Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp DE Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ
Ngoài ra cũng cần lưu ý để phân biệt giữa
hình ảnh tế bào khổng lồ với hình ảnh nang
giáp còn nguyên vẹn trên những bệnh nhân
phình giáp(2,8).
Trong ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú
thường thể hiện hình ảnh viêm hạt trong tổn
thương dang bọc (nang), trong khi đó VDQ
không có liên quan đến hình ảnh dạng bọc.
Dịch keo thường không tìm thấy trong bất kỳ
giai đoạn nào của VDQ(7). Điều này phù hợp
với ghi nhận của chúng tôi hình ảnh chất dịch
keo chỉ thấy 1/36 trường hơp (2,7%) tổng số
bệnh nhân VDQ.
Sự có mặt tế bào dạng biểu mô (bán liên)
cũng đại diện cho hình ảnh viêm hạt, có thể
coi đây là một tiêu chuẩn cùng vơi thăm khám
lâm sàng để nghĩ đến VDQ khi thiếu vắng tế
bào khổng lồ. Tế bào dạng biểu mô hầu như
không có mặt trong các trường hợp viêm giáp
không đặc hiệu khác. Ung thư biểu mô tuyến
giáp thể nhú được loại trừ khi tiêu bán có tế
bào dạng biểu mô(2).
Trên tiêu bản có các tế bào dạng biểu mô,
vài tế bào khổng lồ nhiều nhân và ít limphô
bào được xem là những biểu hiện của
VDQ(1,11).
Sự vắng mặt một hoặc nhiều hơn hình ảnh
các tế bào nêu trên không thể loại trừ được
một trường hợp VDQ nhưng sẽ làm tăng thêm
những điều kiện để cho chúng ta chẩn đoán
phân biệt với bệnh lý về bướu giáp khác(4).
Vấn đề khai thác lâm sàng, theo dõi và làm
lại FNA là cần thiết để có một chẩn đoán tế
bào học thích hợp.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp DE Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 23
HÌNH ẢNH TẾ BÀO HỌC TRONG VIÊM TUYẾN GIÁP
DE QUERVAIN: QUA 36 TRƯỜNG HỢP CHỌC HÚT KIM NHỎ
Trần Hòa*, Trần Việt Khoa**, ĐoànThị Trinh***
TÓM TẮT
Mục đích: Xác định đặc điểm tế bào học của viêm giáp De Quervain.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 36 trường hợp viêm tuyến giáp De Quervain được
ghi nhận tại khoa giải phẫu bệnh, bệnh viện C Đà Nẵng qua phương pháp chọc hút kim nhỏ trong 5 năm từ
2001-2006.
Kết quả: Viêm giáp De Quervain chiếm tỷ tệ 5%, tỷ lệ chẩn đoán phù hợp với kết quả mô bệnh học là
89%. Tế bào khổng lồ nhiều nhân có trong 89%, tế bào dạng biểu mô là 97%.
Kết luận: Hình ảnh viêm hạt trên tiêu bản chọc hút kim nhỏ tuyến giáp cho phép nghĩ đến đầu tiên là
viêm giáp De Quervain chẩn đoán tế bào học vẫn là một phương pháp hiệu quả có giá trị trong phân biệt
giữa tổn thương viêm và u ở tuyến giáp.
ABSTRACT
FINE NEEDLE ASPIRATION OF DE QUERVAIN’S THYROIDITIS A CYTOLOGIC
REPORT OF 36 CASES
Tran Hoa, Tran Viet Khoa, Doan Thi Trinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 23 – 27
Purpose: Describes mainly cytological features of De Quervain’s thyroiditis.
Methods: Review 36 cases FNAs of thyroid from patients with De Quervain’s thyroiditis were
examined in the Department of pathology of C Da Nang hospital, Viet Nam in 5 years (2001-2005).
Results: De Quervain’s thyroiditis occupied 5%, cytological and pathologic results have the same
diagnosis in 89% cases. The cytological appearances: multinucleated giant cells in 89 %, and epithelioid
cells in 97 % of cases.
Conclusion: The disease can be diagnosed with aspiration cytology, diagnosis is based on granuloma
with giant cells, epithelioid cells and lymphocytes. The fine needle aspiration is a accurate and valuable
method for the differentiated diagnosis between inflammation and neoplasm..
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tuyến giáp bán cấp De Quervain
(VDQ) là bệnh lý tương đối ít gặp, lâm sàng có
thể chẩn đoán được khi bệnh ở giai đoạn cấp.
Tuy nhiên, trong quá trình tiến triển của
bệnh, ở giai đoạn muộn, lâm sàng rất dễ nhầm
với những bệnh cảnh có liên quan đến tổn
thương bướu và dạng bướu của tuyến giáp.
Việc chẩn đoán phân biệt giữa viêm và bướu
là một điều cần thiết để có được một hướng
điều trị thích hợp cho bệnh nhân.
Chọc hút tế bào học kim nhỏ (FNA) được
xem là một phương tiện thiết thực và hữu ích
giúp cho lâm sàng định bệnh.Qua 36 trường
hợp VDQ được ghi nhận, chúng tôi đánh giá
lại những biểu hiện tế bào học của bệnh lý này
để rút kinh nghiệm cho công việc FNA được
tốt hơn trong chẩn đoán.
* Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện C Đà Nẵng
** Khoa Ngoại Bệnh viện C Đà Nẵng
*** Bệnh viện Vĩnh Toàn Đà Nẵng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh– Tế Bào Bệnh Học 24
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Thu thập số liệu bệnh nhân được làm
FNA tuyến giáp tại khoa giải phẫu bệnh trong
5 năm từ năm 2001-2006.
- Ghi nhận hình ảnh tế bào học dưới kính
hiển vi quang học thông thường với phương
pháp nhuộm Giemsa.
- Đối chứng với những kết quả mô bệnh
học của những bệnh nhân được chẩn đoán
viêm giáp VDQ trước và sau khi có kết quả
giải phẫu bệnh.
- Xem lại tiêu bản và rút kinh nghiệm.
KẾT QUẢ
Ghi nhận được 36 trường hợp VDQ được chẩn
đoán mô bệnh học
Bệnh nhân VDQ 36 tr/h
Bệnh nhân bệnh tuyến giáp 7218 tr/h
Tỷ lệ 5%
Giá trị chẩn đoán giữa tế bào học và mô bệnh
học
Phù hợp
Nhầm lẫn sang
viêm tuyến giáp
loại khác
Nghi ngờ ung
thư
Tổng cộng
32 3 1 36
89% 8,3% 2,7% 100%
Hình ảnh tế bào học
Tế bào khổng lồ 32 89%
Tế bào dạng biểu mô 35 97%
Limpho bào 36 100%
Tế bào nang tuyến giáp 23 50%
Dịch keo 01 2,7%
Bọt bào - -
Tế bào bất thường 1 2,7%
BÀN LUẬN
Bệnh cảnh lâm sàng của viêm giáp De
Quervain đến làm FNA
Các triệu chứng ban đầu của giai đoạn cấp
tính trong VDQ thường bị bệnh nhân bỏ qua
hoăc nhầm lẩn sang bệnh lý khác ở vùng đầu
cổ. Khi bệnh nhân ở giai đoạn muộn VDQ có
hình ảnh của một tổn thương không đối xứng
hoặc có một nốt đơn độc ở thuỳ giáp,do biểu
hiện lâm sàng không điển hình,nên tất cả bệnh
nhân đến làm FNA tại đơn vị chúng tôi luôn
được chẩn đoán là phình giáp hoặc bướu cổ
đơn thuần.
Tỷ lệ VDQ/bệnh lý tuyến giáp có làm FNA
của chúng tôi vào khoảng 5%, điều này phù
hợp với ghi nhận của Martino về VDQ cũng có
tỷ lệ giống như vậy(9). Hình ảnh lâm sàng thể
hiện như một tổn thương dạng bướu cũng đã
được nhiều y văn đề cập, có đến 1/4 trường
hợp VDQ thể hiện hình ảnh dang nốt khu trú
ở thuỳ tuyến giáp(2).
Với tỷ lệ gặp là 5% cho thấy đây là một tỷ
lệ cần lưu ý để lâm sàng xem xét lại trong việc
khai thác lại tiền sử của bệnh nhân trong quá
trình thăm khám.
Việc chẩn đoán phân biệt giữa VDQ với
tổn thương bướu và dạng bướu là một vấn đề
khó khăn của lâm sàng chứ không phải của
chẩn đoán giải phẫu bệnh(18), hơn 2/3 trường
hợp VDQ đã bị lâm sàng nghi ngờ ác tính(16).
Đa số VDQ được làm chẩn đoán tế bào học
khi tổn thương u viêm dạng hạt được hình
thành rõ ở giai đoạn muộn(7).
Như thế việc thực hiện FNA tuyến giáp
vẫn là vấn đề đáng quan tâm và thiết thực hỗ
trợ cho lâm sàng.
Về giá trị của FNA trong chấn đoán viêm giáp
De Quervain
Anderson cho rằng việc chẩn đoán VDQ
có thể thực hiện được bằng chẩn đoán tế bào
học(6). Tỷ lệ phù hợp giữa tế bào học và mô
bệnh học trong chẩn đoán VDQ của chúng tôi
là 89% đã cho thấy FNA vẩn có giá trị và tin
cậy cho lâm sàng và phù hợp với nhận định
nêu trên.
Qua chẩn đoán tế bào học có thể làm giảm đi
tỷ lệ phẫu thuật tuyến giáp không cần thiết đối
với các trường hợp VDQ dạng nốt. Các tác giả
khác cũng nhận định rằng đã giảm từ 67% xuống
còn 43% tổng số các trường hợp phẫu thuật(8).
Sự nhầm lẫn giữa một VDQ với các trường
hợp viêm giáp khác về mặt chẩn đoán tế bào
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 25
học là 8,3%, thật sự không có ý nghĩa trong
vấn đề điều trị ngoại khoa của lâm sàng, vẫn
có khả năng loại trừ tổn thương dạng bướu
khi xem xét trở lại việc điều trị bệnh nhân.
Trong một nghiên cứu khác cho thấy có
đến 7/59 trường hợp VDQ (11,9%) không
được phát hiện trong lần chẩn đoán đầu tiên
khi làm FNA.
Như thế sự nhầm lẫn sang một viêm tuyến
giáp loại khác của VDQ trong chẩn đoán đoán
tế bào học của chúng tôi đối với lâm sàng có
thể chấp nhận được.
Lester Layfield(8) cũng cho rằng chẩn đoán
phân biệt giữa VDQ với viêm giáp mạn tính
Hashimoto là một khó khăn vì hình ảnh tế bào
viêm có một sự giao thoa.Tuy nhiên hình ảnh
chuyển sản tế bào Hurthle, tế bào limpho
trung tâm mầm là tiêu chuẩn để chẩn đoán
phân biệt.
Sự vắng mặt hoại tử bã đậu, số lượng
tương bào không nhiều cũng là những tiêu
chuẩn để chẩn đoán phân biệt giữa VDQ với
các tổn thương viêm đặc hiệu khác như lao,
giang mai(7,12).
Kích thước và số lượng tế bào khổng lồ
trong VDQ có vẻ lớn và nhiều hơn các loại
viêm khác(2,14).
Biểu hiện lâm sàng sẽ giúp cho ta chẩn
đoán phân biệt giữaVDQ với viêm giáp do sờ
nắn. Trong viêm giáp do sờ nắn tổn thương
nhỏ,có xu hướng lan toả(2,18). Hình ảnh tế bào
học có biểu hiện bất thường làm cho chúng tôi
gặp khó khăn trong chẩn đoán nghi ngờ ác
tính chỉ gặp 1 trường hợp tỷ lệ # 2,7 % tổng số
VDQ.Biểu hiện bất thường về mặt tế bào cũng
đã được các tác giả khác đề cập trong một
nghiên cứu của Ofner C cho thấy 13/31 (42%)
trường hợp VDQ và của Sabb có 1/14 (7,1 %)
trường hợp VDQ có hình ảnh tế bào nghi ngờ
ác tính(13,15). Nhưng những biểu hiện này chỉ được
thấy khi VDQ ở giai đoạn cấp.
Y văn đã ghi nhận có hình ảnh hoạt động của
nhân ở các tế bào xơ non trong giai đoạn cấp và
các tế bào biểu mô cũng thể hiện hình ảnh bất
thường nhẹ do phản ứng viêm(2,5,7). Có lẽ đây
chính là những nguyên nhân đã gây ra những
khó khăn cho việc chẩn đoán VDQ khi chúng tôi
còn ít kinh nghiệm để đánh giá tiêu bản.
Sự thay đổi hình thái tế bào trong giai
đoạn viêm cấp được thể hiện trên tiêu bản là
chuyện đương nhiên. Vấn đề điều trị, theo dõi
và làm lại FNA sẽ có kết luận chính xác hơn.
Chẩn đoán VDQ bằng phương pháp tế bào
học chọc hút ở những tổn thương giai đoạn muộn
vẫn là phương pháp có giá trị đáng tin cậy.
Về hình ảnh tế bào học trên tiêu bản
Theo Lester Layfield(8): Các tiêu chuẩn về
hình ảnh tế bào để chẩn đoán VDQ:
- Tế bào khổng lồ nhiều nhân
- Thâm nhiễm hổn hợp các tế bào viêm và
mô bào.
- Tế bào nang thoái hoá
- Chất nền gồm những mảnh vụn tế bào và
dịch keo.
- U hạt
Theo tác giả Garcia(4):
- Các tế bào nang có những hạt trong
không bào và/hoặc những tế bào nang có
chuyển dạng.
- Tế bào khổng lồ nhiều nhân
- Tế bào dạng biểu mô (bán liên)
- Có nền viêm mạn hoặc cấp tính
- Vắng mặt các tế bào nang tăng hoạt,
phồng bào, các limpho bào chuyển dạng.
Ngoài ra các tác giả khác đều nhấn mạnh
hình ảnh viêm hạt gồm tế bào khổng lồ nhiều
nhân, tế bào dạng biểu mô trong VDQ.
Trong những trường hợp VDQ được
chúng tôi ghi nhận: hình ảnh tế bào khổng lồ
và tế bào dạng biểu mô luôn có mặt hầu hết
trên tiêu bản có tỷ lệ lần lượt là 89% và 97%.
Điều này cũng phù hợp với nhận định của y
văn và các tác giả khác như: Tamas
Solymosi(16) 95% tiêu bản có tế bào khổng lồ và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh– Tế Bào Bệnh Học 26
Sabb(15) 100% tiêu bản có tế bào này.
Hình ảnh tế bào khổng lồ nhiều nhân được
coi là tiêu chuẩn không cần bàn cãi của
VDQ(16). Theo Ngô Thu Thoa để chẩn đoán
VDQ là có từ 2 –6 tế bào khổng lồ trên 1 vi
trường lớn(10).
Số lượng và kích thước của tế bào khổng lồ
nhiều nhân luôn được các tác giả nhấn
mạnh(2,14,17). Đây cũng còn là tính chất để chẩn
đoán phân biệt giữa hình ảnh tế bào này trong
VDQ với sự có mặt tế bào khổng lồ trong ung
thư biểu mô tuyến giáp thể nhú(8.14). Số lượng
nhân của tế bào khổng lồ trong ung thư thể
nhú ít hơn trong VDQ(8). Ở VDQ số lượng
nhân của tế bào khổng lồ có khi lên đến hằng
trăm nhân(11).
Ngoài ra cũng cần lưu ý để phân biệt giữa
hình ảnh tế bào khổng lồ với hình ảnh nang
giáp còn nguyên vẹn trên những bệnh nhân
phình giáp(2,8).
Trong ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú
thường thể hiện hình ảnh viêm hạt trong tổn
thương dang bọc (nang), trong khi đó VDQ
không có liên quan đến hình ảnh dạng bọc.
Dịch keo thường không tìm thấy trong bất kỳ
giai đoạn nào của VDQ(7). Điều này phù hợp
với ghi nhận của chúng tôi hình ảnh chất dịch
keo chỉ thấy 1/36 trường hơp (2,7%) tổng số
bệnh nhân VDQ.
Sự có mặt tế bào dạng biểu mô (bán liên)
cũng đại diện cho hình ảnh viêm hạt, có thể
coi đây là một tiêu chuẩn cùng vơi thăm khám
lâm sàng để nghĩ đến VDQ khi thiếu vắng tế
bào khổng lồ. Tế bào dạng biểu mô hầu như
không có mặt trong các trường hợp viêm giáp
không đặc hiệu khác. Ung thư biểu mô tuyến
giáp thể nhú được loại trừ khi tiêu bán có tế
bào dạng biểu mô(2).
Trên tiêu bản có các tế bào dạng biểu mô,
vài tế bào khổng lồ nhiều nhân và ít limphô
bào được xem là những biểu hiện của
VDQ(1,11).
Sự vắng mặt một hoặc nhiều hơn hình ảnh
các tế bào nêu trên không thể loại trừ được
một trường hợp VDQ nhưng sẽ làm tăng thêm
những điều kiện để cho chúng ta chẩn đoán
phân biệt với bệnh lý về bướu giáp khác(4).
Vấn đề khai thác lâm sàng, theo dõi và làm
lại FNA là cần thiết để có một chẩn đoán tế
bào học thích hợp.
KẾT LUẬN
Qua 36 trường hợp Viêm tuyến giáp De
Quervain (VDQ) được ghi nhận tại khoa Giải
phẫu bệnh bệnh viện C Đà nẵng từ 2001 đến
2006 cho thấy :
- Tổn thương giống bướu của VDQ chiếm
tỷ lệ 5% tổng số bệnh lý tuyến giáp đến làm
choc hút tế bào học kim nhỏ (FNA).
- Tỷ lệ chẩn đoán phù hợp giữa tế bào học
và mô bệnh học là 89%, chỉ có 2,7% gặp khó
khăn trong chẩn đoán là nghi ngờ ác tính.
- Sự có măt của hình ảnh viêm hạt nổi bật
là tế bào khổng lồ nhiều nhân, tế bào dạng
biểu mô (bán liên) trên tiêu bản chọc hút từ
tuyến giáp có thể coi là đặc điểm cho phép
nghĩ đến VDQ.
- Chẩn đoán tế bào học vẫn là phương
pháp có hiệu quả để phân biệt giữa viêm và
bướu trong bệnh lý tuyến giáp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AndraR F, Mary KS (1998)-Thyroid aspirasition
cytopathology –in: Atkinson-Atlas of difficult diagnoses
in cytopathology-W.B Sauders company p 434
2. DeMay (1998)-Thyroid-in: Richard Demay-The art and
science of cytopathology-ASCP- CD-ROM.
3. Duininck TM, VanHeẻden JA (2002) De quervain`s
thyroiditis surgical experience-Endocr pract 2002 Jul-
Aug.8(4)255-8.
4. Garcia S, (1997) –Fine needle aspiration of subacute
granulomatouss thyroiditis (De Quervain’s thyroiditis): a
clinico-cytologic review of 35 cases-Diagn-cytopathol 1997
Mar,16(3) 214-20.
5. Huygo GD (1991) Thyroid in: Marluse Bibo –
Comprehensive cytopathology-WB Saunders company.p
651.
6. Kaarle OF (1990)-Thyroid gland –in: John M.Kissane-
Anderson`s pathology-Vol 2 ninth edition –The CV Mosby
company p 1551.
7. Kim R G (2004) Thyroid gland fine needle aspirasition-in:
Morden cytopathology-Churchill Livingstons p 741.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 27
8. Lester Layfield (1997)-Thyroid and Parathyroid-in:Lester
Layfield-Cytopathology of the Head and neck-ASCP 165-
166.
9. Martino E, Burrattil, Bactalenal (1987) High prevalence of
subacute thyroiditis during summer season in Italy –
J.endocrinol invest-1987-10-321323.
10. Ngô Thu Thoa (1989) -Chẩn đoán tế bào học tuyến giáp
trạng – trong: Chẩn đoán tế bào học các khối u ác tính -
Bệnh viện K Hà nội trang 47
11. Nguyen GK, Lee MKW.,(2005) Fine needle aspiration of
the thyroid-An overview-in:Cytojournal 2:12.
12. Nguyễn Vượng, Lê Trung Thọ (1983) chẩn đoán tế bào
học một số bệnh của tuyến giáp – trong: Tổng quan và
chuyên khảo ngắn -Chẩn đoán tế bào học một số bệnh
thường gặp qua chọc hút tổn thương bằng kim nhỏ-Viện
thông tin thư viện y học Trung Ương, trang 82-83.
13. Ofner C, Hittmain A,(1994) Fine needle aspiration of
subacute De Quervain’s thyroiditis in a endemic goitre
area – Cytopathology 1994,Feb 5(1) 33-40.
14. Phillip F, Jamie LC., Thomes FK (1989) Thyroid in: Fine
needle aspiration cytopathology lymph node, thyroid &
salivarry gland p 103-104.
15. Sabb NS, Salti I (2006)-Subacute thyroiditis: fine neeedle
aspiration cytopathology of 14 cases presenting with
thyroid nodules- Diagn-cytopathol 2006 Jan. 34(1): 18-23.
16. Tamas S (1999) Subacute grạnulomatous (De Quervain’s)
thyroiditis-in: The thyroid CD –Medi-cico-CD-ROM.
17. Tosten L (1989) Aspiration biopsy cytopathology of
thyroid-in:Joseph A.Línk-Clinical aspiration cytology-
second Edition –J.B Lippincott company –p 65.
18. William AM (1984) –Tumor like lessions in: Tumor of
thyroid gland-Supplement-AFIP-s6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hinh_anh_te_bao_hoc_trong_viem_tuyen_giap_de_quervain_qua_36.pdf