Các nghiên cứu cho thấy sinh lý bệnh của
NKH là quá trình mất cân bằng của gây viêm và
kháng viêm dù với lượng lớn cytokin kháng
viêm được phóng thích ra. IL-10 có hoạt tính
kháng viêm thông qua ức chế tạo các cytokin gây
viêm do hoạt hóa bạch cầu đơn nhân, ức chế
biểu hiện yếu tố hòa hợp tổ chức loại II bởi bạch
cầu đơn nhân và đại thực bào, ức chế quá trình
giết vi khuẩn trong nội bào.
Nồng độ chất này tại T6 ở nhóm sống là 53,9
(127,8) pg/ml và ở nhóm tử vong là 205,7 (464,1)
pg/ml với p =0,001; ở thời điểm T24 nồng độ IL-
10 ở nhóm tử vong là 95 (94,4) pg/ml và ở nhóm
sống là 16,6 (23,9) pg/ml với p =0,0001. Qua phân
tích đa biến chúng tôi chỉ ghi nhận IL-10 tại thời
điểm T24 liên quan với tử vong với p =0,006; OR
=1,028 (KTC 95% 1,008-1,048).
Nghiên cứu của Anne K. Lehmann cũng ghi
nhận IL-10 tăng cao ở nhóm tử vong trong SNK
do não mô cầu. Trên 65 bệnh nhân NKH nặng,
Charalambos A Gogos đo nồng độ các cytokin
gây viêm IL-1, IL-6, TNF-α và các cytokin kháng
viêm IL-10, IL-1ra, và kháng thụ thể hòa tan của
TNF-α. Kết quả cho thấy các cytokin tăng trong
NKH. Tuy nhiên giống như nghiên cứu của
chúng tôi, tác giả ghi nhận chỉ IL-10 và TNF tăng
cao liên quan đến tử vong và IL-10 còn tăng kéo
dài ở bệnh nhân tử vong.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị tiên lượng của tnf-Α, il-1β, il-6 và il-10 trong sốc nhiễm khuẩn ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 132
GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG CỦA TNF-α, IL-1β, IL-6 VÀ IL-10
TRONG SỐC NHIỄM KHUẨN Ở TRẺ EM
Phùng Nguyễn Thế Nguyên*, Trần Diệp Tuấn*, Đoàn Thị Ngọc Diệp*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề - Mục tiêu: Sốc nhiễm khuẩn (SNK) là nguyên nhân tử vong hàng đầu tại khoa săn sóc tăng
cường nhi. Cytokin là các chất có vai trò rất quan trọng trong bệnh sinh của SNK. Nghiên cứu các cytokin gây
viêm và kháng viêm quan trọng trong SNK này nhằm xác định giá trị của chúng trong tiên lượng bệnh nhi SNK.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu, trên 74 trẻ SNK nhập khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh
viện Nhi đồng 1 từ tháng 10/2008 đến 4/2011.
Kết quả: Đa số trẻ dưới 5 tuổi (81,5%), nam chiếm 46,8%. Suy dinh dưỡng chiếm 14,9%. Hầu hết trẻ nhập
viện trong tình trạng rất nặng 100% sốc mất bù, 55,4% huyết áp không đo được, rối loạn tri giác với lơ mơ và mê
là 73%, 48,6% phải giúp thở hay bóp bóng lúc nhập viện, chỉ số Prism trung bình là 26,6 (10), 94,6% rối loạn
chức năng đa cơ quan. Tỷ lệ tăng IL-1β là 20,3%, IL-6 là 100%, TNF-α là 47,3% và IL-10 là 95,6%. Giá trị
trung bình của các cytokin này lúc nhập viện: IL-1β là 20,9 (56,1) pg/ml, IL-6 2569,2 (5836,4) pg/ml, IL-10 là
152,9 (271,7) pg/ml và TNF-α là 50,2 (73,3) pg/ml. Tất cả các cytokin này có nồng độ giảm dần trong 24 giờ theo
dõi. TNF-α và IL-10 tại T24 là các cytokin liên quan đến tử vong. IL-10 tại thời điểm 24 giờ có giá trị tiên lượng
tử vong với diện tích dưới đường cong ROC là 0,839 KTC 95% là 0,738-0,939. Điểm cắt phân cách giữa nhóm
sống và tử vong là 21,135 pg/ml với độ nhạy là 80% và độ chuyên là 77,3%.
Kết luận: IL-6 tăng trong 100% trường hợp SNK kế đến là IL-10, TNF-α và IL-1β. Các cytokin tăng cao
vào thời điểm chẩn đoán, nhưng không khác biệt giữa nhóm tử vong và nhóm sống. IL-10 tại T24 liên quan với
thang điểm PRISM. IL-10 và TNF-α tại thời điểm 24 giờ khác biệt giữa nhóm tử vong và nhóm sống.
Từ khóa: nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn, cytokin.
ABSTRACT
TO ASSESS THE VALUES OF TNF-α, IL-1β, IL-6 AND IL-10 FOR OUTCOME IN PEDIATRIC SEPTIS
SHOCK
Phung Nguyen The Nguyen, Tran Diep Tuan, Doan Thi Ngoc Diep
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 132 - 137
Background – Objectives: Septic shock is the leading cause of death in Pediatric Intensive Care Unit.
Cytokines are substances that play an important role in the pathogenesis of septic shock. This study of
inflammatory and anti-inflammatory cytokine is important to determine their value for prognosis of pediatric
septic shock.
Methods: Prospective cohort study 74 septic shock cases in Intensive Care Unit and Emergency
Department, Children's Hospital 1 from September 10/2008 to 4/2011.
Results: Most children are under 5 years old (81.5%), 46.8% are boys. Malnutrition occupies 14.9%. Most
children were admitted to hospital in very serious condition, 100% decompensated shock, 55.4% unmeasured
* Bộ Môn Nhi - Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: Ths. Bs Phùng Nguyễn Thế Nguyên ĐT: 0989043858 Email: phungthenguyen@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 133
blood pressure, 73% disorder of consciousness with confusion and coma, 48.6% needed to intubated at admission,
PRISM II averages 26.6 (10), 94.6% multi-organ dysfunction. Increasing rate IL-1β was 20.3%, IL-6 was 100%,
TNF-α was 47.3% and IL-10 was 95.6%. The average value of these cytokines at admission are IL-1β là 20.9
(56.1) pg/ml, IL-6 2569.2 (5836.4) pg/ml, IL-10 152.9 (271.7) pg/ml and TNF-α 50.2 (73.3) pg/ml. Level of all
these cytokines gradually decreased in 24 hour monitoring. TNF-α and IL-10 cytokines at T24 is associated with
mortality. IL-10 at T24 value is worth prognosticating mortality that the under ROC curve area is 0.839 (95% CI
0.738 - 0.939). Point cut division between survival and nonsurvival groups was 21.135 pg/ml with sensitivity
80% and specificity 77.3%.
Conclusion: IL-6 increased in 100% septic shock case, next was IL-10, TNF-α and IL-1β. These cytokines
increased at the diagnosis point, but no difference between the survival and nonsurvival group. Increased IL-10
and TNF-α at the time of 24th hour was different between the survival and nonsurvival groups.
Key words: sepsis, septic shock, cytokine.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốc nhiễm khuẩn (SNK) là nguyên nhân sốc
và tử vong hàng đầu tại khoa săn sóc tăng cường
nhi hiện nay. Bệnh sinh của nhiễm khuẩn huyết
(NKH) và SNK là phức tạp và ngày càng được
nghiên cứu nhiều. Chẩn đoán và điều trị cũng
như theo dõi bệnh có rất nhiều tiến bộ và thống
nhất trên thế giới và đang được áp dụng tại Việt
Nam. Có rất nhiều yếu tố giúp tiên lượng, chẩn
đoán và theo dõi điều trị. Nhưng không có yếu tố
nào có giá trị chắc chắn. Cytokin là các chất đóng
vai trò chính trong bệnh sinh của NKH. Chúng
được tiết ra bởi nhiều loại tế bào và gây nên rối
lọan chức năng các cơ quan trong NKH. Nhiều
cytokin đã được nghiên cứu trong NKH và SNK.
Các cytokin quan trọng trong bệnh sinh của SNK
bao gồm IL-1, IL-6, IL-8, IL-10 và TNF-α(6). Các
nghiên cứu về các cytokin này được thực hiện
nhiều trên thế giới, nhất là ở người lớn. Các
cytokin này tăng cao trong NKH nặng và SNK và
tăng cao trong giai đoạn đầu của bệnh. Một số
nghiên cứu cho rằng diễn tiến của các chất này có
ý nghĩa hơn nồng độ đỉnh của chúng trong tiên
lượng bệnh. Khoa Hồi sức-Cấp cứu Bệnh viện
Nhi đồng 1 là trung tâm hồi sức Nhi của Miền
Nam Viêt Nam. SNK là bệnh lý thường gặp tại
đây và tỷ lệ tử vong còn rất cao (70,2%)(11). Nhằm
tìm hiểu vai trò của cytokin trong SNK và giá trị
tiên lượng tử vong của các chất này trong SNK.
Chúng tôi thực hiện định lượng các cytokin quan
trọng này và động học của chúng trong SNK.
PHƯƠNG PHÁP - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện đoàn hệ tiền cứu theo
dõi từ khi nhập viện cho đến khi xuất viện hay
tử vong.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm xác định mối liên quan của TNF-α, IL-
1β, IL-6 và IL-10 với tử vong trong SNK ở trẻ em.
Tiêu chí chọn bệnh
Tất cả trẻ nhập khoa Cấp cứu - Hồi sức Bệnh
viện Nhi đồng 1 trong thời gian từ 10/2008 đến
4/2011 được chẩn đoán SNK (bao gồm rối loạn
chức năng tuần hoàn và tình trạng nhiễm
khuẩn). SNK: theo tiêu chuẩn về chẩn đoán SNK
đã thống nhất của Hội thảo Quốc tế về NKH
năm 2002(4).
Tiêu chí loại trừ
Loại tất cả trẻ < 2 tháng, trẻ nhiễm HIV, trẻ có
bệnh tim bẩm sinh tím hay có bệnh lý bẩm sinh
ảnh hưởng trên tiên lượng như bại não, bất
thường bẩm sinh thần kinh cơ, nội tiết. Trẻ có rối
loạn chức năng các cơ quan trước khi nhiễm
khuẩn huyết như suy gan, suy thận trước đó. Trẻ
được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn và đã được
điều trị tuyến trước. Trẻ tử vong trước 24 giờ
theo dõi và sốc do nguyên nhân khác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 134
Cỡ mẫu
Tất cả trẻ SNK thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và
loại trừ sẽ được chọn vào nghiên cứu. Dựa vào
các nghiên cứu của Marks(10) ở trẻ SNK, nghiên
cứu của Wortel(16) và nghiên cứu của Bùi Quốc
Thắng(1), chúng tôi cần ít nhất 72 trường hợp để
nghiên cứu đoán hệ có ý nghĩa.
Phương pháp tiến hành
Lấy 2 ml máu đông gởi khoa xét nghiệm
bệnh viện Chợ Rẫy để đo cytokin nghiên cứu.
Các xét nghiệm này được thực hiện tại thời điểm
0 giờ (thời điểm chẩn đoán), 6 giờ và 24 giờ sau
chẩn đoán. Cytokin được đo bằng máy Evidence
của hãng Randox Laboratories Ltd. Phương
pháp định lượng bằng Công nghệ dàn trãi
biochip (Biochip Array Technology). Kỹ thuật
biochip hóa quang hoàn toàn tự động.
Dữ liệu được thu thập bằng bệnh án mẫu
thống nhất. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
18. So sánh trung bình của các biến số định
lượng giữa các nhóm bằng phép kiểm Mann
whitney test. So sánh tỉ lệ của các biến số định
tính bằng phép kiểm Chi bình phương (χ2) có
hiệu chỉnh Fisher exact test. Sự khác biệt có ý
nghĩa khi p < 0,05.
Chúng tôi định nghĩa rối loạn chức năng các
cơ quan dựa vào Hội thảo Quốc tế về NKH năm
2002(4) và sử dụng thang điểm PRISM II của
Pollack(12). Ngưỡng giá trị tăng của các cytokin
theo ngưỡng giá trị tăng của bệnh viện Chợ Rẫy,
gọi là tăng khi nồng độ của các cytokin đo IL-1β
> 14 pg/ml, TNF-α > 11 pg/ml, IL-6> 1,23 pg/ml
và IL-10 > 1,9 pg/ml.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 74 bệnh nhi thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu.
48,6% trẻ nam, 39,2% trẻ nhũ nhi, 45,6% trẻ tuổi
từ 1 đến 5 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng là 14,9%.
44,6% ở thành phố Hồ Chí Minh. Biểu hiện của
hội chứng đáp ứng viêm hệ thống bao gồm tăng
thân nhiệt 56,8%, mạch nhanh 93,2%, thở chậm,
ngưng thở 48,6%. Tất cả đều có huyết áp giảm
với 44,6% không đo đựơc. 94,6% rối loạn chức
năng đa cơ quan và điểm PRISM II trung bình là
26,6(10).
Bảng 1: Nồng độ cytokin trung bình và tỷ lệ tăng
Đặc điểm T0 T6 T24
IL-1β M SD) 20,9 (56,1) 6,8 (8,6) 5,2 (10,3)
Tăng n (%) 15 (20,3) 12 (16,2) 7 (9,5)
IL-6
M (SD) 2569,2
(5836,4)
1539,1
(4169,3)
836,8
(2874,4)
Tăng n (%) 74 (100) 74 (100) 74 (100)
TNF-α M (SD) 50,2 (73,3) 22,2 (45,9) 18,5 (28,9)
Tăng n (%) 35 (47,3) 34 (45,9) 29 (39,2)
IL-10 M (SD) 152,9 (271,7) 115,4
(317,5)
48,4
(73,3)
Tăng n (%) 71 (95,6) 73 (98,6) 64 (86,5)
Nồng độ cytokin tính bằng pg/ml
Chúng tôi có 30 trường hợp tử vong
(32,6%). Chúng tôi phân tích đơn biến để so
sánh khác biệt cytokin giữa nhóm sống và tử
vong. Kết quả IL-1β tại 3 thời điểm không có
sự khác biệt giữa nhóm sống và tử vong. IL-6,
IL-10 và TNF-α tại T0 không khác biệt giữa
nhóm sống và tử vong. Tuy nhiên IL-6, IL-10
và TNF-α tại T6 và T24 khác biệt giữa nhóm
sống và tử vong như hình sau.
Hình 1: So sánh nồng độ cytokine giữa nhóm sống và tử. (Hình trụ là nhóm tử và hình tháp là nhóm sống)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 135
Tiến hành phân tích đa biến các biến có ý
nghĩa trên ghi nhận chỉ có IL-10 tại T24 liên
quan đến tử vong với p = 0,006, OR =1,028,
KTC 95% là 1,008-1,048 và TNF-α tại T24 liên
quan đến tử vong với p = 0,015, OR =1,079,
KTC 95% là 1,015-1,147.
Bảng 2. Giá trị tiên lượng tử vong theo TNF-α và IL-
10.
Cytoki
n
Giá trị
Tử
n(%)
Sống
n(%)
P
OR
95% CI
TNF-α >4,42 26 (50) 26 (50)
0,019
4,5
(1,34-
15,12)
≤ 4,42 4 (18,2) 18 (81,8)
IL-10 >21,35 23 (69,7) 10 (30,3)
0,0001
11,2
(3,7-33,6) ≤21,35 7 (17,1) 34 (82,9)
Diện tích dưới đường cong ROC của TNF-α
là 0,756 KTC 95% là 0,632-0,880. Điểm cắt phân
cách giữa nhóm sống và tử vong là 4,42 ng/ml
với độ nhạy là 86,7% và độ chuyên là 40,9%.
Diện tích dưới đường cong ROC của IL-10 là
0,839 KTC 95% là 0,738-0,939. Điểm cắt phân
cách giữa nhóm sống và tử vong là 21,135 ng/ml
với độ nhạy là 80% và độ chuyên là 77,3%.
BÀN LUẬN
IL-1β: 20,3% tăng nồng độ IL-1β lúc chẩn
đoán, sau đó số trường hợp tăng chất này giảm
dần ở các thời điểm 6 giờ (16,2%) và 24 giờ
(9,5%). Nồng độ trung bình cao nhất lúc chẩn
đoán là 17,5 (47,5) pg/ml, giảm dần vào 6 giờ (6,8
pg/ml) và 24 giờ (5,2 pg/ml). Chưa có nghiên cứu
ở trẻ em về ngưỡng bình thường của chất này
trong máu. Trên 97 bệnh nhân có hội chứng
nhiễm khuẩn, Casey ghi nhận 37% tăng IL-1β.
Nồng độ IL-1β và TNF-α có khuynh hướng tăng
cao ở nhóm tử vong hơn nhóm sống. Goldies
qua 146 bệnh nhân bệnh nhân có hội chứng
NKH, ghi nhận 29% IL-1β tăng, cytokin này
cũng không tương quan với tử vong. IL-1β trong
nghiên cứu của chúng tôi ở cả 3 thời điểm không
liên quan đến tiên lượng.
Theo Damas(2) nghiên cứu NKH ở khoa săn
sóc tăng cường, tác giả đo TNF-α và IL-1β. Kết
quả IL-1β chỉ tăng nhẹ ở bệnh nhân NKH và
không liên quan đến độ nặng và tử vong trong
NKH.
TNF-α: Trong nghiên cứu của chúng tôi
TNF-α trung bình vào thời điểm nhập viện là
50,2 (73,3) pg/ml. Trong đó nồng độ TNF-α ở
nhóm tử vong là 96,5 (346,2) pg/ml và ở nhóm
sống là 18,6 (28,7) pg/ml, khác biệt ở 2 nhóm
không có ý nghĩa thống kê (p=0,24). Nghiên cứu
của Bùi Quốc Thắng(1) năm 2002 cũng cho thấy
TNF-α trung bình ở 54 trẻ SNK là 30,2 (27,2)
pg/ml và ở 50 trẻ không sốc là 28 (35,6) pg/ml
(p=0,71); nồng độ trung bình trên 49 trẻ tử vong
là 30,7 (31,5) pg/ml và trên 58 trẻ sống là 22,8 (30)
pg/ml, khác biệt có ý nghĩa thống kê p=0,0216.
TNF-α là cytokin gây viêm tăng cao lúc khởi đầu
NKH, khoảng 30-90 phút theo Fong Y(3) nồng độ
sau đó giảm theo thời gian. Theo Florian M.
Kovar(8) nồng độ đạt đỉnh sau 2 giờ tiêm nội độc
tố, giảm dần sau đó và về giá trị bình thường
trong 24 giờ. Do vậy thời điểm bệnh nhân nhập
viện có liên quan đến nồng độ vào thời điểm ban
đầu. Khác biệt giữa 2 nghiên cứu về nồng độ của
chất này có thể do thời điểm nhập viện khác
nhau. Nghiên cứu của Bùi Quốc Thắng trẻ bao
gồm NKH, NHK nặng và SNK. Tính không
đồng nhất về dân số, cũng như nhiều nghiên
cứu khác ghi nhận TNF-α vào thời điểm nhập
liên quan đến tử vong. Các nghiên cứu TNF-α
trong NKH phần lớn ghi nhân không có sự khác
về nồng độ chất này giữa nhóm tử vong và
nhóm sống. Tuy nhiên khi nghiên cứu trong
SNK thì kết quả có khác nhau.
Nghiên cứu ở 32 trẻ nhũ nhi bị NKH, với
tuổi trung bình 4 tháng, Praveen Makhija(9) đo
nồng độ TNF-α và IL-6 tại thời điểm nhập viện
và 48 giờ sau chẩn đoán, kết quả cho thấy nồng
độ trung bình của TNF-α ở bệnh nhi SNK là 338
(144) pg/ml, sau 48 giờ nồng độ chất này giảm
còn 238,7 (138,7). Ở nhóm tử vong giảm TNF-α
không có ý nghĩa thống kê, trong khi ở nhóm
sống TNF-α giảm từ 180 (194,3) pg/ml đến 53
(77) pg/ml.
59 bệnh nhân bị SNK do viêm phúc mạc ở
Pháp, Florence Riches(13) đo nồng độ IL-1β, IL-6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 136
và TNF-α từ ngày 1 đến ngày 7. Không có sự
khác biệt về IL-1β, IL-6 giữa bệnh nhân sống và
tử vong. Ở bệnh nhân sống có nồng độ TNF-α
lúc nhập viện 565 (1325) pg/ml cao hơn bệnh
nhân tử vong 94 (69) pg/ml. 35% bệnh nhân có
TNF-α > 200 pg/ml sống trong khi chỉ có 6%
bệnh nhân có TNF-α > 200 pg/ml tử vong.
Đây là nghiên cứu duy nhất cho kết quả nồng
độ chất gây viêm TNF-α thấp có tỷ lệ tử vong cao
hơn, Nghiên cứu này cũng cho thấy nồng độ chất
này ở ngày đầu tiên của bệnh nhân sống có giá trị
cao hơn nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên
cứu khác. Lý giải vấn đề này, viêm phúc mạc là
cấp cứu ngoại khoa, nếu chẩn đoán và can thiệp
trể thì khả năng tử vong rất cao. Theo tác giả TNF-
α giúp làm khu trú tổn thương do tạo fibrin và vì
vậy làm chậm sự khuếch tán của vi khuẩn.
Nghiên cứu này cũng đặt ra vấn đề phải chăng ở
mỗi vị trí nhiễm khuẩn có một loại cytokin
chuyên biệt khác nhau.
IL-6: Tất cả trẻ đều tăng IL-6 và tăng rất cao,
nồng độ trung bình lúc nhập viện là 2569,2
(5836,4) pg/ml (3,42 - 28913,2 pg/ml). Nghiên cứu
ở 90 trẻ NKH (47 trẻ) và SNK (43 trẻ), Jos R.
Fioretto nhận thấy nồng độ IL-6 ở T0 là 213,1
pg/ml ở nhóm sốc và 63,21 pg/ml ở nhóm NKH,
khác biệt có ý nghĩa p =0,001; tuy nhiên tại T12,
không có khác biệt giữa nhóm sốc và không sốc.
IL-6 liên quan đến thang điểm PRISM (p=0,001).
IL-6 lúc nhập viện giúp chẩn đoán sốc và tiên
lượng trẻ NKH.
Nghiên cứu ở 32 trẻ nhũ nhi bị NKH, với
tuổi trung bình 4 tháng, Praveen Makhija(8) đo
nồng độ TNF-α và IL-6 tại thời điểm nhập viện
và 48 giờ sau chẩn đoán, kết quả cho thấy vào
thời điểm nhập viện nồng độ trung bình của IL-6
ở 10 trẻ SNK là 435,2 (201) pg/ml và 48 giờ sau
556,8 (111,3) pg/ml, khác biệt giữa 2 giá trị này
không có ý nghĩa thống kê. Không có khác biệt
IL-6 giữa 2 thời điểm nhập viện và 48 giờ ở
nhóm tử vong, nhưng ở nhóm sống khác biệt có
ý nghĩa thống kê.
Nồng độ IL-6 ở T0 của nhóm tử vong là
3148,4 (6896,8) pg/ml cao hơn IL-6 của nhóm
trẻ sống là 2174,3 (5035,5), tuy nhiên không có
ý nghĩa thống kê. Kết quả tại T6 nhóm tử vong
IL-6 2391,1 (5394,4) pg/ml và nhóm sống 958,2
(3005,6) pg/ml và ở T24 nồng độ IL-6 ở nhóm
tử vong 1899,2 (4333,7) pg/ml và ở nhóm sống
112,5 (189,1) pg/ml. Phân tích đơn biến cho
thấy IL-6 tại T6 và T24 khác biệt có ý nghĩa
giữa nhóm sống và nhóm tử vong. Tuy nhiên
khi phân tích đa biến trong mối tương tác vơi
TNF và IL-10, chúng tôi không ghi nhận sự
khác biệt của IL-6 có ý nghĩa giữa nhóm sống
và nhóm tử vong. Theo y văn IL-6 là cytokin
được tạo sau TNF-α và IL-1 và được kích thích
bởi 2 cytokin này nhưng tăng kéo dài và tồn
tại lâu hơn trong máu. Theo Steve Webb(15) vai
trò của IL-6 trong NKH vẫn chưa được hiểu
đầy đủ, tuy nhiên có thể sự giảm nhanh nồng
độ của chất này có tiên lượng tốt.
IL-10: Nồng độ IL-10 trong nghiên cứu tại
thời điểm nhập viện là 152,9 (271,7) pg/ml, giới
hạn từ 0,66 - 1530 pg/ml nồng độ chất này giảm
tại các thời điểm T6 (nồng độ trung bình là 115,4
(317,5) pg/ml) và T24 (trung bình là 48,4 (73,3)
pg/ml). Chúng tôi cũng ghi nhận ở nhóm tử
vong giảm nồng độ chất này không khác biệt
giữa các thời điểm nghiên cứu, trong khi ở nhóm
sống khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,024).
Trên 41 bệnh nhân nhiễm não mô cầu tuổi từ
10-93, Anne K. Lehmann ghi nhận 66% tăng IL-
10 và nồng độ IL-10 trung bình ở những bệnh
nhân bị sốc là 21.221 pg/ml (25- 64.500 pg/ml). Ở
những bệnh nhân viêm màng não không sốc
nồng độ trung bình của IL-10 là 119 pg/ml (0-
1050 pg/ml) và ở những bệnh nhân NKH nồng
độ trung bình là 20 pg/ml (0-60 pg/ml). Có tình
trạng tăng tương ứng của IL-10 với các cytokin
gây viêm bao gồm TNF-α, IL-6, IL-8. IL-10 là
cytokin kháng viêm, có mối liên quan giữa
cytokin kháng viêm này với mức độ tổn thương
cơ quan và tình trạng viêm của bệnh nhân.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 137
Tình trạng tăng của IL-10 và của các chất gây
viêm cho thấy có thể IL-10 không giúp bảo vệ
bệnh nhân khỏi tác dụng của các chất gây viêm.
Các nghiên cứu cho thấy sinh lý bệnh của
NKH là quá trình mất cân bằng của gây viêm và
kháng viêm dù với lượng lớn cytokin kháng
viêm được phóng thích ra. IL-10 có hoạt tính
kháng viêm thông qua ức chế tạo các cytokin gây
viêm do hoạt hóa bạch cầu đơn nhân, ức chế
biểu hiện yếu tố hòa hợp tổ chức loại II bởi bạch
cầu đơn nhân và đại thực bào, ức chế quá trình
giết vi khuẩn trong nội bào.
Nồng độ chất này tại T6 ở nhóm sống là 53,9
(127,8) pg/ml và ở nhóm tử vong là 205,7 (464,1)
pg/ml với p =0,001; ở thời điểm T24 nồng độ IL-
10 ở nhóm tử vong là 95 (94,4) pg/ml và ở nhóm
sống là 16,6 (23,9) pg/ml với p =0,0001. Qua phân
tích đa biến chúng tôi chỉ ghi nhận IL-10 tại thời
điểm T24 liên quan với tử vong với p =0,006; OR
=1,028 (KTC 95% 1,008-1,048).
Nghiên cứu của Anne K. Lehmann cũng ghi
nhận IL-10 tăng cao ở nhóm tử vong trong SNK
do não mô cầu. Trên 65 bệnh nhân NKH nặng,
Charalambos A Gogos đo nồng độ các cytokin
gây viêm IL-1, IL-6, TNF-α và các cytokin kháng
viêm IL-10, IL-1ra, và kháng thụ thể hòa tan của
TNF-α. Kết quả cho thấy các cytokin tăng trong
NKH. Tuy nhiên giống như nghiên cứu của
chúng tôi, tác giả ghi nhận chỉ IL-10 và TNF tăng
cao liên quan đến tử vong và IL-10 còn tăng kéo
dài ở bệnh nhân tử vong.
KẾT LUẬN
Qua 74 trường hợp SNK chúng tôi nhận thấy
trẻ nhập viện trong tình trạng rất nặng, sốc mất
bù 100%, phải giúp thở ngay 48,6%, chỉ số
PRISM cao 26,6 (10). IL-6 tăng 100% trường hợp
SNK kế đến là IL-10, TNF-α và IL-1β. Các
cytokin tăng cao vào thời điểm chẩn đoán,
nhưng không khác biệt giữa nhóm tử và sống.
Tăng IL-10 và TNF-α tại thời điểm 24 giờ khác
biệt giữa nhóm tử vong và nhóm sống
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bùi Quốc Thắng (2006). Nghiên cứu lâm sàng và một số biến
đổi sinh học trong nhiễm khuẩn huyết trẻ em, Luận án Tiến sỹ
Y học chuyên ngành nhi khoa. Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh
2. Damas P, Reuter A, Gysen P, et al. (1989). "Tumor necrosis
factor and interleukin-1 serum levels during severe sepsis in
humans." Crit Care Med 17(10), pp 975-978.
3. Fong Y, Lowry S F (1990). "Tumor necrosis factor in
pathophysiology of infection and sepsis." Clin Immunol
Immunopathol 55, pp 157-170.
4. Goldstein B, Giroir B, Randolph A (2005). "International
pediatric sepsis consensus conference: definitions for sepsis
and organ dysfunction in pediatrics." Pediatr Crit Care Med
6(1), pp 2-8.
5. Groeneveld P H, Kwappenberg K M, Langermans J A, et al.
(1997). "Relation between pro- and anti-inflammatory cytokins
and the production of nitric oxide (NO) in severe sepsis."
Cytokin 9(2), pp 138-142.
6. Hack CE, Thijs L G (2000). Role of inflammatory mediators in
sepsis. Septic shock. J.-F. Dhainaut, l. G. Thijs and G. park, WB
saunders: 41-127.
7. Hatherill M, Tibby S M, Turner C, et al. (2000). "Procalcitonin
and cytokin levels: relationship to organ failure and mortality
in pediatric septic shock." Crit Care Med 28(7), pp 2591-2594.
8. Kovar F M, Marsik C, Cvitko T, et al. (2006). "The tumor
necrosis factor alpha -308 G/A polymorphism does not
influence inflammation and coagulation response in human
endotoxemia." Shock 27(3), pp 238Y241.
9. Makhija P, Yadav S, Thakur A (2005). "Tumor Necrosis Factor
Alpha and Interleukin-6 in Infants with Sepsis." Indian
Pediatric 42, pp 1024-1028.
10. Marks J D, Marks C B, Luce J M, et al. (1990). "Plasma tumor
necrosis factor in patients with septic shock: Mortality rate,
incidence of adult respiratory distress syndrome, and effects of
methylprednisolone administration." Am Rev Respir Dis 141,
pp 94-97.
11. Phạm Văn Quang, Bạch Văn Cam B V, Trần Hữu Minh Quân
et al. (2010). "Điều trị ban đầu sốc nhiễm khuẩn trẻ em tại
khoa Cấp Cứu bệnh viện Nhi đồng 1." Y Học Thành phố Hồ
Chí Minh 14(1), tr. 15 -22
12. Pollack M M, Ruttimann U E, Getson P R (1998). "Pediatric
risk of mortality score." Crit Care Med 16, pp 1110-1116.
13. Riches F, Panis Y, Laisne M-J, et al. (1996). "High tumor
necrosis factor serum level associated with increased survival
in patients with abdominal septic shock: A prospective study
in 59 patients." Surgery 120(5), pp 801-807.
14. Simpson A J H, Smith M D, Weverling G J, et al. (2000).
"Prognostic Value of Cytokin Concentrations (Tumor Necrosis
Factor–a, Interleukin-6, and Interleukin-10) and Clinical
Parameters in Severe Melioidosis." The Journal of Infectious
Diseases 181, pp 621-625.
15. Webb S (2002). "The Role of Mediators in Sepsis Resolution."
Advances in sepsis 2(1), pp 8-14.
16. Wortel C H, Möhlen M A o d, Deventer S J V, et al. (1992).
"Effectiveness of a human monoclonal anti-endotoxin
antibody (HA-1A) in gram-negative sepsis: relationship to
endotoxin and cytokin levels." J Infect Dis 166(6), pp 1367-
1374.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_tien_luong_cua_tnf_il_1_il_6_va_il_10_trong_soc_nhie.pdf