin cậy của nhiễm trùng tụy liên quan lâm sàng và
tiên lượng toàn diện trong VTC, thông số đơn giản
này đóng góp cho sự phân tầng phát triển ở bệnh
nhân nguy cơ phát triển biến chứng.
Nồng độ CRP trung bình của nhóm nghiên
cứu: 12,75 ± 10,83 mg/dl, tương tự kết quả của
VC Thắng [6]19,51 ± 13,02 mg/dl, ĐQ Út [7]14,9 ±
9,73 mg/dl. Trong nghiên cứu của chúng tôi nồng
độ CRP trung bình ở bệnh nhân VTC nặng, VTC
có sốt, APACHE II ≥8, Imrie ≥3 cao hơn nhưng
không có sự khác biệt theo mức độ hoại tử, tương
tự ĐQ Út; NT Hiếu [7,8]. Arvanitakis nhận thấy,
sự tăng cao liên tục của CRP thường tiên lượng
bệnh nặng [trích 8]. Trong nghiên cứu của chúng
tôi nồng độ PCT trung bình của nhóm nghiên cứu:
2,49 ± 6,99 ng/ml, thấp hơn NTK Thúy và TN
Ánh[1] nồng độ PCT trung bình trong huyết thanh
BN VTC nặng, Imrie>3, APACHE>8 cao hơn có ý
nghĩa thống kê, tương tự NTK Thúy và TN Ánh [1].
Trong nghiên cứu của chúng tôi diện tích
dưới đường cong ROC là 0,809 hay 80,9% với
p < 0,05 như vậy tỷ lệ BCĐNTT/LY có khả năng
phân biệt tốt VTC nặng và VTC nhẹ. Điểm cut-off
của tỷ lệ BCĐNTT/LY = 9,91 với độ nhạy 72,7%,
độ đặc hiệu 80%. Tương tự kết quả nghiên cứu
A Suppiah mức cut-off có hiệu quả nhất cho tỷ lệ
BCĐNTT/LY ở ngày nhập viện thứ 1 là 8,1 với diện
tích dưới đường cong là 0,764 với độ nhạy 51%,
CI 95% (0,664 - 0,864) với p = 0,000. Thấp hơn
ngày 0 là 10,6 diện tích dưới đường cong 0,685
và cao hơn ngày 2 là 4,8 diện tích dưới đường
cong 0,739 [4]. Nghiên cứu của A Suppiah cho
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 323
thấy giá trị của tỷ lệ BCĐNTT/LY được nâng cao
trong ở bệnh nhân VTC và cho thấy sự khác nhau
thực sự có ý nghĩa giữa bệnh nhân VTC nặng và
VTC nhẹ [4]. Azab đã báo cáo tỷ lệ BCĐNTT/LY
là tối ưu hơn bạch cầu, bạch cầu đa nhân trung
tính, lympho bào trong dự báo nhập viện điều trị
tích cực và tử vong ở bệnh nhân VTC [3]. Các tác
giả đã nêu giá trị ngưỡng cho tỷ lệ BCĐNTT/LY ≥
4,7 và khi nghiên cứu ứng dụng của ngưỡng giá
trị này A Suppiah đã tìm thấy một tỷ lệ BCĐNTT/
LY ≥ 4,7 có độ nhạy cao nhất (90,9%) nhưng độ
đặc hiệu thấp nhất (33,1%) là do tính đặc trưng
thấp (22,4%) và PPV (17,7%) [4]. Lợi ích của tỷ lệ
BCĐNTT/LY dễ dàng thực hiện, có thể lặp lại và
không yêu cầu có khí máu động mạch và sự hỗ trợ
của hóa sinh [4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi diện tích
dưới đường cong ROC là 68,5% với p < 0,05 như
vậy nồng độ CRP không có khả năng phân biệt
VTC nặng và VTC nhẹ. Điểm cut-off của CRP =
10,14 mg/dl với độ nhạy 70,9% và độ đặc hiệu
64,6%. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nhiều
tác giả như ĐQ Út là 16,2 mg/dl, độ nhạy 100% và
độ đặc hiệu là 90% [6]. Mantke R nghiên cứu trên
73 bệnh nhân VTC trong đó có 50 bệnh nhân VTC
nặng cho thấy giá trị cut-off của CRP kể từ ngày
thứ 3 kể từ khi bị bệnh là 11,3 mg/dl, độ nhạy 84%,
độ đặc hiệu 60% [9]. Nồng độ CRP theo tác giả
Gurleyik G: cut-off tối ưu 15mg/dl, độ nhạy 83%,
độ đặc hiệu 71% trong phân biệt VTC nặng và
VTC nhẹ theo Atlanta [10].
Trong nghiên cứu của chúng tôi diện tích
dưới đường cong ROC là 81% với p < 0,05, như
vậy nồng độ PCT có khả năng phân biệt tốt VTC
nặng và VTC nhẹ tương tự kết quả của NTK Thúy
và TN Ánh[1] điểm cut-off của PCT là 0,965ng/ml
với độ nhạy 92,2%, độ đặc hiệu 96,2%, diện tích
dưới đường cong ROC là 0,964 với p= 0,000 có
giá trị cao trong phân biệt VTC hoại tử và không
hoại tử. Kết quả của chúng tôi thấp hơn của Woo
SM thì mức cut-off có hiệu quả nhất cho nồng độ
PCT huyết thanh được ước lượng khoảng 1,77ng/
ml với diện tích dưới đường cong ROC là 0,797 và
thấp hơn Muler A và cộng sự [2,11 ], theo tác giả
giá trị cut-off>3,5 ng/ml có ý nghĩa trong việc đánh
giá VTC hoại tử và suy tạng với độ nhạy và độ đặc
hiệu tương ứng là 93% và 98%. Có sự khác biệt
này có lẽ vì đối tượng nghiên cứu của 2 tác giả
trên là đối tượng nghiên cứu của họ gồm nhiều
bệnh nhân VTC nặng có nguy cơ phẫu thuật cao,
được thu thập từ 5 trung tâm phẫu thuật châu Âu
trong vòng 96 giờ sau khi khởi phát triệu chứng,
còn chúng tôi và NTK Thúy và TN Ánh nghiên
cứu bệnh nhân VTC điều trị tại cơ sở nội khoa [1].
Kylanpaa Back nhận thấy PCT có giá trị tiên lượng
VTC nặng với độ nhạy 92%, độ đặc hiệu 84%, đặc
biệt giá trị dự đoán âm tính khá cao 97% trong dự
đoán sự duy đa tạng [12]. Mofidi cũng có nhận xét
tương tự: PCT có giá trị dự báo VTC nặng với độ
nhạy 72%, độ đặc hiệu 86%, AUC = 0,817 [13].
Berger nhận thấy PCT > 1,8 ng/ml, APACHE II >
8, CRP > 120 mg/dl, Hct > 44% là những yếu tố
chính dự báo tiên lượng nặng ở bệnh nhân VTC.
PCT > 3,8 ng/ml có giá trị dự báo suy đa tạng với
tỷ lệ chẩn đoán đúng là 92%, độ nhạy 80%, độ
đặc hiệu 90% [14]. Giá trị cut-off của tác giả Woo
SM ≥1,77ng/ml để phân biệt VTC nặng và VTC
nhẹ theo Atlanta có 32 bệnh nhân VTC có nồng độ
PCT ≥1,77ng/ml [2].
Azab đã đưa ra sự vuợt trội của tỷ lệ BCĐNTT/
LY (AUC = 0,649) để dự đoán nhập viện điều trị
tích cực so với số lượng bạch cầu (AUC = 0,6001)
[3]. Theo Zahorec R (2001), tỷ lệ BCĐNTT/LY
và lypho bào có giá trị cao hơn rất nhiều so với
CRP, bạch cầu, bạch cầu trung tính trong dự báo
về nhiễm khuẩn trong môi trường chăm sóc cấp
cứu. Tỷ lệ BCĐNTT/LY trung bình là 20,9 ± 13,3,
độ nhạy 77,2%, độ đặc hiệu 63%, diện tích dưới
đường cong AUC = 0,73; 95%CI = 0,66 - 0,81 [15].
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ BCĐNTT/LY là 10,24 ± 6,83 ở bệnh nhân
VTC [1,21-36,3]. Tỷ lệ BCĐNTT/LY trung bình,
CRP, Procalcitonin ở bệnh nhân VTC nặng; hoại
tử, Imrie>3, APACHE>8 cao hơn có ý nghĩa thống
kê với p < 0,05. Điểm cut-off của tỷ lệ BCĐNTT/LY
=9,91, Procalcitonin = 0,541 mg/l 81% với p<0,05,
có giá trị cao trong chẩn đoán phân biệt VTC nặng
và VTC nhẹ.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX324
1. Nguyễn thị Kim Thuý.,Trần Ngọc Ánh
(2014) Giá trị của nồng độ Procalcitonin trong tiên
lượng ở bệnh nhân viêm tụy cấp. Tạp chí Y học
Việt Nam; 418: 39-43.
2. Woo SM, Noh MH, Kim BG (2011).
Comparison of Serum Procalcitonin with Ranson,
APACHE II, Glasgow and Balthazar CT Severity
Index Score in Predicting Severity of Acute
Pancreatitis. Korean J Gastroenterol 2011 Jul, 58,
31-33.
3. Azab B, Jaglall N, Atallah JP. Neutrophil-
lymphocyte ratio as a predictor of adverse
outcomes of acute pancreatitis.Pancreatology
2011;11(4): 445–452.
4. ASuppial, Deep Malde, Tameem Arad. The
Prognostic Value of the Neutrophil-Lymphocyte
Ration (NLR) in Acuute Pancreatitis: Indentification
of an Optimal NLR. J Gastrointes Surg (2013); 17:
675-681.
5. VGoral, Nuh Berekatoglu and Nuriye
Mete (2012), ‘’Correlation of Disease Activity, IL-6
and CRP Levels and Leukocytes/Lymphocyte
Ratio Among Patients with Acute Pancreatitis’’,J
Gastroint Dig Syst 2: 112
6. Vũ Công Thắng (2010), Nghiên cứu tiên
lượng VTC theo thang điểm Imrie và Balthazar,
Luận văn bác sỹ nội trú, 10-15.
7. Đỗ Quang Út (2006). Nghiên cứu nồng độ
protein phản ứng C trong huyết thanh bệnh nhân
VTC. Luận văn thạc sĩ Y học, 22-28.
8. Nguyễn Trọng Hiếu (2009), Nghiên cứu giá
trị của Interleukin-6 và protein phản ứng C trong
đánh giá mức độ nặng nhẹ của VTC. Luận án tiến
sỹ Y học, Trường Đại Học Y Hà Nội, 20-30.
9. Mantke R, Pross M, Kunz D. (2002).
Soluble thrombomodulin plasma leves are an
early indication of a lethal course in human acute
pancreatitis, Surgery; 131(4); pp.424-32.
10. Gurleyik G, Cirpici OZ (2004). The value
of Ranson and APACHE II scoring systems,
and serum levels of interleukin-6 and C-reactive
protein inthe early diagnosis of the severity of
acute pancreatitis, Ulus Travma Derg; 10(2); pp.
83-8.
11. A Mule, W Uhl, G Printzem, et al.
(2000), ‘’Role of procalcitonin and granulocyte
colonystimulating factor in the early prediction of
infacted necrosis in severe acute pancreatitis’’,
Gut 2000, 46,233-238
12. Kylanpaa Back ML, Takala A, Kemppainen
EA et al. (2001). Procalcitonin strip test in the early
detection of severe acute pancreatitis. British
Journal of surgery society, 88, 222-271.
13. Mofidi R, Suttie SA, Patil PV (2009).The
value of procalcitonin at predicting the severity
of acute pancreatitis and development of infeced
pancreatic necrosis. Systematic review, 146, 72-
81.
14. Berger HG, Rau BM. (2007). Severe acute
pancreatitis: Clinical course and management.
World J Gastroenterol, 13 (38), 5043-5051.
15. Zahorec R: Ratio of neutrophil to
lymphocyte counts – rapid and simple parameter
of systemic inflammation and stress in critically ill.
Bratisl Lek Listy 2001; 102: 5–14
TàI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_cua_ty_le_bach_cau_da_nhan_trung_tinhlympho_bao_prot.pdf